Dịch thơ

In bài này

Nhân Hội thảo vừa qua, SV hệ Cử nhân tài năng các khóa của Khoa VH&NN có dịch một số bài thơ tiêu biểu của các học giả nước ngoài tham gia Hội thảo.

 

H. L. HIX

Beyond (A System for Passing)

By H. L. Hix

To say how much I've missed you, I offer this,

at most mist, at least assorted letters, lists, numbers I insist tell stories. I kissed you

last, Dad, in the casket in which you passed on,

to some next place, but last listened for your voice last night, these long years after, will listen next when next oppressed by blue-gray, as I am now, as I, thus lost, am always by your absence.

Source: Poetry (March 2008).

 

THẾ GIỚI BÊN KIA (Một cách thức để nói việc qua đời)

Để nói rằng con nhớ cha nhiều biết bao nhiêu, con dâng tặng đây,

đặc quánh sương mù, rời rạc chữ nghĩa, những câu chuyện con nài nỉ kể. Con hôn cha lần cuối, cha à, trong cỗ quan tài cha đã ra đi,

đến một nơi nào đó, mà lần cuối nghe giọng cha đêm ấy, rồi nhiều năm dài sau, sẽ nghe tiếp vì những buồn thảm còn đè nặng, như con lúc này,

như con vĩnh viễn, mất mát vì cha không còn nữa.

(Lê Ngọc Thảo CNTN2011 dịch)

 

 

 

STAR CHART FOR THE RAINY SEASON

 

We are dealing here with a logic which include its own failure in advance

*

i thirst for god as a doe thirsts for a flowing stream

the skies sing god's glory, the heaven her handy work

*

Day speak to day, one night share knowledge with the next

With no need of tounges, god's song shade the earth

wedding baldachin for the sun and his lucent bride

*

Daughters of the holy city, spirit of the rain

guard my love's sleep until her own desire rouses her

*

my mourning dove, call your falling notes from the ramage

for your dark eyes lull me, your voice soothes like cool's night rain

Seal your bearl with my heart, know your legs and arms with mine

for love is stronger than death, and passion more fierce

Heavy rain cannot quench love, nor flood wash it away

*

(…)

 

ĐẠO HÀNG CHO MÙA MƯA

Chúng ta đối diện ở đây một thứ luận lý hàm chứa sự mất mát chính mình phía trước

*

tôi khao khát Chúa trời như con nai khát khao dòng suối chảy

bầu trời tụng ca vinh quang của Người, thiên đường người tạo tác

*

Ngày nói chuyện với ngày, đêm truyền sự biết cho đêm

không cần miệng lưỡi, bài ca Chúa trời tỏa trùm trái đất

giăng mạng đám cưới cho mặt trời và cô dâu rạng rỡ

*

Những người con gái đất thánh minh, linh hồn mưa dào dạt

bảo vệ giấc ngủ người tôi yêu, đến khi nàng tự đánh thức mình

*

hỡi chim câu u buồn buông lời mi từ những tán cây

hãy để đôi mắt đen láy của mi xoa dịu ta, giọng mi vỗ về tựa mưa đêm mát lành

khóa chặt tâm hồn mi và ta, ràng buộc cơ thể mi và ta

vì tình yêu mạnh hơn sự chết, và niềm đam mê càng mãnh liệt hơn nhiều

Mưa lớn chẳng thể nào dập tắt, lũ quét không thể nào cuốn trôi.

*

(…)

(Lê Trường Sơn, CNTN 2010, dịch)

 

 

MARIKO NAGAI

 

OCTOBER 1943 (By MARIKO NAGAI)

Grandpa kneels

in his garden,

readying the roses

for winter.

He sings quietly,

a tune without words,

words lost somewhere

between Japan

and here,

left behind

in Seattle.

 

THÁNG 10, 1943

Ông quỳ xuống

trong khu vườn của chính mình

sẵn sàng những luống hồng hoa

cho đông giá.

Ông cất lời ca êm ả

một giai điệu không lời,

lời ca lạc lối chơi vơi

giữa Nhật Bản

và nơi này,

bỏ lại

tại Seatle.

(Vũ Nguyễn Nam Khuê CNTN2010 dịch)

 

 

THÁNG 10, 1943

 

Ông quỳ xuống

trong khu vườn của mình,

sửa soạn những bông hoa hồng

cho mùa đông.

Ông hát lặng thinh,

một giai điệu không lời,

ngôn từ mất hút đâu đó

giữa Nhật Bản

và chốn đây,

lãng quên

nơi Seattle.

(Lê Vũ Hồng Thanh CNTN2010 dịch)

 

MAY 1942 (By MARIKO NAGAI)

A dandelion

pokes out

from the floor

board, pushing

into our room

as someone

next door

snores.

 

Tháng 5, 1942

Hoa bồ công anh

vươn lên

từ sàn nhà,

đẩy cửa

vào phòng chúng tôi

như một ai đó

nhà bên

ngáy.

(Lăng Đức Lợi CNTN2010 dịch)

 

June 1942 (By MARIKO NAGAI)

Today, it’s raining

outside as well

as inside

no matter

how many time we

place the cups

and bowls

and plates under

the drips,

they become full

as well as we empty

them. The floor

is muddy, so muddy

that we wear

shoes inside.

 

Tháng 6 1942

Hôm nay, trời đổ mưa

ngoài kia lẫn

trong này

bất kể

bao nhiêu lần bọn tôi

đặt những cốc,

và tô,

và cả đĩa bên dưới

dòng nước dột xuống.

chúng lại đầy

ngay khi bọn tôi đổ

chúng đi. Sàn nhà

ngập tràn, trơn trợt

đến nỗi bọn tôi

lội cả giày vào.

 

(Trần Thục Quyên CNTN2011 dịch)

 

 

SEPTEMBER 1942

 (By MARIKO NAGAI)

Line after line.                                  To the mess hall. To

the bathroom. To sign our lives in.

To sign ourselves out.         To eat. To

bathe.             To talk, to send letters.

Line after line,                      snaking around

the barracks,             around the streets, and

over the streets,

 

barbed wires

 

Separating us from rest of the world,

 

Lines that push us in.           Push us away.

Lines to get                into the bus.

Lines to evacuate us.           Lines that border us in,

to say who belongs

where, who we are,

 

A line that stretches from north to south,                         a horizon.

 

THÁNG 9, 1942

 

Hàng nối hàng.                                  Đến phòng ăn. Đến

phòng tắm. Để bước vào đời mình.

Để tự rút lui.              Để ăn. Để

tắm.                 Để nói, để gửi những dòng thư.

Hàng nối hàng,                      bò trườn quanh

những doanh trại,                             quanh phố phường, và

trên những con đường,

 

dây kẽm gai

 

Ngăn cách chúng ta với phần còn lại của thế giới,

 

Hàng đẩy chúng ta vào nhau.         Đẩy chúng ta xa cách.

Hàng xếp hàng          lên xe buýt.

Hàng di tản chúng ta.           Hàng quấn lấy chúng ta,

để nói ai thuộc về

nơi nào, và ta là ai,

Một hàng duỗi từ bắc đến nam,                              đường chân trời.

 

(Thái Cao Trí Cường CNTN2010 dịch)