Giải cấu trúc và nghiên cứu, phê bình văn học hôm nay

     

Giải cấu trúc là một trào lưu tư tưởng hiện đại trong khoa học xã hội và nhân văn, xuất hiện ở phương Tây từ những năm 60, nhưng vì nhiều lí do mãi cho đến nay người Việt Nam chúng ta mới bắt đầu lác đác nói đến về lí thuyết. Nhưng điều đó không phải như có học giả Việt Nam ở nước ngoài bảo rằng, trào lưu ấy đã được vận dụng rộng rãi từ lâu ở các nước Âu Mĩ, châu á, trừ Việt Nam. Nếu ai có chút lưu ý thì bản thân chúng tôi và một số người khác từ những năm 80 thế kỉ trước đã đề xuất việc thay đổi hệ hình lí luận, tư duy, phê bình, bắt đầu thực hành giải cấu trúc về tính giai cấp, về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, chúng tôi đã tiến hành giải cấu trúc lí thuyết điển hình và đánh giá truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, một hiện tượng sáng tác mới lúc ấy, mà với lí luận cũ, người ta lúng túng mãi không đánh giá được (xem Tính nhân loại và văn học viết năm 1983, Bến quê, một phong cách trần thuật có chiều sâu).Trong những năm gần đây chúng tôi tiến hành giải cấu trúc các lí thuyết cũ, nhận thức tính huyền thoại của chúng (xem Lã Nguyên - Lí luận Nga Xô viết thời hậu kì, Trần Đình Sử - Lí luận văn học: khủng hoảng và lối thoát...). Chính nhờ những hoạt động giải cấu trúc như thế đã góp phần giải thiêng các lí luận ngự trị một thời, mở đường tiếp thu lí luận mới. Nhưng, như mọi người đều biết, tư tưởng mới khi được du nhập thường có hiện tượng bị hiểu lầm, như có nhà phê bình hùng hồn cho rằng giải cấu trúc là phi cấu trúc, là tự do khỏi mọi cấu trúc, là không cần khoa học... vì vậy thiết nghĩ cần giới thiệu cho rõ.

      Giải cấu trúc hay chủ nghĩa giải cấu trúc trước hết là lí thuyết chống lại sự chuyên quyền của chủ nghĩa cấu trúc, nhưng không chỉ có thế. Trước chủ nghĩa cấu trúc người ta giải thích các tác phẩm văn học bằng quan điểm lịch sử, hoàn cảnh xã hội, tiểu sử tác giả, hoàn cảnh sáng tác, ý đồ của tác giả... Chủ nghĩa cấu trúc ra đời chứng minh rằng ý nghĩa của tác phẩm chỉ nằm trong cấu trúc của văn bản, quan điểm lịch sử bị phế bỏ, điều đó làm cho chủ nghĩa cấu trúc trở thành kẻ thù không đội trời chung với chủ nghĩa Mác, và một thời gian dài ở các nước xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa cấu trúc là thứ cấm kị và đối tượng phê phán liên tục. Nhưng có điều lạ lùng này. Tuy hai lí thuyết thù địch nhau, song lại giống nhau hoàn toàn ở một điểm: đó là tin rằng mỗi tác phẩm văn chương chỉ có một nghĩa, một ý nghĩa xác định, bất di dịch, người ta có thể thò tay vào túi và lấy ra, chỉ cần biết nắm được phương pháp này hoặc phương pháp kia. Một khi có nhà phê bình quyền uy nào phán về một tác phẩm nào đó có một tư tưởng nào đó thì tác giả của nó có mà chạy đằng trời cũng không thoát khỏi nhận định ấy, anh ta hoặc hưởng niềm vinh quang hoặc chịu niềm cay đắng, tủi nhục do nhận định kia mang lại. Nhưng đến thời giải cấu trúc thì cái quan niệm kia bị lung lay đến tận gốc.

 

       Có nhiều lí thuyết đưa đến tư tưởng giải cấu trúc.

 

       Một là với chủ nghĩa đối thoại của nhà tư tưởng Nga M. Bakhtin (1929, 1963), ông cho rằng trong tiểu thuyết đa thanh, tác giả không phải là người quyết định tư tưởng của tác phẩm, cái quyết định là quan hệ đối thoại của các nhân vật, bởi vì mỗi nhân vật tồn tại như một nhà tư tưởng. Tác giả cũng chỉ là người tổ chức đối thoại mà thôi.

 

       Hai là với tư tưởng giải cấu trúc của nhà triết học Pháp. J. Derrida (1966), cấu trúc kí hiệu gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt do Saussure đưa ra như là cấu trúc biểu đạt nghĩa cố định, bị Derrida chứng minh rằng trong thực tế người ta chỉ có quan hệ giữa cái biểu đạt và cái biểu đạt, còn cái được biểu đạt thì mịt mù, phần nhiều không biết đâu mà lần. Chẳng hạn khi ta phán tác phẩm A là phản động, thì hai chữ “phản động” cũng chỉ là một “cái biểu đạt” mà thôi, còn “cái được biểu đạt”, tức là cái thực chất phản động của nó trên thực tế như thế nào thì có thể được giải thích muôn hình muôn vẻ, mỗi người nói một khác. Mà mọi sự giải thích như thế suy cho cùng cũng chỉ là những cái biểu đạt. Như thế việc tìm nghĩa (cái được biểu đạt) tưởng là giản đơn, hoá ra hết sức phức tạp, nó cứ bị trì hoãn, kéo dài ra mãi.

 

      Ba là với lí thuyết ngôn ngữ hành vi của nhà ngữ học Mĩ J. L. Austin, thì khác với truyền thống triết học châu Âu quen nhìn phát ngôn như những mệnh đề mà người ta có thể xác định là đúng (chân) hay sai (nguỵ), theo Austin, những lời hứa, lời thề, lời hẹn... chỉ là ngôn ngữ hành vi, không có cơ sở nào để nói là thật hay giả, đúng hay sai. Muốn biết đúng sai phải chờ thực tế. Chẳng hạn trong lễ cưới cô dâu nói tôi đồng ý lấy anh X. làm chồng, có cha cố xác nhận, nhưng cũng chỉ là lời hứa mà thôi. Xét rộng ra, theo J. Culler, ngôn ngữ văn học thực chất cũng là ngôn ngữ hành vi của nhà văn, nhà thơ. Khi nhà thơ nói: “Tôi đã là con của vạn nhà, Là em của vạn kiếp phôi pha, Là anh của vạn đầu em nhỏ...” hay “Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt, Như mẹ như cha, như vợ như chồng...” thì trước hết đó chỉ là lời thề, cái được biểu đạt của nó cần nhiều điều kiện khác nữa để xác nhận. Nói rộng ra nữa trong xã hội đầy rẫy những ngôn ngữ hành vì mà rất khó phán đoán sự thật chân/nguỵ.

 

      Một lí thuyết thứ tư có tác động đến giải cấu trúc là là thuyết về ngữ cảnh. Lí thuyết này cùng với việc phủ nhận ý đồ tác giả trong văn bản vốn có trong lí luận phê bình mới Anh Mĩ, làm truyền thống cho tư tưởng giải cấu trúc Mĩ sau này. ý nghĩa của lời nói tuỳ thuộc vào ngữ cảnh mà xác định chứ không phụ thuộc hoàn toàn vào cấu trúc lời văn. Câu “Anh bê cái bàn ra ngoài sân cho” có thể là lời đề nghị, có thể là lời thách thức, hoặc là lời mỉa mai, biết tỏng là anh ta không bê nổi.  Như thế muốn hiểu nghĩa mà chỉ dựa vào cấu trúc ngôn từ thì không đủ.

 

     Cuối cùng là lí thuyết liên văn bản. Lí thuyết này được gợi ý từ Bakhtin, nhưng được phát triển bởi nhiều người, từ Kristeva, Bloom, de Man, Miller, Genette, Riffater... Trước đây hễ nói tới văn chương người ta nói đến tính độc đáo, độc nhất vô nhị của sáng tác của tác giả. Nhưng với lí thuyết liên văn bản thì mọi sáng tác đều có sự lặp lại, lấy lại, mượn lại ý tưởng, ngôn từ, kết cấu, cốt truyện... của các nhà văn có trước rồi biến đổi đi, cấu tạo lại để làm ra cái mới. Như thế muốn hiểu nghĩa của tác phẩm còn cần phải so sánh đối chiếu, phân tích nhiều mối quan hệ với vô vàn văn bản khác mới có thể xác định, chứ chỉ riêng cấu trúc của nó thì cũng chưa đủ.

 

     Toàn bộ các lí thuyết nêu trên làm nên khuynh hướng “giải cấu trúc”, như thế giải cấu trúc không có nghĩa là huỷ cấu trúc, không có nghĩa là người ta tự do thoát khỏi cấu trúc để mà muốn nói gì thì nói một cách tuỳ tiện, phủ nhận chân lí khách quan, mà là cuộc đi tìm những “nghĩa bị bỏ sót”, “bị quên” hay bị giấu mà lắm khi tác giả của chúng cũng không ý thức hết, mà phải phát hiện bằng cách “đọc kĩ” (Close Reading). Cấu trúc vẫn còn, bởi cấu trúc là phương pháp tạo nghĩa, không có khác biệt, cấu trúc, hệ thống không tạo ra nghĩa. Tuy nhiên cái quan niệm cấu trúc như trước đây, ảo tưởng rằng chỉ tìm ra một vài quan hệ chủ chốt nhất, hoặc chỉ với một số lượng yếu tố ít ỏi nhất mà có hiệu lực giải thích phổ biến nhất, chính xác nhất đã hoàn toàn sụp đổ. Cấu trúc của tác phẩm văn học, giống như R. Barthes trong sách S/Z đã cho thấy, hoá ra nó là cả một hệ tinh tú, như một thiên hà, như cả hệ mặt trời với vô vàn yếu tố, hành tinh, định tinh mà trong điều kiện nhất định mỗi người đọc với đôi mắt thịt chỉ biết được một số rất ít mà thôi, và nhà giải cấu trúc với thao tác của mình khám phá ra các “nghĩa bỏ sót”, phá thế của nghĩa độc tôn, tạo thành tính đa nghĩa.

 

    Hiện nay trên thế giới có nhiều khuynh hướng giải cấu trúc chính. Một là lí thuyết đối thoại của Bakhtin. Hai là lí thuyết của các nhà triết học Pháp như Derrida, Foucault và ba là trường phái Mĩ như các học giả ở Yale như J. H. Miller, Paul de Man, J. Culler... và các phái khác như phê bình nữ quyền...

 

    Paul de Man, nhà giải cấu trúc Mĩ, nhận xét về cách đọc truyền thống có mấy nhận định như sau.  Một, cách đọc truyền thống đặc biệt nhấn mạnh đến đọc đúng và đọc sai. Có những người muốn vượt lên đúng sai, thậm chí cho rằng mọi cách đọc đều hợp lí như nhau cả. Nhưng cái lối né tránh đúng sai chỉ đưa người ta vào con đường lầm lạc, bởi bao giờ đọc đúng sai vẫn chiếm vị trí hàng đầu. Nhắc lại ý này J. Culler khẳng định rằng: “Phán đoán phê bình, cho dù bị các loại điều kiện hạn chế như thế nào, dù khiêm tốn tới mức nào, người ta vẫn phải nói về chân lí.” Hai, do nhu cầu vạch ra cái sai, cái nhầm để khẳng định cái đúng mà người ta hay cho cách đọc này hay hơn cách đọc kia, nhưng thực tế mọi cách đọc đều bị giới hạn bởi cách đọc có trước, bị hoàn cảnh lịch sử trói buộc, phải chỉ ra được các điều kiện đó thì mới chỉ ra được đâu là mù quáng, đâu là sáng tạo. Quả là ranh giới giữa chân/nguỵ, mù quáng/sáng tạo, đọc đúng/đọc nhầm là quan trọng, nhưng sự phận biệt đó dù thế nào vẫn không thể cho phép ta nói như đinh đóng cột về chân lí hay sáng kiến của mình phát hiện. Ba, trong sự đánh giá văn học de Man vẫn nghiêng về phía đề cao các tác phẩm kinh điển, vì đó là bộ phận nền tảng của lịch sử văn học. Tác phẩm càng vĩ đại thì nó càng là cơ sở để chỉ ra lối đọc trước đó là hạn chế và nhầm lẫn. Làm việc với các tác phẩm kinh điển, nhà phê bình có được địa vị ưu tiên, càng có cơ chứng mình cách đọc mới của mình là ưu việt. Nietzsche, Rousseau, Shelley, Baudelaire, Hodeline, Kunderra...đều đã làm như  vậy, và do nêu ra được chân lí mà họ được tôn sùng. Bốn, quá trình phê bình do đó mà không thể tránh được sự lặp lại.

 

De Man đọc lại Rousseau, vạch ra nhầm lẫn mà khẳng định cái mới của ông. Nhưng trong khi đam mê diễn giải cái mới nguời ta lại rât dễ sa vào mù quáng. Theo de Man, cả Rousseau, cả R. Jauss... đêu không tránh khỏi điều đó. Đó là luận điểm chính của ông trong tiểu luận Mù tôi và bừng ngộ. Tư tưởng của de Man cho thấy đọc nhầm là số phận không thể tránh được của phê bình, nghiên cứu văn học. Nhưng điều đó không phải là để dẫn đến tư tưởng hư vô. J. Culler trong lời kết của cuốn sách Bàn về giải cấu trúc đã viết: “Những lời dối trá cho rằng giải cấu trúc là huỷ hoại văn học, khích lệ người đọc đi tự do tuỳ tiện liên tưởng, xoá bỏ ý nghĩa và nội dung biểu đạt, người ta chỉ cần đọc qua một số ví dụ trong vô vàn mẫu mực của phê bình giải cấu trúc, thì có thể thấy ngay đó là sự bịa đặt đến mức buồn cười. Có lẽ tốt nhất, nên hiểu những lời đồn đại ấy như là một lập trường phòng vệ nhằm chống lại các nhà phê bình giải cấu trúc phơi bày chân tướng của ngôn ngữ và thế giới trong các tác phẩm mà họ phân tích”.

 

     Giải cấu trúc như đã nói trên là một hệ hình mới trong phê bình nghiên cứu văn học. Hàng loạt căn cứ khoa học tóm lược trên đây cho thấy một quan niệm cấu trúc mới đã hoàn toàn thay thế quan niệm cấu trúc cũ, không có chuyện cấu trúc bị thủ tiêu, không có chuyện phê bình không còn tiêu chí khoa học. Việc đoán định ý nghĩa tác phẩm một cách quyền uy, duy nhất, dứt khoát, vĩnh viễn chỉ là một huyền thoại. Giá trị của sự đọc nói chung thường là ngắn ngủi và luôn luôn được thay thế bằng những cách đọc mới. Người đọc được lên ngôi, nhưng vị thế của người đọc cũng không hề vĩnh viễn. Họ chỉ là người làm nên đời sống sôi động của văn học, làm cho tác phẩm văn học không bao giờ được yên, chúng cứ bị lật đi lật lại, quay nghiêng rồi quay ngửa và bao giờ cũng nằm trong tầm ngắm của người đọc yêu mến nó.  Tác phẩm văn học, nhất là tác phẩm văn học kinh điển vẫn có một giá trị trường tồn. Nhà văn sáng tạo tác phẩm kiệt xuất bao giờ cũng có một vị trí vinh dự trong lịch sử tâm hồn của dân tộc và nhân loại.

 

      Thao tác chủ yếu của giải cấu trúc cũng rất đa dạng. Theo Bakhtin là từ trong từ ngữ hay văn bản mà đọc ra một từ ngữ khác hay văn bản khác, tạo thành một đối thoại hay một liên chủ thể. Theo M. Foucault giải cấu trúc là “khảo cổ” loại hình tri thức làm nên cái nghĩa trong diễn ngôn hiện hành. Theo de Man, người giải cấu trúc từ phía tu từ học, xem hệ thống tu từ vốn được coi như phương thức biểu cảm là một thứ ngôn ngữ dùng để thay cho một ngôn ngữ, hai ngôn ngữ khác nhau nhưng dính nhau, tạo ra khả năng hiểu sai đối với “nghĩa đen”, làm cho văn bản tự giải cấu trúc chính mình, từ đó đi tìm những mâu thuẫn vốn có trong diễn đạt. Miller đi xa hơn, cho rằng ngôn từ từ khởi thuỷ đã là ẩn dụ, không có nghĩa đen nào hết. Người đọc chỉ theo quy ước liên kết mà khám ý nghĩa, tìm ra vô khối nghĩa.

      Giải cấu trúc đem lại cái gì mới cho phê bình văn học hôm nay? Đối tượng chủ yếu của giải cấu trúc trước hết chính là phê bình, nghiên cứu văn học, lí luận văn học, văn học sử, phương Đông học, các thứ tiểu luận và các thứ lí luận nói chung... là nơi đầy rẫy những quy luật, những nguyên lí, những nhận định đúng sai chắc như đinh đóng cột hoặc tuỳ tiện, mơ hồ hết chỗ nói mang định kiến của cả một thời. Giải cấu trúc phải soát xét lại tất cả, không trừ một chỗ nào mọi nguyên lí, định lí, nguyên tắc, phương pháp, nhận định, khái niệm. Giải cấu trúc đòi hỏi phải viết lại văn học sử, viết lại lí luận, đọc lại người trước với tinh thần khoa học, phát hiện mọi ngộ nhận, mọi thành kiến, phát hiện những nhận thức mới, chân lí mới, đưa người đọc vào những tìm tòi mới.

 

   Giải cấu trúc cũng phê bình tác phẩm văn học theo lối đọc kĩ, phơi bày những tư tưởng, cấu trúc, ngôn từ “bị bỏ sót”, những “nghĩa đang ngủ yên trong văn bản” nhằm phát hiện ý nghĩa mới... Nó cũng vạch ra những ý tưởng xem ra là mới mà kì tình rất cũ, vạch ra các liên văn bản được lắp ghép khéo léo vào các sáng tác mới, những bắt chước vụng về, những lối mòn quen thuộc.

 

    Giải cấu trúc cũng cần cho nhà trường, từ trung học đến đại học. Bởi vì linh hồn của giải cấu trúc là tinh thần phê phán, là sự phản tỉnh, ý thức hoài nghi khoa học. Văn chương là lĩnh vực giàu tinh thần phê phán và phản tỉnh nhất. Thiếu tinh thần phê phán và phản tỉnh về văn chương và xã hội thì đọc văn, học văn làm sao được!

 

Nguồn: Văn nghệ số 34 21/8/2010

 

Danh mục website