Gõ ba chữ “Hà Thiên Sơn” trên Google, tôi tìm thấy nhiều bài thơ của anh được lưu truyền trên mạng. Tại sao người ta yêu mến thơ anh, truyền tụng thơ anh giữa thời buổi đầy bận rộn, lo toan thực dụng này? Đọc những bài thơ ấy và đọc cả tập thơ tứ tuyệt Ô cửa nhỏ của anh tôi mới hiểu.
Thơ anh nhắc cho chúng ta về một cây xà cừ lá xanh ở cổng trường, một cây bàng lá úa, một cây hoa gạo bên bến sông, một chiếc lá lìa cành, một chút hương hoa còn sót lại…:
Em tặng ta một giò phong lan tím
Thế rồi bịn rịn bước chân quen
Đêm qua sương xuống trời se lạnh
Hoa đã héo nhiều hương vẫn thanh.
Thơ anh nhắc cho chúng ta về một xóm đạo nhỏ quê anh, một cồn bãi quê bạn, một chút nắng cao nguyên, một thị trấn vắng, một bến đò xưa cũ…:
Bến xưa vắng bóng con đò
Người muôn năm cũ bây giờ ở đâu
Bờ sông xanh ngắt ngàn dâu
Có người trở lại Phong Châu đợi đò.
Anh đi khắp nước suốt cả Bắc Trung Nam, anh đi nhiều nơi trên thế giới: nước Pháp với dòng sông Seine xanh biếc và Paris hoa lệ, nước Nhật với Kyoto cổ kính và Tokyo náo nhiệt, Trung Quốc với những Thẩm Quyến, Bắc Kinh, Thượng Hải, Tô Châu vừa lạ vừa quen…Anh đến cả Nam Phi với những thảo nguyên và những hàng phượng tím…Nơi nào đến anh cũng có thơ, nhưng thân thương nhất trong thơ anh vẫn là một làng nhỏ với cổng làng, bãi dâu, cánh đồng sau vụ gặt, mảnh vườn đầy hoa thơm và cỏ dại:
Sau năm tháng nhọc nhằn phố thị
Ta trở về với mảnh vườn xưa
Sóng gió cuộc đời như lắng lại
Mùi hoa thơm cỏ dại sau nhà.
Trong những đô thị ồn ào và xô bồ, chúng ta đã quen với những âm thanh chói gắt, những sắc màu rực rỡ, những mùi vị nồng nàn…mà dễ quên một tiếng guốc trên cầu thang, một trái bàng rụng, một sợi tóc vương, một dấu chân trên bãi cát, một giọt nước mắt ai ố vàng trên trang sách cũ…Nghĩa là chúng ta sống cho những nhu cầu của con người mà lại quên thế giới của con người. Thơ Hà Thiên Sơn nhỏ nhẹ, từ tốn nhắc cho chúng ta về một thế giới ấy:
Ta vô tình lật trang sách cũ
Giọt lệ ai rơi chữ ố vàng
Buổi chiều dừng lại không đi nữa
Cuốn sách lâu rồi chẳng dời trang.
Cả tập thơ Ô cửa nhỏ chỉ thuần một thể tứ tuyệt. Thơ tứ tuyệt thường thiên về triết lý, chiêm nghiệm mà nhà thơ thành công nhất về thể thơ này là Chế Lan Viên. Thế nhưng thơ tứ tuyệt của Hà Thiên Sơn lại không thiên về lý mà trội về tình: tình với quê hương, tình với bạn bè đồng đội, với chị, với mẹ, nhất là với một người tình xa xưa, mơ hồ:
Đi qua hai cuộc chiến tranh
Trở về làng cũ bỗng thành người xưa
Tiếng ai như tiếng gió lùa
Hình như người ấy xóm chùa mới sang.
Những mối tình ấy phải chăng đã nuôi dưỡng hồn thơ anh. Người đời chắc cũng không nỡ lấy lẽ thường mà trách người thơ, vì xưa nay ai cũng biết: không có tình yêu thì thơ sẽ chết.
Thơ tứ tuyệt cần nhất là phải có cái tứ, cái tứ thật tuyệt – dù nghĩa đen của từ “tứ tuyệt” không liên quan gì đến điều ấy. Thơ Hà Thiên Sơn có nhiều bài có tứ rất hay:
Cách một tầm nhìn ngoài kia là biển
Cái màu xanh rưng rức phía chân trời
Cách một tầm tay là nhan sắc
Ta chết chìm trong mắt em thôi.
Hay như bài viết về mẹ:
Phía sau những lũy tre làng
Con đường nho nhỏ tự ngàn năm xưa
Tảo tần đời mẹ nắng mưa
Mòn chân mà vẫn đi chưa khỏi làng.
Nhiều bài có những cách nói hay, những âm điệu thú vị, những hình ảnh đẹp:
Đêm qua hoa quỳnh nở
Hương thơm bay xa rồi
Giật mình ta tỉnh giấc
Nắng đã hồng chân mây.
Hay:
Ngổn ngang cảm xúc ngày ly biệt
Em gửi vào đêm tiếng thở dài
Những ánh sao trời giờ đã nhạt
Thế là sắp tới một ban mai.
Thơ tứ tuyệt hiện đại không hạn định số chữ trong câu, cốt sao có được cái tứ hay, ngôn từ đẹp là được. Nói vậy nhưng tôi vẫn thấy nó cũng có nhiều thể, và mỗi thể giọng điệu cũng khác nhau. Bên cạnh giọng điệu chung có vẻ thâm trầm u mặc, thì tứ tuyệt lục bát thiên về trữ tình tha thiết, ngũ ngôn thì trong sáng trẻ trung, thất ngôn thì cổ kính trang nghiêm, câu thơ vắt dòng lại gợi cái sang trọng mà xa xưa của thơ mới:
Chiếc thuyền độc mộc trong sương sớm
Ta lẫn vào mây tự lúc nào
Mây lẫn vào ta và lẫn cả
Một trời non nước mãi trên cao.
Thơ tứ tuyệt của anh có cả mấy thể ấy nên đọc 200 bài mà vẫn không thấy lặp lại.
Gần đây Hà Thiên Sơn liên tục cho ra mắt nhiều thi tập: kể từ tập thơ đầu tay ra mắt hơn 15 năm trước: Giao điểm hai đường cong (Nxb. Trẻ, 1995), 5 năm trở lại đây anh có thêm 2 tập nữa: Ảo ảnh chiều (Nxb. Văn học, 2005), Chấm hoa vàng (Nxb. Hội Nhà văn, 2010), và bây giờ là Ô cửa nhỏ. Anh thử bút qua nhiều thể: thơ tự do, thơ haiku Việt, và bây giờ là tứ tuyệt, thể nào cũng có đóng góp riêng. Theo tôi thì tứ tuyệt là thể thơ gần với chất của anh nhất: vừa nhỏ nhẹ tình cảm, vừa thâm trầm suy tư, và vừa có cái già dặn lão thực của một người đã vào độ chín của tư duy và sáng tạo.
Có thơ, trong đó có thơ Hà Thiên Sơn, thế giới này dường như đỡ ồn hơn, đỡ vội hơn, và cũng đỡ phẳng hơn.
TP.HCM, tháng 12 năm 2010
Đ.L.G