25042024Thu
Last updateTue, 23 Apr 2024 10am

Studies on Vietnamese and Korean Literature and Films

Vietnamese Literature

Sinology & Nom

Theater and Film

Linguistics

Vietnamese Folk Culture

Literary Theory & Criticism

Foreign Literatures & Comparative Literature

Lu Khe and the First Article Introducing Japanese Literature in Cochinchina

Sunday, 19 September 2021  |  Võ Văn Nhơn, Ngô Trà Mi

Lu Khe and the First Article Introducing Japanese Literature in Cochinchina

PGS.TS/ Assoc.Prof., Ph.D...

Loading...

Education

Dao Duy Anh – An erudite scholar and a respected educator

Dao Duy Anh – An erudite scholar and a respected educator

Saturday, 25 June 2016  |  Khoa Văn học

Abstract

Scholar and educator Dao Duy Anh had made outstanding contribution to our national culture. ...

Loading...

Vietnamese Cultural Links

Văn học Việt Nam ở Nhật Bản

Tuesday, 08 November 2016  |  KAWAGUCHI KEN’ICHI, Đoàn Lê Giang dịch

KAWAGUCHI KEN’ICHI

                     ...

Loading...

BA, MA, PhD. Theses

Narrative Art in Southern Novels before 1932

Narrative Art in Southern Novels before 1932

Tuesday, 21 February 2017  |  Phan Mạnh Hùng

(Summary)

Research Focuses and Expectations :

The studies the narrative art - the art of telling a stor...

Loading...

Calligraphy Club

Thu hứng

Thu hứng

Friday, 03 June 2016  |  Đỗ Phủ

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, 
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu s&a...

Loading...

Tìm triết lý nào cho nền giáo dục nước nhà?

TTCT - Trong nội dung góp ý cho giáo dục vốn rất phong phú và đa diện, vào những năm gần đây đề nghị nổi lên chủ yếu từ một số trí thức tên tuổi là cần có triết lý giáo dục.

Ý chừng với các vị đó, cái thiếu nhất và cũng cần có nhất đối với giáo dục để thoát khỏi tình trạng yếu kém hiện nay là phải có triết lý.

 

Vốn là một người gắn bó với sự nghiệp giáo dục của nước nhà hơn 60 năm qua, tôi cũng đã suy nghĩ về vấn đề triết lý cho giáo dục. Nhưng bằng thói quen nghề nghiệp, khi tiến hành bất cứ một đề tài khoa học nào, tôi cũng phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ tạo cho được một khái niệm công cụ chủ lực và sắc bén để từ đó xử lý đề tài. Trong trường hợp này chính là khái niệm triết lý.

Chọn lựa gì từ những di sản khổng lồ?

Nói một cách khác, muốn có nội dung triết lý giáo dục một cách đích đáng, trước hết phải giới thuyết sao cho thật tường minh nội hàm của khái niệm triết lý. Để làm việc này, trong thực tế lao động tư duy không biết bao nhiêu câu hỏi đã vụt dậy: Triết lý là gì? Triết lý và triết học là một hay là hai (trong tiếng Pháp chỉ có một từ là philosophie, ta thì có cả hai)? Có phải triết học đòi hỏi có hệ thống lý thuyết, hệ thống khái niệm quy mô bề thế, trong khi triết lý chỉ là một vài câu nói nào đó sâu sắc, có tầm khái quát và có ý nghĩa triết học? Triết lý lại có triết lý cao siêu và có triết lý giản đơn, triết lý bác học và triết lý bình dân. Trong thực tiễn, sự khác nhau giữa các loại triết lý đó là thế nào? Chưa kể còn thứ triết lý mà người đời mệnh danh là triết lý rởm. Vậy phân biệt triết lý đích thực với triết lý rởm là thế nào trong thực tiễn?

Trong học thuyết Nho giáo đã có những mệnh đề như: nhân bất học bất tri lý (người không học thì không biết lẽ phải), ấu bất học lão hà vi (ở tuổi ấu thơ mà không học thì già biết là gì), học nhi bất yểm hối nhân bất quyện (học không biết chán, dạy người không biết mỏi), tiên giác giác hậu giác (người biết trước dạy người biết sau), học nhi thời tập chi bất diệc duyệt hồ (học mà luôn có tập thì không vui sao), tiên học lễ hậu học văn (học lễ trước, học văn sau)... Dù ít ai nói đó là triết lý giáo dục của Nho giáo, nhưng khách quan có đáng coi là triết lý giáo dục, thậm chí là triết lý giáo dục cao siêu không? Ngay với Phật giáo cũng có mệnh đề tự giác giác tha không đáng coi là triết lý giáo dục sao?

Nói riêng trong lịch sử giáo dục Việt Nam ta hàng ngàn năm đã có hai mốc son chói lọi là nền giáo dục ở thời đại Lê Thánh Tông (1460-1497) và hiện tượng Đông Kinh nghĩa thục năm 1907 dù chỉ tồn tại được chín tháng (tháng 3-1907 đến tháng 12-1907). Với triều vua Lê Thánh Tông, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có Chiếu khuyến học và từ đó là nhiều chính sách, nhiều biện pháp tích cực để phát triển giáo dục rực rỡ. Thành quả giáo dục rực rỡ đó là sản phẩm một tư tưởng vĩ đại của đất nước mà tưởng như một đi chưa thấy trở lại, không chỉ trên phương diện lý thuyết mà quan trọng hơn là ở thực tiễn rằng: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý chuyện kẻ sĩ không biết thế nào là cùng” (Thân Nhân Trung).

Trường hợp Đông Kinh nghĩa thục chói sáng ở trạng thái khác. Tư tưởng giáo dục bao trùm của Trường Đông Kinh nghĩa thục nhằm xoay chuyển nền giáo dục cổ truyền của dân tộc vốn thiên về sách vở, nhẹ về thực tế sang một nền giáo dục thực nghiệp gắn với sự sống, vì sự sống. Đông Kinh nghĩa thục thực chất là một phong trào duy tân có ý nghĩa cách mạng về văn hóa và tư tưởng, trong đó có sự phê phán chống lại những tư tưởng lạc hậu, những hủ tục đang cản trở bước tiến của đất nước, đi đôi với việc tiếp thu những tư tưởng mới mẻ, tiến bộ chủ yếu của giai cấp tư sản thời kỳ còn có vai trò cách mạng ở các nước Âu Mỹ, dựa trên một tinh thần dân tộc vững chãi, một bản lĩnh văn hóa tinh ròng. Hôm nay chúng ta đi tìm triết lý cho nền giáo dục nước nhà, liệu có thể khai thác được gì ở hai mốc son chói lọi đã được khẳng định 100% đó?

Lại nói tiếp về nền giáo dục của nước nhà trong thời đại Hồ Chí Minh, đã có những khẩu hiệu đích đáng như: Gắn nhà trường với cuộc sống, Trường ra trường lớp ra lớp, Thầy ra thầy trò ra trò, Hai tốt (dạy tốt - học tốt), kể cả khẩu hiệu được lấy lại của tiền nhân là Tiên học lễ hậu học văn... Tất cả cái đó chưa phải là triết lý sao mà phải đi tìm cái khác? Hay có thể bổ sung? Rồi nữa, trong lý thuyết giáo dục quen thuộc thời nay đã có các thuật ngữ, khái niệm như: mục tiêu giáo dục, phương châm giáo dục, kể cả tư tưởng lớn của giáo dục, trong đó có tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh (ví như: Mọi người ai cũng được học hành) liệu có liên quan như thế nào đến khái niệm triết lý mà chúng ta đang muốn tìm thêm?

Lại được nghe một số vị cho biết Unesco đã đưa ra triết lý giáo dục, đại ý gồm các nội dung: 1) Phải coi giáo dục là một then chốt hàng đầu trong việc giải quyết các vấn đề của cuộc sống xã hội. 2) Học, học mãi, học suốt đời. 3) Giáo dục có bốn cái trụ là: học để biết - học để làm - học để chung sống - học để tồn tại.

Vậy Việt Nam ta trong khi đi tìm triết lý cho giáo dục sẽ tiếp thu gì ở đây và có gì là khác?

Thực tế tôi đã nghe được một vài ý kiến của một vài vị có tên tuổi. Ví như có vị nói rằng triết lý giáo dục là chuyện đào tạo ra mẫu người gì: tự do, biết suy nghĩ, có suy nghĩ độc lập, sáng tạo hay chỉ biết chấp hành, vâng lời, phục tùng, hết sức dễ bảo? Có vị lại nói triết lý giáo dục là: tiểu học thuần Việt, đại học phải hội nhập... Thú thật tôi muốn hỏi lại quý vị đó rằng: nói như cách thứ nhất thì khác gì trước đây đã nói, có điều gọi là mục tiêu giáo dục chứ không gọi là triết lý giáo dục mà thôi? Còn nói như ý thứ hai thì xin hỏi sao tiểu học lại chỉ thuần Việt mà không hội nhập, ngược lại sao đại học chỉ hội nhập mà không thuần Việt?

Hành trình đi tìm triết lý cho giáo dục nước nhà mà cứ ở trạng thái mò mẫm, chao đảo... như vậy liệu chúng ta đi được bao xa?

Nhìn lại những vấn đề nội tại

Trước hết vẫn phải coi trọng việc giới thuyết nội hàm khái niệm triết lý sao cho thật tường minh, cho thật tự giác, có hệ thống chặt chẽ để có được một khái niệm công cụ đắc lực tối đa cho việc triển khai nội dung vấn đề. Xin nhớ cho rằng kết quả đi tìm triết lý giáo dục Việt Nam của chúng ta có được xã hội chấp thuận hay không, chấp thuận nhiều hay ít bắt đầu từ công việc giới thuyết khái niệm gốc này. Mặt khác, phải ý thức đầy đủ rằng tìm ra triết lý đích đáng là quan trọng, nhưng quan trọng hơn còn là phải tìm cho được con đường hiện thực hóa triết lý vốn là điều vô cùng khó khăn. Vì ở đây sẽ đụng phải vấn đề quan hệ giữa giáo dục với cuộc sống của xã hội mà đáng ra đã phải được nghiên cứu một cách đặc biệt công phu, nhưng chúng ta lại chưa hề đặt ra để nghiên cứu cho ra nghiên cứu.

Trong khi xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hôm nay cần có ý thức, kể cả năng lực đầy đủ, trong việc tiếp thu tinh hoa tư tưởng giáo dục của dân tộc, của phương Đông cổ trung đại, trong đó có tư tưởng giáo dục của Nho giáo mà theo tôi là có thể có điều bất cập không chỉ với thời đại ngày nay mà còn với thời đại nó tồn tại. Nhưng cái được của nó lại là vô địch trong thành tựu tạo ra mẫu người chân quân tử, không dễ gì có trong lịch sử nhân loại ở phương diện nhân cách.

Đồng ý là chúng ta phải ra sức tìm kiếm để có triết lý giáo dục Việt Nam với hôm nay và mai sau sao cho tối ưu. Nhưng song song với vấn đề xây dựng triết lý giáo dục, rất cần đặt vấn đề khoa học xã hội và nhân văn cho xứng đáng. Có thể khẳng định rằng vấn đề khoa học xã hội và nhân văn còn quan trọng hơn, cần thiết hơn cả vấn đề triết lý. Với nền giáo dục hiện thời của đất nước, muốn tiến lên vững chắc nhất thiết phải có một nền tảng khoa học xã hội và nhân văn vững chắc hơn những gì đang có. Trong giáo dục, có thể coi khoa học tự nhiên và công nghệ là động lực chính nhưng khoa học xã hội và nhân văn mới là nền tảng.

Phải chăng có hiện tượng này: ta cũng đã có triết lý giáo dục, dù có thể chưa đầy đủ và chưa gọi nó là triết lý nhưng do nhận thức chưa thật đầy đủ ý nghĩa, giá trị sâu sắc của nó, đặc biệt là bất lực trong khi thực hiện nó mà rồi quay ra cho nó chưa phải là triết lý? Ví như với khẩu hiệu “Tiên học lễ hậu học văn” mà trong mấy chục năm qua hầu như không một trường trung học cơ sở, trung học phổ thông nào trên đất nước lại không nêu, nhưng gần đây trên báo chí đã có người cho rằng khẩu hiệu đó không hợp thời nữa. Vậy có đúng nó không hợp thời nữa không? Hay do không hiểu hết, hiểu đúng mà cũng là bất lực với nó? Hay môi sinh cần có cho nó đã không còn?

 

Nguồn: http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Van-de-Su-kien/456193/Tim-triet-ly-nao-cho-nen-giao-duc-nuoc-nha.html