Hình ành Nhật Bản trong trước tác của Phan Bội Châu thời kỳ ở Nhật (1905-1909)

Nguyễn Tiến Lực[1]

Mở đầu

Trong cuộc đời hoạt đông cách mạng của mình, Phan Bội Châu cho rằng thời kỳ ở Nhật là thời kỳ đắc ý nhất. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, ông đã phát động được phong trào Đông Du nổi tiếng, có dịp tiếp xúc với nhiều chính khách lớn của Nhật, được giao lưu liên kết với các nhà trí thức, các nhà hoạt động dân tộc châu Á. Đặc biệt, ông có được một thời gian sáng tác sung sức, để lại một số lượng trước tác lớn, góp phần tạo nên diện mạo mới của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Trong các trước tác đó, Phan Bội Châu đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về Nhật Bản, lấy Nhật Bản làm đối sánh khi luận bàn về những vấn đề của Việt Nam, coi Nhật Bản là tấm gương để cỗ vũ Việt Nam noi theo .

Trong bài viết này, qua các trước tác của Phan Bội Châu trong quá trình hoạt động ở Nhật, chúng tôi muốn khảo sát xem hình ảnh Nhật Bản được vẽ lên trong trước tác của ông như thế nào?        

 

1.Trước tác của Phan Bội Châu trong thời kỳ ở Nhật (1905-1909)

1.1. Khi sang hoạt động ở Nhật, Phan thấy rằng, Nhật Bản là mảnh đất tốt cho các hoạt động sáng tác của mình.

Những vấn đề của Nhật Bản là nguồn cảm hứng lớn lao cho hoạt động sáng tác của Phan Bội Châu. Lịch sử Nhật Bản, những bài học của sự nghiệp Minh Trị duy tân và hiện thực cuộc sống của đất nước Nhật Bản văn minh và hiện đại…là những đề tài để ông miêu tả, phân tích và chuyển tải cảm xúc thông qua các sáng tác của mình.  

Đương thời, trong khu vực châu Á thì Nhật Bản là nước có điều kiện thuận lợi nhất cho các hoạt động sáng tác và in ấn. Nơi đây, cùng với hoạt động rầm rộ của của các nhà cải cách và cách mạng Trung Quốc, các loại báo chí của họ được in ấn và phát hành công khai, rộng rãi.

Nhật Bản có nền công nghiệp in ấn có kỹ thuật cao, có thể in số lượng sách báo lớn. Việc in ấn bằng chữ Hán tiến hành khá dễ dàng. Các báo chí như Tân dân Tùng báo,Vân Nam Tạp chí bằng chữ Hán đều in ấn và phát hành thuận lợi ở Nhật. Vì vậy, Phan có thể tin rằng việc sáng tác và in ấn các ấn phẩm Việt Nam ở Nhật.

Dựa trên nhận thức Nhật Bản là nơi có điều kiện để hoạt động trước tác và cũng vì đòi hỏi cấp bách của phong trào cách mạng Việt Nam nên trong thời kỳ hoạt động ở Nhật, Phan đã trước tác, in ấn và gửi về nước một số lượng lớn các ấn phẩm tuyên truyền cách mạng, góp phần cổ vũ phong trào thanh niên du học và thức tỉnh tinh thần yêu nước, tinh thần cách mạng của nhiều thế hệ nước ta. Trong Ngục trung thư, ông viết: “Bởi vậy một mặt tôi cổ vũ thanh niên du học, một mặt muốn mở mang tư tưởng ái quốc, tôi bèn viết ra Tân Việt Nam, Kỷ niệm lục, Việt Nam sử khảo và tập Hải ngoại huyết thư tục biên…” [2].

Các tác phẩm mà Phan sáng tác trong thời kỳ ở Nhật bao gồm nhiều thể loại khác nhau: các bài văn kêu gọi, các tác phẩm có tính lịch sử, các truyện về nhân vật lịch sử… chủ yếu là để tuyên truyền cách mạng. Và đó là “những ấn phẩm tuyên truyền đầu tiên của cách mạng nước ta”[3] .

 

1.2. Thời kỳ hoạt động ở Nhật là thời kỳ Phan đắc ý nhất và tương đương với nó là thời kỳ Phan trước tác nhiều nhất, với tinh thần lạc quan nhất và có nhiều tác phẩm có giá trị lớn về nội dung và nghệ thuật, có chỗ đứng trong dòng văn học mới, co tính cách mạng của Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Việt Nam vong quốc sử, viết khoảng tháng 6 năm 1905, được Lương Khải Siêu cho in ở xưởng in Tân dân tùng báo, sau đó được đăng thành nhiều kỳ trên Tân dân tùng báo. Đó là “tác phẩm có tính cách mạng đầu tiên ở Việt Nam”[4]. Tác phẩm này được Phan trực tiếp chuyển về nước trong chuyến về nước đầu tiên. Nó được tuyền bá trong các nhà yêu nước và được dùng làm tài liệu học tập ở Đông Kinh nghĩa thục.

Khuyến quốc dân tư trợ du học văn viết vào cuối năm 1905 và in ấn vào đầu năm 1906, in lần đầu 3000 bản sớm được chuyển về nước để cổ vũ phong trào du học Nhật Bản và phong trào ủng hộ du học của quốc dân ta. Phan rất tâm đắc với bài văn này.

Ai Việt điếu Điền viết năm 1906, nêu lên những lợi ích của tình đoàn kết Việt Nam với các tỉnh giáp biên giới của Trung Quốc. Tác phẩm này được viết ra nhằm tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của lưu học sinh và các nhà hoạt động tỉnh Vân Nam đối với hoạt động của người Việt Nam ở Nhật.

Hải ngoại huyết thư (Sơ biên, Tục biên) viết năm 1906, in ở Yokohama (xưởng in Tân dân tùng báo?) vạch rõ nguyên nhân mất nước ta vào tay thực dân Pháp không chỉ vì vua quan không quan tâm đến dân mà còn do dân không có ý thức trách nhiệm đầy đủ với nước. Hải ngoại huyết thư còn cổ vũ tinh thần yêu nước và đoàn kết toàn dân. Tác phẩm này được Lê Đại dịch ra thơ, bằng chữ quốc ngữ, làm tăng thêm tính thống thiết của nó và có sức phổ biến rộng lớn. David Marr bình thêm rằng: “Về nội dung, giữa nguyên tác và bản dịch thơ không khác nhau, nhưng bản dịch thơ trở thành một ấn phẩm tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân có sức phổ biến rộng rãi vào đầu thế kỷ XX”[5]. Tác phẩm này được in lại ở Tokyo, một số được chuyển về nước tuyên truyền tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Vào năm 1908, tác phẩm này được tái bản, nhưng phần lớn bị cảnh sát Nhật tịch thu, đem đốt vì bị liệt vào tác phẩm “kích động nguy hiểm”[6].

Kính cáo toàn quốc phụ lão viết năm 1906, kêu gọi các bậc phụ lão trong nước tích cực vận động ủng hộ du học sinh Nhật Bản. Tác phẩm này cũng sớm được chuyển về tuyên truyền trong nước.

Ai cáo Nam Kỳ phụ lão văn, viết năm 1907, dưới danh nghĩa của Cường Để, vận động phụ lão Nam Kỳ ủng hộ tài chính cho phong trào du học, mà theo Phan Bội Châu là để  “mượn kim tiền Nam Kỳ nuôi nhân tài Trung Bắc”.

Hòa lệ cồng ngôn viết năm 1907, đăng ở Vân Nam tạp chí kêu gọi tinh thần yêu nước của tầng lớp sĩ (trí thức), đề cao vai trò của sĩ trong sự nghiệp cứu nước.

Tân Việt Nam viết năm 1907, nói về Mười điều sung sướng và Sáu điều hy vọng đối với nước Việt Nam mới. Hình ảnh nước Việt Nam mới được miêu tả trong tác phẩm này là hình ảnh Nhật Bản đương thời. Đây là tác phẩm được viết với tinh thần lạc quan nhất của Phan Bội Châu.

Đề tỉnh quốc dân hồn viết năm 1907, kêu gọi các tầng lớp: sĩ, nông, công, thương noi gương Nhật Bản, hiểu biết vai trò bổn phận của mình, tương trợ lẫn nhau, xây dựng một nước Việt Nam phú cường.

Kỷ niệm lục viết năm 1907, kể về hai nhà hoạt động đương thời, đồng chí của Phan Bội Châu là Tăng Bạt Hổ và Vương Thúc Quý.

Hoàng Phan Thái truyện viết năm 1907, ca ngợi hành động chống lại triều đình Tự Đức của nhà nho Hoàng Phan Thái. Phan coi Hoàng Phan Thái là nhà tiền khu chống chế độ phong kiến trong lịch sử cận đại Việt Nam. Tác phẩm này biểu hiện tư tưởng phủ nhận chế độ quân chủ chuyên chế của Phan Bội Châu.

Sùng bái giai nhân viết năm 1907, ca ngợi những tấm gương nghĩa liệt của phong trào Cần Vương như Mẹ Lân, Cao Thắng, Lê Báo…

Việt Nam sử liệt, viết năm 1908, không rõ nội dung. Vẫn chưa xác định rõ tác phẩm này có liên quan gì đến tác phẩm Việt Nam nghĩa liệt sử, được Chấn Á Xã xuất bản ở Thượng Hải năm 1918 do Đặng Đoàn Bằng viết Phan Thị Hán (Phan Bội Châu) hiệu đính, lại đề Thành Thái Mậu Ngọ năm. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản như Goto Kinpei, Kawamoto Kunie coi Việt Nam nghĩa liệt sử là tác phẩm của Phan Bội Châu. Còn ở Việt Nam coi đó là của nhiều tác giả như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền…

 Trần Đông Phong truyện viết 1908, kể về chí sĩ Đông Du Trần Đông Phong. Tuy việc giải thích về cái chết của Trần Đông Phong còn cần phải bàn thêm nhưng tác phẩm này là biểu thị thái độ phản kháng của Phan Bội Châu đối với hành động của nhà đương cục Pháp, Nhật.

Việt Nam quốc sử khảo viết vào cuối năm 1908, được Soransha, Tokyo phát hành vào đầu năm 1909. Đây là cuốn lược khảo viết theo cách mới về lịch sử Việt Nam. Trong tác phẩm này, Phan Bội Châu đưa ra nhiều khái niệm mới về quốc gia-quốc dân, dân quyền, văn minh… phản ánh một bước phát triển mới trong nhận thức và tư tưởng của ông.

   Ngoài ra trong thời kỳ ở Nhật, Phan còn viết một số bức thư rất quan trọng phản ánh nhận thức của ông về phong trào dân tộc Việt Nam và về quan hệ quốc tế như thư gửi Phan Châu Trinh, thư gửi Okuma Shigenobu và gửi Komura Jutaro[7].

Có thể thấy một đặc trưng của hoạt động sáng tác của Phan Bội Châu trong thời kỳ ở Nhật là ông viết rất nhiều, viết do sự đòi hỏi cấp bách của cách mạng, viết trong sự thôi thúc muốn khai sáng dân trí, chấn dân khí, vì vậy các tác phẩm của Phan mang tính chiến đấu, tính cổ vũ rất cao. Hơn nữa sau khi đến Nhật, Phan có điều kiện đọc các tác phẩm khai sáng, đặc biệt là các tác phẩm của Lương Khải Siêu, nên các trước tác của Phan trong thời kỳ này chứa đựng nhiều tư tưởng mới, đặc biệt là lý luận về quốc gia-quốc dân, về quá trình phát triển của lịch sử xã hội. Những tư tưởng này đánh dấu bước phát triển mới về tư tưởng của Phan Bội Châu nói riêng và của tư tưởng Việt Nam nói chung.

 

2. Hình ảnh Nhật Bản trong trước tác của Phan Bội Châu ở Nhật

           

            Khi mới đặt chân lên đất Nhật, Phan Bội Châu đã bày tỏ sự cảm kích với một nước Nhật phát triển và tiến bộ: “Trong khoảng mấy tháng cơm hàng ngụ trọ ở Đông Kinh, tôi được nhân dịp biết rõ câu chuyện Nhật-Nga đánh nhau và thấy được cái hiện trạng của Nhật Bản về chính trị, giáo dục, ngoại giao, thực nghiệp...

            Thấy người ta rồi, mình hết sức hổ thầm cho mình lúc trước kia chỉ ngồi co ro trong nước, hèn nào mà chẳng kiến văn mù mờ, tư tưởng bế tắc không biết gì cả. Hết thảy anh em đồng chí với tôi cũng đều như tôi cả. Tôi nghĩ thấy tiếc làm sao không dời được tất cả bà con mình qua ở Anh Hoa tam đảo để cho khối óc và tầm mắt thay đổi mới lạ hẳn đi.”[8]

Ở đây, Phan Bội Châu chưa đề cập trực tiếp đến sự phát triển của Nhật Bản như thế nào nhưng ông chỉ ra rằng Nhật Bản đã là một đất nước phát triển, hiện đại, các xa với thực trạng Việt Nam đương thời. Được tận mắt chứng kiến thực trạng phát triển của Nhật Bản, khi so sánh với Việt Nam ông “hết sức hổ thầm” bởi người Việt Nam lúc bấy giờ “kiến văn mù mờ, tư tưởng bế tắc”, ít hiểu biết về Nhật Bản và mong muốn đưa người Việt Nam sang Nhật để “khối óc và tầm mắt thay đổi”.

Phan Bội Châu biểu thị tầm kiến văn sâu sắc của mình về lịch sử Nhật Bản khi ông phân tích chính sách mở cửa, duy tân của Nhật Bản từ giữa thế kỷ XIX và coi đó là cội nguồn của sự phát triển và tiến bộ của Nhật Bản đương thờ.

“Nước Nhật Bản trước khi Duy tân, các liệt cường Âu Mỹ cũng đã từng chú mục vào ba hòn đảo đó. Lúc bấy giờ trong đám chí sĩ Cần vương, những kẻ ngoan cố cứ một mực chủ trương khoá cảng không phải là ít. May nhờ có các bậc hiền sĩ như Cát Điền Tùng Âm, Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi), Hậu Đằng Tượng Thứ Lang (Goto Shojiro) lớn tiếng hô to thủ xướng việc học tập phương Tây, cho việc bài xích người Tây là thất sách, cho việc mở mang cửa biển là thức thời. Do đó tân học lên cao, tân trí thức tiến mạnh, làm thành cái cơ sở cho việc Duy tân, đến nay họ đã phú cường hơn cả Âu Mỹ.... Lúc đầu Bakufu ký điều ước Mã Quan (tên chính thức là Shimonoseki-Hạ Quan) với các nước, việc thiệt thòi về quyền lợi không phải là không có nhưng cái cơ hội xoay chuyển lại thế cục còn là ở người của họ. Cho nên điều ước này không hề gây tổn thất gì cho Nhật Bản cả”[9].

Ở một chỗ khác, Phan Bộ Châu phân tích về một trong những nguyên nhân thành công của sự nghiệp duy tân: “Do từ lúc đầu họ biết cho người đi học nước ngoài, để mở mang dân trí, bồi dưỡng nhân tài nên mới có được sự nghiệp vĩ đại rực rỡ như thế”[10].

Phan Bội Châu đã nhận thức được vai trò của tầng lớp trí thức khai sáng đối với sự nghiệp duy tân Nhật Bản và ông ca ngợi: “Ôi, đọc sách sáng lẽ ra chỉ có kẻ sĩ, tư tưởng lớn lao ra chỉ có kẻ sĩ. Các anh em hãy đọc rộng những sách của liệt truyện vĩ nhân mới của Âu Á như các ông Ái Tô Sĩ, Lư Thoa, Cát Điền Tùng Âm (Yoshida Shoin), Đại Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu)... Đổi mới để tạo ra thời thế, lẽ nào không phải sức của kẻ sĩ”.[11]

Trong các tác phẩm của mình, Phan Bội Châu cũng đã lý giải con đường phát triển của kinh tế Nhật Bản và Nhật Bản đương thời đã là một quốc gia công nghiệp hóa, có nhiều tập đoàn kinh tế hiện đại như là biểu tượng của đất nước phồn vinh, văn minh: “Nhật Bản là nước địa sản rất kém, chỉ có đường buôn bán là rộng rãi. Người nước họ đã biết dựa vào các bến cảng, các phụ đầu coi đó là kho báu trời ban cho. Buôn bán với nước ngoài muốn có vốn to họ đều phải nhóm góp nhiều cổ phần lại. Hội xã châu thức (kabushiki kaisha) của họ rất phát triển.”[12]

Tuy nhiên, hình ảnh Nhật Bản mà Phan Bội Châu vẽ ra không chỉ là một nước Nhật Bản duy tân, phát triển, hiện đại, tức là một nước có “văn minh vật chất” phát triển cao mà còn là một đất nước cũng có “văn minh tinh thần” phát triển cao. “Văn minh tinh thần” mà Phan Bội Châu dùng ở đây, trước hết có nội dung gì? Đó chính là lòng yêu nước, biết đoàn kết, biết phụng sự công việc xã hội. Ông viết: “May nhờ có đại hiền giúp đỡ mà đã thấy được một nước yên vui, thấy những phường nhân sĩ ở kinh đô, thấy từ trên công hầu dưới đàn bà con trẻ về tinh thần yêu nước mà nói thì đốt lòng nhiệt thành lên bể có thể khô, về tinh thần lo công việc mà nói, thì đoàn kết lại có thể vá được trời”[13]. Trong Hải ngoại huyết thư,  Phan coi ý thức trách nhiệm đối với xã hội của mỗi người dân Nhật là biểu hiện của trình độ “văn minh tinh thần” cao của họ: “Tôi đây đã từng đi lại ở nước Phù Tang, thấy trong nước không có chỗ nào là không ảnh hưởng tới xã hội, không có người nào là không có tinh thần xã hội, không có việc gì là không có hiệu quả xã hội”[14].

            (Lê Đại phóng dịch thơ đoạn này như sau:

“Kìa xem nước đông châu Nhật Bản,

Tàu với xe đưa đón hành nhân,

Đãi nhau tử tế muôn phần,

Khi ngồi, khi đứng, chỗ ăn, chỗ nằm,

Lúc đau yếu nom thăm đi lại,

Lấy đạo người mà đãi giống người.”[15])

Như vậy, Nhật Bản trong nhận thức của  Phan Bội Châu là một nước không chỉ đã đạt tới “văn minh vật chất” mà cao hơn, xa hơn đã đạt tới “văn minh tinh thần”. Theo cách nói của Fukuzawa Yukichi thì “văn minh vật chất” là sự phát triển của kỹ thuật, còn “văn minh tinh thần” là sự tiến bộ của dân trí, của tinh thần phụng sự xã hội của nhân dân[16]. Nhận thức về văn minh Nhật Bản của Phan như vậy đã vượt qua nhận thức của những nhà tư tưởng cải cách châu Á cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, vốn chỉ chú trọng vào “văn minh vật chất”.

Vể thể chế chính trị và xã hội Nhật Bản, Phan miêu tả quan hệ giữa Thiên Hoàng (Tenno) với dân chúng như sau. “Vua Nhật Bản kính dân như thầy, như cha, thương dân như mẹ thương con, nuôi nấng con nuôi, giúp cho người bệnh tật; bệnh viện, bệnh viện trường học không có cái gì là không dành phần trước cho dân, rồi sau mới đến phần mình. Ngay việc giảng hòa khai chiến, hành quân, thu thuế, điều binh… không việc gì là không do nghị viên nhân dân quyết định” [17].

            (Lê Đại phóng dịch thơ đoạn này như sau:

Kìa xem Nhật Bản người ta,
Vua dân như thể một nhà kính yêu.
Chữ bình đẳng đặt đầu chính phủ,
Bấy lâu nay dân chủ cộng hòa.[18] )

Ở đây, chúng ta có thể thấy là Phan Bội Châu đã mỹ hóa xã hội Nhật Bản và Thiên Hoàng. Nếu chỉ dừng lại ở đoạn trích trên, chúng ta dễ lầm tưởng là Phan Bội Châu không nhìn thấy mặt trái của xã hội Nhật. Mục đích chính của ông khi “mỹ hóa” xã hội Nhật Bản là muốn đem đối lập những điều tốt đẹp của Nhật với những điều xấu xa, tệ hại của Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp để thức tỉnh ý thức  nhân dân, làm cho họ thấy rõ hơn thực chất của chế độ thực dân-phong kiến và cổ vũ họ noi theo Nhật Bản để xây dựng nước Việt Nam độc lập và giàu mạnh.

             Một cách tiếp cận lý thú khác của Phan Bội Châu là ông lấy dân quyền mà tiêu chuẩn để phân chia “đẳng cấp” của các nước. Trong Việt Nam quốc sử khảo, ông coi Nhật Bản thuộc nhóm các cường quốc vì ở Nhật Bản dân quyền được tôn trọng: “Nhật, Anh, Đức, Pháp, Mỹ đều là những cường quốc, tức là đều là những nước mà dân quyền được đề cao. Hình pháp, chính lệnh, thuế khoá, tiêu dùng đều do nghị viện quyết định, mà nghị viện thì đều do nhân dân tổ chức nên, Chính phủ không được can thiệp vào. Hàng năm đến kỳ nghị viện họp, các nghị viên tụ tập đông đủ, Chính phủ phải trình bày dự án trước nghị hội. Nghị hội tức là nhân dân. Những điều nhân dân cho là phải, chính phủ không thể không làm; những điều nhân dân cho là trái, chính phủ không được làm” [19].

            Trong các tác phẩm mà Phan Bội Châu sáng tác trong thời kỳ ở Nhật thì Tân Việt Nam được viết với tinh thần lạc quan nhất, biểu hiện của thời kỳ đắc ý nhất trong hoạt động cách mạng của ông. Trong tác phẩm đó, ông vẽ ra tương lai của Tân Việt Nam “sau khi duy tân” theo hình ảnh Nhật Bản hiện tại: “Sau khi duy tân rồi thì tư cách nội trị, quyền lợi ngoại giao đều do ta nắm giữ. Sự nghiệp văn minh ngày càng tiến bộ, phạm vi thế lực ngày càng mở mang. Sau khi duy tân rồi dân trí sẽ được mở mang, dân khí sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt, vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ. Nước Nhật Bản bây giờ cũng như nước Việt Nam sau này vậy”[20]. Nếu hình ảnh Nhật Bản được Phan miêu tả trước khi ông sang Nhật là hình ảnh của một cường quốc quân sự do ánh hào quang của những chiến thắng trong chiến tranh Nga-Nhật tạo ra, thì trong tác phẩm này ông vẽ ra một nước Nhật văn minh, có nền công nghiệp phát triển cao, có nếp sống xã hội cao, một tinh thần dân tộc cao. Trong mơ ước xây dựng một nước Việt Nam mới của Phan Bội Châu thì hình ảnh đất nước văn minh, dân quyền, dân chủ chiếm ưu thế.

             Mặc dầu vào giai đoạn cuối thời kỳ ở Nhật, Phan Bội Châu đã mất lòng tin vào chính phủ Nhật do chính sách của họ đối với những nhà hoạt động Việt Nam ở Nhật nhưng trong các tác phẩm viết vào thời kỳ đó, ông vẫn ngưỡng mộ Nhật Bản. Đây không phải là sự ngưỡng mộ chính phủ Nhật mà sự ngưỡng mộ một đất nước châu Á phát triển và văn minh. Ông kêu gọi học tập Nhật Bản chủ yếu là muốn học tập tinh thần văn minh của họ.

                 

Kết luận

            Các tác phẩm của Phan Bội Châu sáng tác trong thời kỳ hoạt động ở Nhật vì mục đích trước hết là tuyên truyền cách mạng nên có giá trị như là bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và triều đình phong kiến, có tác dụng khai sáng tư tưởng cho nhân dân trong sự nghiệp khôi phục độc lập dân tộc và xây dựng nước Việt Nam mới.

             Một số tác phẩm của Phan Bội Châu được các đồng chí của ông dịch ra thơ, bằng chữ quốc ngữ nên nó càng được phổ biến rộng rãi hơn trong nhân dân. Đặc biệt các tác phẩm của Phan Bội Châu viết trong thời kỳ ở Nhật được trường Đông Kinh Nghĩa Thục, các trường học ở Trung Kỳ dùng làm giáo khoa giảng dạy trong trường nên có sức phổ biến và tác dụng giáo dục lòng yêu nước, “khai dân trí, chấn dân khí”  mạnh mẽ hơn.

Cần phải có công trình nghiên cứu chuyên sâu hơn xem xét các tác phẩm của Phan Bội Châu sáng tác ở Nhật Bản trong thời kỳ 1905-1909 được phổ biến vào trong nước đến mức nào, bằng cách thức nào và có tác dụng như thế nào đối với phong trào cách mạng nước ta. Và cũng cần phải nghiên cứu nhiều hơn để xác định vị trí của các trước tác của Phan Bội Châu trong thời kỳ ở Nhật trong sự nghiệp văn học đồ sộ, đa dạng của ông cũng như trong nền văn học nước nhà đầu thế kỷ XX. Song có một điều chắc chắn là những sáng tác của Phan Bội Châu trong giai đoạn ở Nhật Bản (1905-1909) vừa có đóng góp to lớn cho văn học trong buổi giao thời từ văn học truyền thống đến văn học cận đại, vừa có đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc buổi giao thời từ kiểu cũ mang tính truyền thống đến kiểu mới mang tính cách mạng.

             

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Chương Thâu, 1982: Phan Bội Châu – Con người và sự nghiệp, NXB Nghệ Tĩnh.

2. Chương Thâu (Biên tập), 1990: Phan Bội Châu Toàn tập, 10 tập, NXB Thuận Hóa, Huế.

3. Chương Thâu, Trần Ngọc Vương (Sưu tầm, biên soạn), 2001: Phan Bội Châu: Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.

4. Marr David G, 1971: Vietnamese Anti-Colonialism 1885 -1925, University of California Press, Berkely.

5. Nguyễn Văn Kiệm, 1979: Lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

6. Nguyễn Tiến Lực, 2008: Những hoạt động của Phan Bội Châu ở Nhật Bản 1905-1909, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

7. Nhiều tác giả, 2006: Quan hệ văn hóa giáo dục Việt Nam-Nhật Bản và 100 năm phong trào Đông Du, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

8. Shiraishi Masaya, 2000: Phong trào dân tộc Việt nam và quan hệ của nó với Nhật Bản-Châu Á-Tư tưởng của Phan Bội Châu về cách mạng và thế giới-, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Trần Văn Giàu, 1975: Sự phát triển tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, T.2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

10. Viện Văn Học, 1970: Nhà yêu nước, nhà văn Phan Bội Châu, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

 

 

 

 

 

 

 

 

 



[1] PGS.TS, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM

[2] Chương Thâu (Biên tập), 1990: Phan Bội Châu Toàn tập, T.3, NXB Thuận Hóa, Huế, tr.192.

[3] Nguyễn Văn Kiệm, 1979: Lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 79.

[4] Theo Chương Thâu, 1962: Ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc đối với sự chuyển biến tư tưởng của Phan Bội Châu, Nghiên cứu Lịch sử, Số 43, tr. 15.

[5] David, G.. Marr, 1971: Vietnamese Anti-colonialism, 1885-1925, University of california Press, Berkely, tr.189.

[6] Dẫn theo Nguyễn Tiến Lưc, 2008: Những hoạt động của Phan Bội Châu ở Nhật Bản 1905-1909, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 195.

[7] Trong Phan Bội Châu Toàn tập, bản 1990, có dịch là Thư gửi Phan Chu Trinh, Kính gửi  Ngài Bá tước Đại Ôi Trọng tín và KÍnh gửi Ngài Tiểu Thôn Thọ Thái Lang.

[8]  Chương Thâu (Biên tập), 1990: Phan Bội Châu Toàn tập, T.3, Sđd, tr.184.

[9] Chương Thâu (Biên tập), 1990: Phan Bội Châu Toàn tập, T.2, NXB Thuận Hóa, Huế, tr.472-473.

[10] Chương Thâu (Biên tập), 1990: Phan Bội Châu Toàn tập, T.2, Sđd, tr. 35-36.

[11] Chương Thâu (Biên tập), 1990: Phan Bội Châu Toàn tập, T.2, Sđd, tr.55.

[12] Chương Thâu (Biên tập), 1990: Phan Bội Châu Toàn tập, T.2, Sđd, tr.90. Trong sách người dịch viết là “xã hội châu thức”, theo tôi có lẽ người dịch đã nhầm. Đúng ra dịch theo kiểu Hán-Việt là “châu thức hội xã” tức là Kabushiki Kaisha, nghĩa là công ty cổ phần thì có lý hơn.

[13] Chương Thâu (Biên tập), 1990: Phan Bội Châu Toàn tập, T.2, Sđd, tr.25.

[14] Chương Thâu (Biên tập), 1990: Phan Bội Châu Toàn tập, T.2, Sđd, tr.191.

[15] Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu, Lê Đại dịch thơ, Tư liệu nguồn mở: vi.wikisource.org/

[16] Nguyễn Tiến Lực, 1995: Fukuzawa Yukichi và tư tưởng khai sáng của ông, Tạp chí Triêt học, Số 2, tr. 74.

[17] Phan Bội Châu, 1990: Hải ngoại huyết thư, Sđd, tr. 198.

[18] Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu, Lê Đại dịch thơ, Tư liệu nguồn mở: vi.wikisource.org/

 

[19] Chương Thâu (Biên tập), 1990: Phan Bội Châu Toàn tập, T.2, Sđd, tr.387.

[20] Chương Thâu (Biên tập), 1990: Phan Bội Châu Toàn tập, T.2, Sđd, 273.

Danh mục website