Thơ Giang Nam - Tiếng nói trữ tình sâu lắng, chân thành

VH-NN – Sự nghiệp văn học của Giang Nam là luận văn cao học của HV Trần Thị Thúy Thanh thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Công Lý. Luận văn đã được bảo vệ ở Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM vào ngày 20/4/2012 với kết quả Giỏi. VH-NN xin giới thiệu Mục 2.1. của Luận văn:  THƠ GIANG NAM - TIẾNG NÓI TRỮ TÌNH SÂU LẮNG, CHÂN THÀNH

 HV Trần Thị Thúy Thanh và nhà thơ Giang Nam

2.1.1. Thơ ca kháng chiến chống Mỹ

2.1.1.1. Khi còn học ở Quy Nhơn, mới mười hai tuổi Giang Nam đã có những sáng tác đầu tay viết về quê hương đất nước, nhưng như nhà thơ tự nhận là “vẫn còn non nớt”. Bước vào cuộc kháng chiến, ông được sống với những năm tháng chiến đấu tuy gian khổ nhưng hào hùng, vĩ đại của cả dân tộc. Và ông thực sự được “chín” trong thực tiễn cách mạng.

            Một điều dễ nhận thấy trong các sáng tác của ông giai đoạn này là hình ảnh quê hương, đất nước. Tình yêu quê hương xứ sở là tình cảm sẵn có trong trái tim mỗi người và Giang Nam cũng không ngoại lệ.  Quê hương, đất nước vốn là đề tài quen thuộc, là nguồn cảm hứng lớn của thi ca từ bao đời nay, là nơi bao thế hệ thi nhân gặp nhau và gặp lại mình trong tình yêu lớn của dân tộc. Trong tiếng gầm của đại bác, xe tăng tiếng hát ca ngợi quê hương, đất nước vẫn vút cao. Tình yêu quê hương, đất nước thật đậm đà trong thơ ca cách mạng [21, tr.99-100]. Chẳng hạn Lê Anh Xuân đã có những vần thơ đẹp về hình ảnh đất nước:

                                    Có nơi đâu đẹp tuyệt vời

                                    Như sông, như núi, như người Việt Nam

                                    Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang

                                    Cà Mau cuối đất mỡ màng phù sa.                                                                                                                        (Nguyễn Văn Trỗi)

            Còn đất nước trong thơ Viễn Phương đẹp bình dị, hiền hòa và đầy chất thơ:

                                    Tổ quốc mình mát rượi những dòng sông

                                    Bốn ngàn năm đôi má vẫn hồng

                                    Đỉnh núi vươn cao cho mặt trời làm tổ

                                    Bình nguyên dài nắng trải mênh mông.

                                                                        (Tổ quốc)

            Hay như Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận về Đất nước gắn liền với những gì cụ thể, gần gũi, thân thiết:

                                    Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

                                    Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa…”

                                                                                                mẹ thường hay kể

                                    Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn

                                    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

                                    Tóc mẹ thì bới sau đầu

                                    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

                                    Cái kèo, cái cột thành tên

                                    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

                                    Đất Nước có từ ngày đó…

                                                                        (Trích trường ca Mặt đường khát vọng)

            Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước bắt nguồn từ cội nguồn văn hóa dân gian, từ truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, từ phong tục tập quán, từ tình nghĩa thủy chung của con người, từ lao động,… Tất cả đã làm nên “Đất Nước muôn đời” và những người làm ra Đất Nước đó chính là Nhân dân với những lớp người qua bốn ngàn năm, nên Đất Nước đó là “Đất Nước của nhân dân -  Đất Nước của ca dao thần thoại”.

            Tiếp thu mạch nguồn truyền thống của dân tộc, đi vào kháng chiến và cách mạng, sống cuộc đời chiến đấu giữa cảnh Quê hương mình trăm vết thương rỉ máu, đã giúp Giang Nam lớn lên thật nhiều trong suy nghĩ và trong cảm xúc nghệ thuật. Dù viết về đề tài nào cũng là dịp để ông gắn bó với quê hương hơn. Rất ít những bài thơ mà tác giả không nói về quê hương. Quê hương là đất mẹ, quê hương là “Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường”, là “trang sách nhỏ”, “những ngày trốn học, đuổi bướm cạnh cầu ao”, là tình yêu đầu đời với “cô bé nhà bên”, là “dòng Krông-nô nước phù sa cuốn đỏ”, quê hương là “rẫy lúa, nương khoai”, quê hương là “tiếng xa quay dìu dịu ngân dài”, quê hương là “tiếng dân ca như mạch nước ngầm trong mát”, quê hương là “tiếng hò khoan dìu dặt” [107, tr.99-100]. Chính vì vậy mà khi đọc thơ Giang Nam, Hoài Thanh đã có nhận xét thật chính xác: “Tình yêu quê hương đất nước đúng là linh hồn của thơ Giang Nam” [20, tr.115].

Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là quê cha đất tổ, là nơi có tiếng mẹ ru con dịu dàng từ thuở còn nằm nôi. Vì vậy, dù thoát ly gia đình, tham gia kháng chiến từ khi còn là chàng thanh niên mười sáu tuổi, trái tim ông vẫn hướng về quê mẹ mến thương và những vần thơ ngọt ngào về quê hương Ninh Hòa – Khánh Hòa vang lên thật nồng nàn, tha thiết:

                                    Quê hương ơi, tạm biệt!

                                    Ta đi đây thôi nhé, ta đi đây!

                                    Nhớ thương nhiều, từ bến nước đồi cây

                                    Từ khung cửa, mảnh trời, từ góc vườn, đám bí.

                                                                        (Đi để trở về)

Kháng chiến bùng nổ, quê hương đầy bóng giặc, tạm biệt quê hương thân yêu, tác giả dấn thân vì lý tưởng cao đẹp, giải phóng quê hương, mang lại sự bình yên cho thôn xóm. Ra đi, thế nhưng lòng vẫn mang nặng nỗi nhớ thương, lưu luyến. Một bến nước, đồi cây, một khung cửa, mảnh trời, một góc vườn, đám bí thật giản dị, nhưng đó là tất cả, là quê hương, là nơi in dấu những kỷ niệm tuổi thơ. Hai câu cảm thán đi liền nhau, cùng với những hình ảnh quen thuộc, gần gũi đã phần nào diễn tả tâm trạng bịn rịn, lưu luyến, nhớ thương của người ra đi.

Chính vì lẽ đó mà trên những bước đường hành quân hay khi “vòng vây kẻ thù xiết chặt dưới chân”, tác giả vẫn mơ về quê hương yêu dấu:

                                    Có những buổi dừng chân bên bờ suối

                                    Nhai lá thay cơm, nhường nhau hạt muối

                                    Mơ thấy quê hương trong giấc ngủ chập chờn

                                                                        (Tiếng hát trên cao)

Xa quê nhưng trong lòng nhà thơ vẫn giữ cho mình một góc nhỏ quê hương. Quê biển miền Trung với sóng, với gió vẫn vỗ mãi trong lòng người xa quê nỗi nhớ thương da diết:

                        Tôi lại về quê biển miền Trung

Nghe sóng nói những lời thương nhớ

Nghe gió gọi những tên người quen cũ

Nghe rì rầm ghềnh đá nhấp nhô

Nha Trang ơi! Biển đêm sóng vẫn vỗ bờ

(…)

Biển vẫn là quê hương

                        Nơi cuối cùng tôi đến

                        Biển vẫn là tâm hồn

                        Chắt chiu từng kỷ niệm.

                                                            (Biển miền Trung)

Quê hương là nơi ta sinh ra và cũng là nơi ta trở về. Với Giang Nam, biển đâu chỉ là quê hương, biển chính là tâm hồn nhà thơ, là nơi lưu giữ những kỷ niệm, những kí ức khó quên. Biển là một phần không thể thiếu trong cuộc đời nhà thơ cũng như của những con người sinh ra từ biển. Yêu biển, gắn lòng mình với phố biển thân thương, Giang Nam say sưa ca ngợi vẻ đẹp của biển:

                        Làng biển của em, làng biển của anh

                        Người chung thủy nên biển càng đẹp lắm

                        Bãi cát, hàng dương, làng chài đầy nắng

                        Đến bây giờ mới thật là ta!

                        Buổi bình minh biển nhìn rất xa

                        Và Hòn Lớn, Hòn Tre xinh như hòn ngọc.

                                                            (Biển miền Trung)

Ai một lần đặt chân đến Nha Trang, ngắm nhìn biển trong buổi bình minh, mới cảm nhận hết vẻ đẹp mặn mà của biển, mới hiểu hết những điều nhà thơ gởi gắm trong những vần thơ. Biển thật đẹp với bãi cát trắng trải dài lấp lánh, với hàng dương rì rào trong gió, với những làng chài đầy nắng, ở đó có những con người cần mẫn lao động, suốt đời bám biển, thủy chung với biển. Phải yêu biển mãnh liệt, Giang Nam mới có những cảm nhận, những rung động tinh tế trước vẻ đẹp của Hòn Lớn, Hòn Tre. Đó không chỉ là cảm nhận của riêng ông mà còn là cảm nhận chung của mọi người khi đến với Nha Trang - Khánh Hòa. Sinh ra từ biển, lớn lên với biển, vị mặn của biển đã ngấm sâu vào da thịt, vào tâm hồn nên những năm sống chiến đấu ở rừng thiếu muối, ông càng nhớ chất mặn của biển, của làng quê mình:

                        Ôi chất mặn đã làm nên đảo, nên dừa

                        Ăn hột muối Cầu Hin, thương người bám biển.

                        Biển với những lời ru cho em, cho anh

                        Từ biển mình đi đánh giặc.            

                                                 (Biển miền Trung)

Biển hiền hòa chảy dọc suốt tuổi ấu thơ. Biển dịu dàng, ngọt ngào như lời ru của mẹ cho em, cho anh. Chúng mình lớn lên trong lời ru của sóng biển. Chất mặn của biển đâu chỉ làm nên đảo, nên dừa mà nó còn ngấm sâu trong từng thớ thịt, hun đúc nên tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Và “từ biển mình đi đánh giặc”.

Quê hương với Giang Nam đâu chỉ có biển, quê hương còn có cả tiếng hát ru con buồn buồn của mẹ, có cả những cuộc đời lam lũ, có cả xương máu của những người đã ngã xuống mang lại sự bình yên cho quê hương:

                              Hăm ba năm rồi

                  Ba chưa về quê nội

                  Nơi ba lớn lên

                              Giữa những cây xoài, cây ổi

                  Nơi ba biết yêu

                  Tiếng nội hát buồn buồn

                  “À ơi, con mèo, con chuột có lông

                              Ống tre có lỗ, nồi đồng có quai”

                  Ở đó có những cuộc đời

                  Quanh năm còng lưng trên ruộng cạn.

Ở đó có máu chú cô rắc trên những cánh hoa một màu đỏ thắm.

                                                            (Con có về thăm quê nội)

Nhịp điệu thơ chậm, buồn kết hợp với lối thơ tự do rất phù hợp với tâm trạng của người con xa quê mong mỏi được một lần về thăm. Hai mươi ba năm đi mải miết “mang quê hương mình xanh biếc trên lung”, trái tim nhà thơ luôn hướng về quê mẹ với tình cảm thật thiêng liêng, sâu nặng. Chỉ cần một hình ảnh, thanh âm khẽ chạm vào trái tim cũng có thể làm ông nhói lòng. Ông gởi lời nhắn nhủ cho đứa con gái thân yêu “con có về thăm nơi ấy thay ba”  hay đó cũng là lời nhắn nhủ với chính mình. Hai mươi ba năm nhớ thương về một vùng quê, nơi hoa toàn màu đỏ, nơi thắm thiết lời ru ngọt ngào ngày xưa của mẹ theo nhịp võng đong đưa đọng lại trong trái tim nhà thơ và theo ông trên mỗi nẻo đường chiến đấu. Chính vì lẽ đó mà dù xa cách nhà thơ vẫn gắn lòng mình với quê hương:

                                    Em ơi! Dù xa xôi cách trở

                                    Dù hết cùng em chia ngọt xẻ đau

                                    Anh vẫn là cây cổ thụ rễ sâu

                                    Bám chặt xóm thôn, ăn vào lòng đất.

                                                                        (Đi để trở về)

            Một điều dễ nhận thấy là Giang Nam hay sử dụng đại từ nhân xưng “Em”. Em là ai? Là một người thân thiết gắn bó, một nửa yêu thương của nhà thơ, hay em là cả quê hương thân thương. Dù là ai đi chăng nữa thì “Em” vẫn là nhân vật trữ tình để nhà thơ bộc lộ cảm xúc của mình. Tiếng gọi “Em ơi!” vang lên thật tha thiết và gói trọn trong ấy là một lời hứa thủy chung, chân thành nhưng rất đỗi thiêng liêng!  Dù có ở phương trời nào Anh vẫn nguyện là một phần của quê hương, như cây cổ thụ suốt đời bám rễ vào quê hương.   

Dù không trực tiếp chiến đấu trên mảnh đất Ninh Hòa yêu thương, nhưng tấm lòng ông lúc nào cũng hướng về quê hương. Và tâm hồn nhà thơ ngân vang rộn rã khi hay tin quê mình được giải phóng:

                                    Đi giữa đường Trường Sơn

                                    Nghe quê mình giải phóng

                                    Ba mươi năm dài, có phút giây nào

                                                                                    lòng ta không cháy bỏng

                                    Khánh Hòa ơi, nôi mẹ ru ta

                                    Rất thiêng liêng từng ngọn cỏ, tàu dừa.

                                                                        (Khánh Hòa – Nha Trang ơi)

            Ba mươi năm chưa về thăm quê mẹ. Ba mươi năm dài mang nỗi nhớ khôn nguôi về một vùng đất yêu thương… Và trong tấm lòng của người con xa quê, gắn lòng mình với quê hương, đất nước những vật vô tri bình thường như ngọn cỏ, tàu dừa sao quá đỗi thiêng liêng, bởi đó là biểu tượng, là một phần của quê hương. Ba mươi năm dài tranh đấu, có “bao nhiêu người thân yêu ngã xuống”, có bao “ước mơ cao hơn ngọn núi xanh” và bao “căm thù dập dồn hơn sóng” (Giang Nam). Và hôm nay nghe quê hương được giải phóng làm sao không khỏi vui mừng. Trong niềm vui sướng tột cùng, nhà thơ mơ một điều thật giản dị:

                                    Trong ngày vui này, xin được về cùng em

                                    Giữa thành phố thùy dương

                                                                                    sóng vỗ rất hiền

                                    Để tung hoa

                                    Lên chiếc tăng “giải phóng” đầu tiên

                                    Và khóc, cười cho thỏa thích.

                                                                        (Khánh Hòa – Nha Trang ơi)

Mang nặng trong lòng nỗi nhớ quê hương nên ông luôn ao ước được trở về:

                        Ta sẽ trở về mảnh đất nhỏ quê hương

                        Ấm áp, hiền lành của lòng ta: quê mẹ.

                        Chân sẽ bước trên ruộng đồng màu mỡ

                        Trong tiếng cười, trong tiếng hát yêu thương.

                                                            (Đi để trở về)

Mấy ai đi xa lại không ao ước được trở về bến đỗ bình yên, ấm áp: quê mẹ, quê hương. Ước mơ giản dị ấy cháy bỏng khôn nguôi trong tâm hồn nhà thơ. Được trở về quê hương là một điều thật hạnh phúc! Hạnh phúc đơn sơ ấy phải đánh đổi bằng xương máu, nước mắt của biết bao đồng bào, đồng chí thân yêu. Và sẽ hạnh phúc hơn khi quê hương không còn bóng kẻ thù xâm lược để mảnh đất này mãi mãi nở hoa, để ta có thể bước những bước tự do trên ruộng đồng màu mỡ trong tiếng cười, tiếng hát yêu thương.

Quê hương trong cách hiểu chung đó là nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi in dấu những kỷ có mặt ở những niệm tuổi thơ, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tâm hồn và nhân cách của mọi người. Nhưng đối với Giang Nam lại không hẳn như thế. Do yêu cầu công tác, phải bám chặt chiến trường, phải nơi nóng bỏng nhất của cuộc chiến, nên Giang Nam có điều kiện đi đến nhiều nơi. Chiến trường Nam Bộ rộng lớn không chỉ là mảnh đất màu mỡ, là hiện thực sinh động tạo chất liệu cho ông sáng tác mà còn là quê hương thân thiết, gắn bó máu thịt với cuộc đời ông. Đó là Sài Gòn, thành phố muôn đời vẫn trẻ, đó là Củ Chi, Long An, Bến Tre, Cà Mau,… Mỗi vùng đất đi qua đều để lại trong lòng ông bao cảm xúc rưng rưng về quê hương đất nước. Với ông đâu cũng là quê hương! Chính không gian miền Nam rộng lớn đã giúp Giang Nam thể hiện tình yêu quê hương đất nước trong thơ toàn diện hơn. Dường như có sự đồng điệu trong tâm hồn của thế hệ nhà thơ thời chống Mỹ khi đề cập đến điều này. Nhà thơ Xuân Quỳnh cũng đã từng viết:

                                    Ngọn gió đi qua thành nỗi nhớ

                                    Cát khô cằn ở mãi hóa yêu thương.

                                                            (Gió Lào cát trắng – Xuân Quỳnh)

Câu thơ trữ tình mà đậm chất chính luận thể hiện tình cảm yêu thương, gắn bó của con người đối với vùng đất mình đã từng sinh sống.

Giang Nam khi về sống giữa quê em mới có mấy ngày mà cứ ngỡ như đã ở đây lâu lắm rồi, và khi chia xa, ông vẫn “nhớ thương mãi một góc trời quê hương” (Giang Nam).

Có thể thấy hình ảnh quê hương Nam bộ luôn thường trực trong trái tim của nhà thơ. Yêu mến, tự hào vô cùng về vùng đất anh dũng thành đồng, Giang Nam say sưa ca ngợi vẻ đẹp của quê hương đất nước, con người miền Nam. Vẻ đẹp của vùng quê Nam bộ hiện lên ở sự xanh mát của hàng dừa, ở cánh đồng lúa vàng nặng trĩu bông, ở đàn cò trắng sải cánh trên đồng ruộng bao la, ở cái nắng vàng rực rỡ, ngọt ngào. Và tấm lòng nhà thơ đôi khi hòa quyện với cảnh sắc quê hương:

                                    Tôi đã nghe tiếng hò khoan dìu dặt

                                    Một chiều Cửu Long bát ngát mây trời

                                    Tôi đã về thăm phố chợ đông vui

                                    Vết đạn còn in trên tường vôi, mái ngói.

                                                                        (Đất anh hùng)

Trong cảm nhận của Giang Nam, quê hương đất nước vốn là những gì rất cụ thể, gần gũi, thân quen. Hình ảnh quê hương đất nước trong thơ Giang Nam gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ:

                                    Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

                                    Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ

                                     “Ai bảo chăn trâu là khổ?”

                                    Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

                                    Những ngày trốn học

                                    Đuổi bướm cạnh cầu ao

                                    Mẹ bắt được…

                                    Chưa đánh roi nào đã khóc!

                                    Cô bé nhà bên nhìn tôi cười khúc khích…

                                                                        (Quê hương)

            Tiếng thơ Giang Nam là tiếng nói chân tình, ấm áp đưa ta về với những kỷ niệm tuổi thơ và quê hương. Quê hương đối với mỗi người là cái gì đó thật giản dị, gần gũi nhưng cũng rất đỗi thiêng liêng. Với Giang Nam, quê hương là con đường ngày ngày cắp sách đến trường, là trang sách nhỏ chở bao mơ ước, là phút giây thả hồn mình mơ màng nghe tiếng chim hót, là những ngày trốn học đuổi bướm cầu ao, là tiếng khóc sợ đau của trẻ nhỏ khi bị mẹ bắt gặp, là tiếng cười khúc khích của cô bé nhà bên.

            Không những thế, quê hương đất nước còn hiện lên qua hương vị đậm đà chốn quê nhà:          

                                    Con lại về leo cây khế sau vườn

                                    Ăn trái khế chua mỉm cười nhắm mắt.

                                                                        (Sau ngày chiến thắng)

                                    Quê hương ngọt múi sầu riêng chín

                                    Những chiếc xuồng vui chở ánh trăng.

                                                                        (Có một mùa xuân đẹp đã về)

                                    Ôi ngọn khói hòa bình thơm mùi cỏ mật quê hương!

                                                (Vì một em gái ngã xuống giữa ngày 28-1-1973)

                                    Anh biết mùa này thơm chín khắp nơi

                                    Gió, nắng quê ta đã ngọt ngào chất mật

                                    Ngọt cả lòng em, con thoi đưa khách

                                    Đi khắp đất trời vẫn nhớ mùa thơm.

                                                                        (Mùa thơm)

                                    Mảnh đất đồng bằng ngọt mía, vàng cam

                                    Gợi nhớ, gợi thương những chân trời cũ

                                    Đuốc rừng Ba Tơ  – đắng, lạt canh đu đủ

                                    Đêm Hàm Luông, cá nhảy trắng khoang xuồng.

                                                                        (Một mặt trời đỏ rực)

            Hương vị ngọt ngào của quê hương như thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn nhà thơ để rồi bật lên thành tiếng thơ ngọt lịm, trong trẻo.

Tình yêu quê hương đất nước trong thơ Giang Nam còn gắn liền với những tình cảm thật cụ thể: tình mẹ con, tình vợ chồng, tình yêu đôi lứa.

            Đọc thơ Giang Nam, người đọc nhận thấy ông ghi lại rất đúng, rất sâu, rất cảm động tình mẹ con gắn liền với tình yêu quê hương đất nước [116, tr. 316]. Thuở còn thơ, chàng trai trong bài “Quê hương” đã từng “có những ngày trốn học – Đuổi bướm cạnh cầu ao – Mẹ bắt được – Chưa đánh roi nào đã khóc”. Khóc vì sợ mẹ đánh đòn đau. Đó là nỗi sợ ngây ngô của trẻ nhỏ. Theo thời gian, chàng trai lớn dần lên, chàng càng thấu hiểu tấm lòng mẹ dành cho con, bởi ông cha ta từng nói “Thương cho roi cho vọt”. Chính vì lẽ đó mà trong nỗi nhớ về những kỷ niệm ngày xưa về quê hương, có nỗi nhớ về tình mẹ:

                                    Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm

                                    Có những ngày trốn học bị đòn roi…

                                                                        (Quê hương

            Yêu quê hương đâu chỉ bởi cảnh đẹp của quê hương mà yêu quê hương còn bởi ở đó có kỷ niệm khôn nguôi về mẹ. Nhà thơ không nói gì về tình mẹ con, thế nhưng người đọc vẫn cảm nhận được tình cảm thiêng liêng và sâu nặng ấy qua hình ảnh “trốn học bị đòn roi”.

            Tình vợ chồng, tình yêu đôi lứa – những tình cảm riêng tư rất khó được chấp nhận trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Vì vậy, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, trong văn học có rất ít bài thơ viết về tình yêu. Và nếu có chăng thì những bài thơ ấy cũng bị lên án, bị khép vào lỗi “thời đại”. Nhưng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thì lại có khá nhiều bài thơ đề cập đến tình cảm riêng tư ấy. Nhưng tình yêu trong giai đoạn này lại mang một màu sắc mới, tích cực hơn nhiều.

            Đọc bài Quê hương, người đọc không thể nào quên mối tình đẹp như thơ trong cảnh quê hương khói lửa của chàng trai cùng cô bé nhà bên có “đôi mắt đen tròn” lay láy cùng miệng cười khúc khích. Nhưng mối tình ấy nhanh chóng bị giết chết bởi sự tàn bạo của kẻ thù, bởi cô gái đã từng vì quê hương đất nước mà đứng lên, vào du kích cầm súng chống ngoại xâm:

                                    Giặc bắn em rồi, quăng mất xác

                                    Chỉ vì em là du kích, em ơi!

                                    Đau xé lòng anh, chết nửa con người…

            Chỉ một tiếng “em ơi!” nhưng chất chứa trong ấy biết bao nhiêu là nỗi đau đớn, xót xa, nỗi uất ức, căm hờn. Và từ đây tình yêu quê hương đất nước được nâng lên một bậc:

                                    Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

                                    Có một phần xương thịt của em tôi.

            Tình yêu riêng mất đi đã bồi đắp cho tình yêu quê hương những ý nghĩa mới. Tình yêu quê hương giờ đây không còn giản dị, êm dịu như trước nữa mà giờ đây trong tình yêu còn có cả ý chí căm thù giặc sâu sắc. Ngày nay, yêu quê hương là yêu “từng nắm đất” quê mình đã thấm máu thịt của người thân yêu. Chính vì vậy, tình yêu đối với quê hương giờ đây thật thiêng liêng, sâu nặng. Giang Nam đã diễn tả rất đúng những tình cảm riêng – chung của người cách mạng [116, tr.318]. Tình cảm riêng tư của con người hòa lẫn vào cái lớn lao chung của quê hương. Tất cả như hòa quyện thành một khối thống nhất không thể tách rời.  Không nói ra nhưng người đọc vẫn nhận thấy đằng sau nỗi đau đớn, căm hờn ấy là một lời hứa, một quyết tâm bảo vệ quê hương đất nước. Để mối tình của đôi lứa không phải tắc nghẹn nửa chừng thì chỉ có một con đường là chiến đấu.

Quê hương còn được Giang Nam cụ thể hóa bằng đôi mắt của “em”: “Tôi nhớ đôi mắt em – đôi mắt quê hương đậm đà chung thủy”“em còn sống đấy, quê hương – Vẫn đôi mắt của đồng, bưng cuối trời”. Như vậy, quê hương đâu còn là khái niệm trừu tượng, vô hình mà hết sức cụ thể, hữu hình. Quê hương chính là mẹ, là em, là những gì thân thiết nhất đối với ông.

            Ngay cả khi khóc anh Trỗi, ông cũng nhắc đến quê hương:

                                    Quê chúng mình khu Năm – anh còn nhớ

                                    Chuyến đò ngang trên sông nước Thu Bồn

                                    Và Sài Gòn –

                                                            Sài Gòn trăm mến nghìn thương

                                    Bà Chiểu, Thị Nghè, Cầu Bông, Khánh Hội.

                                                                        (Mạnh hơn súng gươm và án tử hình)

            Có lẽ một điều khiến Giang Nam khác với các nhà thơ khác cùng thời là ông  hay nhắc đến những địa danh mọi miền của đất nước trong thơ. Luôn sống trong cảm thức về quê hương đất nước nên những địa danh đất nước đi vào thơ ông ngọt ngào như câu ca dao thuở trước:

Ta về, ta nhớ Hàm Luông

Hầm chông An Thạnh, mái trường Mỹ Nhơn.

                                                                        (Giã từ Bến Tre)

            Hoài Thanh cho rằng việc Giang Nam nhắc đến những địa danh đất nước như vậy là điều nên làm: “Có những mảnh đất ta chưa hề đi đến bao giờ mà ta lại thấy rất quen, mỗi lần nhắc đến bỗng như sống lại cả một trời kỷ niệm: một bến nước sông Tương, một đầu cầu sông Vị. Trái lại có những mảnh đất đáng lẽ phải rất quen vì cha ông ta đời này sang đời khác đã gửi vào trong đó bao nhiêu vui buồn, bao nhiêu mồ hôi nước mắt, bao nhiêu xương máu nữa, thế mà ta lại thấy hững hờ xa lạ. Ấy chỉ vì nó chưa được nhắc đến trong văn thơ. Món nợ lâu đời ấy đối với quê hương chúng ta phải liệu mà thanh toán. Và Giang Nam là một người nhiều khả năng góp phần thanh toán” [20, tr.116].

            Giang Nam nói nhiều đến miền Bắc. Đó là điều đặc biệt ở ông, bởi trong số các nhà thơ miền Nam cùng thế hệ ít có cây bút nào viết nhiều về miền Bắc. Dù chưa một lần đặt chân lên miền Bắc nhưng miền Bắc trong niềm khát khao, trong trí tưởng tượng của ông hiện lên thật đẹp. Ở đó có màu “đỏ dải lụa sông Hồng”, “màu xanh cành cam”, “màu trắng cánh cò”, “màu tím hoa mua”, “màu vàng của ngôi sao vàng năm cánh”, nơi có “năm sắc cầu vồng đã làm nên Tổ quốc ta hùng vĩ”, làm nên “màu cuộc sống thiêng liêng từ thuở những vua Hùng”. Miền Bắc là hậu phương cách mạng vững chắc, không những là chỗ dựa tinh thần, cổ vũ sức mạnh mà còn là động lực vật chất đối với tiền tuyến lớn miền Nam “Mỗi tiếng nói hậu phương cũng trở thành chông súng” [72, tr.135]. Giang Nam đã từng tâm sự đối với quân và dân miền Nam lúc bấy giờ hậu phương miền Bắc thật sự quan trọng. Nếu có việc gì xảy ra với miền Bắc thì miền Nam không biết bấu víu vào đâu. Và nếu không có hậu phương lớn miền Bắc thì liệu cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của quân dân miền Nam có đi đến thắng lợi và đất nước Việt Nam có được thống nhất hoàn toàn? Chính đế quốc Mỹ cũng hiểu được điều đó. Chúng đã từng cố gắng dùng đủ mọi thủ đoạn, dùng những vũ khí tối tân nhất để đưa miền Bắc trở về thời kì đồ đá. Chúng “không chỉ giết người, chúng cố giết niềm tin – Ôi ngọn hải đăng xa bờ rực sáng” [69, tr.134]. Cuộc chiến khốc liệt là thế nhưng hình ảnh tươi vui của miền Bắc trong lòng miền Nam vẫn vô cùng thân thiết. Những người con của hai miền Nam Bắc vẫn tìm đến nhau. Những ngày đoàn đại biểu miền Nam đi thăm miền Bắc, nhà thơ Thanh Hải có mặt trong đoàn đã nói: “Mười ngày như một giấc mơ”. Riêng Giang Nam không có mặt trong đoàn, nhưng đúng ngày đoàn đặt chân lên miền Bắc, ngày 19-10-1962, ông đã viết những dòng thơ ngọt ngào, thắm thiết:

                        Giữa một ngày cuối thu

                        Các anh đặt chân lên miền Bắc

(…)

 Bước xuống Đồng Đăng giữa cô bác, anh em

                        Anh có nghe đất dưới chân mịn màng quen thuộc?

Khi đàn cháu miền Nam ôm hoa trước ngực

                        Chưa kịp tặng anh mà nước mắt chạy quanh

                        Anh có bồng cháu lên hôn đôi má mủm xinh

                        Kể chuyện má ba không ngừng chiến đấu?

                        Dọc đường xe đi có bao nhiêu giàn giáo

                        Chọc trời, điện sáng đêm đêm…

                        Ngói đỏ, áo hoa, hạnh phúc, hòa bình…

                        Anh có khóc khi “trở về” Tổ quốc?

                                                            (Anh có thấy không anh)

 Từ một nửa đất nước đau thương mà vô cùng anh dũng, tấm lòng nhà thơ hướng về miền Bắc ruột thịt yêu thương với những vần thơ chân thành, xúc động, sâu lắng một niềm tin yêu tha thiết:

                                    Mười năm rồi, đường chiến đấu ta đi

                                    Từng phút, từng giây nhớ thương miền Bắc…

                                    Chưa thấy Hồng Gai tàu ăn than tấp nập

                                    Chưa về Nghệ An thăm làng nhỏ: Kim Liên                                                                     Hà Nội ơi, máu về tụ giữa tim

                                    Tóc Bác có bạc nhiều những đêm không ngủ?

                                    Giặc Mỹ liệu hồn: thịt xương ta đó…

                                                                        (Gởi miền Bắc

            Đó là tiếng lòng của người thanh niên trên tiền tuyến lớn miền Nam gởi cho đồng bào miền Bắc yêu thương. Lẽ thường con người nảy sinh tình cảm với những nơi mình đã đi qua, những nơi mình từng gắn bó yêu thương. Còn với Giang Nam dường như không hẳn như thế. Chúng ta điều biết chắc chắn một điều nhà thơ chưa từng đặt chân lên miền Bắc, chưa thấy Hồng Gai, chưa về Nghệ An, thế nhưng mười năm rồi trên bước đường chiến đấu, từng giây, từng phút ông không nguôi nhớ thương về miền Bắc. Với ông miền Bắc đâu chỉ là hậu phương, miền Bắc còn là máu thịt, là một phần cơ thể, là lẽ sống của ông.Vì vậy, ông gởi trọn tình yêu và niềm tin tưởng của người con miền Nam với miền Bắc. Giang Nam nhiều lần tâm sự:

                                    Ngàn vạn lần tôi thầm gọi hậu phương

                                    Chưa nói hết được tấm lòng tôi với em, với mẹ.

                                                                        (Giữ cho tôi màu sắc nước non này)

            Miền Bắc đã đóng góp cả sức người và sức của cho chiến trường lớn miền Nam. Cả miền Bắc vì miền Nam đã cùng đứng lên đánh giặc. Và để tiền tuyến lớn trong này có thêm một làng giải phóng thì “Em ở ngoài kia phải thức mấy trăm đêm”, phải “làm việc bằng hai”.  Đồng bào Miền Bắc đã nghe theo lời hịch thiêng liêng của Bác Hồ: kháng chiến!, “Còn tự do, ta sẽ còn tất cả”. Vì vậy,  những chàng trai, cô gái đã “giao lại mẹ, em ruộng mùa cày dở - Súng khoác vai, ba lô nặng lên đường” theo tiếng gọi của tiền tuyến lớn. Và Giang Nam nói:

                                    Những chuyến ra đi trong này hiểu lắm

                                    … Những chuyến ra đi xanh rờn lá ngụy trang

                                    … Những chuyến ra đi không bao giờ chấm dứt

                                    Như sông Mã, sông Hồng cuồn cuộn phù sa

                                    Những chuyến ra đi trong thời đại Bác Hồ…

                                                                        (Những chuyến ra đi)

            Những chuyến ra đi có từ thuở Hùng Vương. Những chuyến ra đi bắt nguồn từ truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc. Lê Anh Xuân cũng đã từng nói: “Đây là cuộc hành quân cả nước – Đội ngũ ta dài suốt bốn ngàn năm”. Còn Giang Nam lại nghĩ : “Lịch sử không ngừng hành quân hối hả”.

            Giang Nam viết về những đồng chí hải quân, những đồng chí pháo binh, những chị công nhân miền Bắc với thái độ ngợi ca, cảm phục:

                                    Hoan hô các anh, những anh hùng rất trẻ

                                    Hoan hô hậu phương dũng cảm tuyệt vời.

                                                                        (Gởi miền Bắc)

Miền Bắc trong lòng miền Nam cũng như trong lòng Giang Nam là thế. Miền Nam máu lửa chỉ có hai mùa mưa nắng vậy mà trong ông vẫn thấm cái lạnh của gió mùa đông bắc. Ông băn khoăn “vườn trẻ có  thêm chăn khi gió mùa đông bắc?”,  lo lắng không biết “tóc Bác có bạc nhiều những đêm không ngủ” và  day dứt không biết người mẹ miền Bắc “hai mươi năm trời áo vá vai, cơm ghế” nghĩ gì đêm nay khi tiễn đứa con cuối cùng “để lại ruộng vườn cày dở…”. Có bao đêm ông nằm mà “nghe thấy cả từng nhịp tim Bác đập” [108, tr.232]. Giang Nam đã nói được nghĩa tình của cả dân tộc khi mà cả hai miền còn đang bị chia cắt. Qua những vần thơ của Giang Nam, ta hiểu vì sao trong những năm tháng đấu tranh gian khổ đồng bào miền Nam vẫn chịu đựng bền bĩ, bởi họ tin vào đồng bào, đồng chí, vào Đảng, vào chế độ Xã hội Chủ nghĩa tốt đẹp ở miền Bắc. Đó là nét tâm lý rất thật của đồng bào miền Nam. Và Giang Nam bằng vốn sống, bằng ngòi bút của mình đã chuyển tải nét tâm lý lịch sử ấy đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng, chân thật [108, tr.230]. Những bài thơ viết về miền Bắc cho người đọc thấy được tình cảm gắn bó giữa hai miền của Tổ quốc, thấy được ý nghĩa vô cùng sâu xa của tình nghĩa ruột thịt, của lẽ sống quý giá “không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Nhà văn Nga I. Ê-ren-bua đã từng nhận định khá sâu sắc: “Chiến tranh khiến cho mỗi công dân Xô Viết nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê hương”. Chính sự đau thương, mất mát của quê hương càng thôi thúc chúng ta biết yêu và biết giữ gìn vẻ đẹp thanh bình của đất nước. Có thể nhận thấy tình yêu da diết đối với quê hương của Giang Nam là thứ tình yêu được xây dựng trên sự mến phục, tự hào về quê hương đất nước. Và những trang thơ của ông đã gợi dậy trong mỗi chúng ta niềm yêu mến, tự hào về vẻ đẹp của quê hương đất nước; ngưỡng mộ và cảm phục trước vẻ đẹp của con người trong một thời kì máu lửa.

            2.1.1.2. Hình tượng người phụ nữ là một hình tượng đẹp xuyên suốt trong văn học từ cổ điển đến hiện đại. Ở mỗi thời kì, cách nhìn nhận và đánh giá về người phụ nữ có sự khác nhau. Trong nền văn học cách mạng hiếm có nhà thơ nào viết nhiều và viết hay về người phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ trẻ, như Giang Nam. Ngòi bút của ông đặc biệt trân trọng, trìu mến với hình tượng nghệ thuật này. Hình ảnh người phụ nữ miền Nam xuất hiện trong thơ Giang Nam thật phong phú, đa dạng. Người phụ nữ miền Nam trong thơ Giang Nam vừa mang nét đẹp truyền thống: tần tảo, trung hậu, đảm đang, chịu thương chịu khó, yêu chồng, thương con của người phụ nữ trong ca dao xưa, vừa mang nét hiện đại của một Nguyệt Nga cầm súng trong thời đại chống Mỹ: kiên cường, bất khuất, trung thành với Đảng. Đúng như lời nhận xét của Hoài Thanh: không phải đợi đến Giang Nam người phụ nữ Việt Nam mới có mặt trong thơ ca cách mạng nhưng người phụ nữ trong thơ ông vừa có những tính cách của con người mới trong thời đại cách mạng vừa đậm đà bản sắc của con người Việt Nam [116, tr.331].

Hình ảnh các chị trong thơ Giang Nam hiện lên thật đẹp, thật dễ thương: một bờ vai nhỏ, một mái tóc dài, một tà áo bà ba, một đôi mắt đen tròn, miệng cười khúc khích cũng đủ làm say lòng người:

                                    Thương biết mấy những bờ vai nhỏ hẹp

                                    Áo bà ba trắng thon thon

                                                                        (Những người vợ miền Nam)

Môi em cười như hoa bưởi, hoa sen

                                    Tươi mát những dòng sông mùa mít ngọt.

                                                                        (Chiến thắng)          

Hình như em mặc áo màu xanh nhạt

                                    Hình như kẹp tóc em màu mây

                                    Ơi ngày bé theo mẹ về quê ngoại

                                    Có đẹp bằng cô biệt động hôm nay.

                                                                        (Cô gái mùa xuân)

Vẻ đẹp của người phụ nữ như kết tinh từ vẻ đẹp của quê hương đất nước. Dù trong hoàn cảnh kháng chiến thật khắc nghiệt, hằng ngày, hằng giờ phải đối mặt với tội ác, với cái chết nhưng những người con gái miền Nam vẫn hiện ra với những nét đẹp mềm mại và duyên dáng.

Trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, ở miền Nam người “nông dân bị cướp ruộng cày. Bát cơm khoai sắn mỗi ngày một vơi” [116, tr.318], người phụ nữ cũng không thoát khỏi cảnh khổ nghèo, lam lũ. Yêu thương, trân trọng người phụ nữ nên Giang Nam đặc biệt xót xa trước cảnh sống của người phụ nữ nghèo:

                                    Nửa căn nhà trống, vài phiên chợ

                                    Đôi cánh tay gầy, một mụn con

                                    Mưa nắng đã phai màu áo cưới

                                    Giấc mơ còn lại: một lưng cơm.

                                                                        (Lá thư thành phố)

                                    Những chiếc áo sờn vai

                                    Những bàn chân đen sạm đạp sỏi dày gai.

                                                                        (Những người vợ miền Nam)        

Chị đứng đó: quần trên gối xắn cao

                                    Nón rách cầm tay, cả cuộc đời hiền lành, lam lũ.

                                                                        (Chiếc áo cuối cùng)

Ngòi bút của nhà thơ ghi lại thật xúc động hoàn cảnh của người phụ nữ miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Cuộc đời họ là chuỗi ngày dài đói nghèo, khổ nhọc. Trong hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt phải sống cách xa chồng, không còn bờ vai vững chãi để nương tựa, người phụ nữ phải tự mình gánh vác gia đình và nhiều khi gánh luôn cả phần việc của người chồng. Thế nhưng, họ vẫn tự mình vượt lên hoàn cảnh để sống, để yêu thương. Và hơn hết, họ chính là hậu phương vững chắc cho người chồng nơi xa vững tâm chiến đấu. Lá thư người vợ gửi cho chồng đang công tác ở nơi xa gói trong ấy biết bao nhiêu là tình cảm thủy chung, thương nhớ:

 

                                    Con vẫn ăn chơi, em vẫn khoẻ

                                    Anh yên lòng nhé chốn xa xăm.

                                                                        (Lá thư thành phố)

Hay:                Nhà ta mấy bận mưa hư nát

                                    Mái lá tơi bời lạnh gối chăn

                                    Em không buồn lắm vì em biết!

                                    Anh khổ nơi xa gấp mấy lần

                                    (…)

                                    Em biết anh không ngừng chiến đấu

                                    Muôn ngàn anh chị ở bên anh

                                    Bao giờ em được lên trên ấy

                                    Vá áo cho anh rách lại lành.

                                                                        (Lá thư thành phố)

Xúc động vô cùng trước tấm lòng của những người vợ yêu chồng, thương con trong Lá thư thành phố ! Một ước mơ thật bình dị, nhỏ bé: “Bao giờ em được lên trên ấy - Vá áo cho anh rách lại lành”, một cử chỉ thật đơn giản, bình thường nhưng cũng đủ làm ấm lòng, xóa bớt nỗi cô đơn của người chồng ở nơi xa. Qua lời thơ ta thấy được cái tình của người vợ nghèo miền Nam.

Và hãy lắng nghe lời tâm sự của người vợ:

                        Con nhớ anh thường đêm biếng ngủ

                        Nó khóc làm em cũng khóc theo

                        Anh gởi về em manh áo cũ

                        Đắp cho con, đỡ nhớ anh nhiều.

                                                            (Lá thư thành phố)

Lời tâm sự của người vợ nhớ chồng thật kín đáo, rất đúng với tình cảm của phụ nữ Việt Nam nhưng chứa đựng trong ấy bao nhiêu là nhớ thương, âu yếm. Có gì đó vừa quen vừa lạ trong cách suy nghĩ, cách nói của người vợ. “Con nhớ anh thường đêm biếng ngủ”. Vậy còn em thì sao? Có người đã chữa câu thơ thành:

                        Anh nhớ gởi về manh áo cũ

                        Ủ con, cho mẹ ấm nhờ hơi

Nhưng đâu cần phải sỗ sàng như thế! Kín đáo, ít lời thật đấy nhưng cũng đủ để anh và em, những người trong cuộc hiểu nhau. Và như thế, tình yêu và nỗi nhớ càng thêm sâu sắc [116, tr.320].

Người mẹ miền Nam cũng như tất cả những bà mẹ trên trái đất này đều có tình cảm yêu thương vô tận với đứa con của mình. Đó là thứ tình cảm rất đỗi thiêng liêng: “Người mẹ sinh con mang nặng đẻ đau. Người mẹ nuôi con bằng dòng sữa của mình, bằng tâm huyết của mình, bằng toàn bộ tinh lực của mình. Ngoài nghĩa cả đối với Tổ quốc, đối với cách mạng, có tình cảm nào thiêng liêng hơn tình cảm mẹ con” (Lê Duẩn). Chị phụ nữ trong Chiếc áo cuối cùng đã chín năm trời bám chặt đất quê hương để đấu tranh. Trước khi bị địch hành hình, chị đã cởi chiếc áo mặc trên người gởi lại cho con:

                        “Tôi sắp chết rồi, không cần mặc áo

                         Xin gởi lại cho con tôi bán lấy tiền mua gạo

                        Nhờ các anh treo hộ nó lên cành

                        Máu dây vào khó giặt lắm”.

Cảm động vô cùng tấm lòng người mẹ dành cho con. Đến phút cuối cùng của cuộc đời mình mẹ vẫn hướng về con. Cử chỉ bình dị mà cao quý ấy của tình mẹ con khiến chúng ta cảm phục, khiến kẻ thù khiếp sợ.

Yêu chồng, thương con, người phụ nữ có thể hi sinh cả cuộc đời vì một nửa yêu thương của mình nhưng trên hết ở người phụ nữ miền Nam trong thơ Giang Nam là tấm lòng yêu nước, trung thành với Đảng: “Thương chồng, theo Đảng bước lên hàng đầu”. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, ở miền Nam giặc mở chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng”, chúng buộc những người phụ nữ có chồng đi tập kết ở Bắc phải làm tờ “phản tỉnh” nghĩa là phải từ bỏ chồng, nói xấu cách mạng, nói xấu Đảng. Và người phụ nữ trong bài thơ Trước tờ giấy trắng đã trải qua những giây phút dằn vặt, đau khổ:

                        Chị ngồi trước tờ giấy trắng

                        Hàng giờ không viết một câu

                        Bóng cây ngắn dần theo nắng

                        Đàn trâu chậm chạp qua cầu

Có ai từng sống trong những ngày oi bức, ngột ngạt như thế mới hiểu hết những gì mà nhà thơ đã ghi lại. Thời gian trôi qua thật nặng nề. Viết hay không viết? Có lúc chị đã dao động, chị nói như phân bua với chồng:

                        Có nên viết để con ta được sống

                        Dù một ngày, một buổi nữa rồi thôi

                        Đứt ruột sinh con đêm nào mình mẹ

                        Lẽ nào giọt nắng chết trên nôi…

Có làm mẹ mới thấu hiểu hết tấm lòng của người mẹ thương con, mới thông cảm cho phút giây yếu lòng của chị: thương con, chị muốn bám lấy cuộc sống. Thế nhưng:

                        Vụt hiện những ngày kháng chiến

                        Giành từng góc ruộng bờ ao

Vụt hiện những ngày trên bến

                                    Vẫy khăn anh bước xuống tàu!

Và kìa, dường như con và chồng đang trách chị:

                                    Có thể nào như thế được, mẹ ơi!

                                    Có thể nào như thế được, em ơi!

Cuối cùng, người phụ nữ ấy đã chiến thắng chính mình:

                                    Chị bỗng vùng lên, tưởng đang nắm tay chồng

                                    Day dứt quá giữa buồn vui mừng giận

                                    Lũ quỷ ập vào, dí súng bên hông

                                    Chị vẫn ngồi nghiêm trước tờ giấy trắng.

(Trước tờ giấy trắng)

            Không chỉ tình yêu vợ chồng, tình cảm mẹ con mà trên hết là tấm lòng thuỷ chung son sắt dành cho Đảng, cho đất nước. Từ sự day dứt về tình cảm riêng tư ta thấy được tinh thần kiên cường, bất khuất của người vợ miền Nam. Những người vợ miền Nam ấy dù có bị kẻ thù tra tấn dã man vẫn kiên gan, bất khuất, thà hi sinh thân mình chứ quyết không chịu sống cuộc đời ô nhục bởi: “Gái chỉ một chồng, người không hai nước!”. Dù phải sống cuộc đời khổ nghèo, cơ cực, dù hằng ngày phải đối mặt với họng súng, với tội ác của kẻ thù, và dù có bị bắt làm tờ “phản tỉnh” thì:

                                    Những người vợ miền Nam

                                    Hột muối cắn đôi

                                    Đợi chồng vẫn đợi…

                                                            (Những người vợ miền Nam)

            Vì vậy mà những người vợ bất khuất ấy bị điệu vào nhà lao. Và những đứa con chưa rời vú mẹ cũng phải theo mẹ vào chốn lao tù:

                                    Và những cháu thơ

                                    Sớm hiểu lao tù đế quốc

                                    Chập chững đi, chân non dại ngập ngừng

                                    Mất của cháu rồi hết mấy mùa xuân?

                                    Mấy bận tay gầy ôm chặt mẹ?

                                                            (Những người vợ miền Nam)

            Hình ảnh cháu bé thơ võ vàng sau khung cửa sắt, khát từng tia nắng mặt trời nhức nhối mãi trong trái tim nhà thơ để rồi bật lên thành lời nghe thật đau xót.

            Xiềng xích ngục tù chỉ khóa được thân xác chứ không khóa được tinh thần của con người. Sống cuộc sống tù đày ngột ngạt: “muỗi, rệp, phân người, tim bầm óc buốt”, chị vẫn mơ về kỷ niệm tuổi thơ:

                  Sáng nay xuân đến rồi,

                  Đất trời như trẻ lại.

                  Theo má về bên ngoại

                  Xanh biếc những hàng cau.

                  (…)

                  Em chị nắm tay nhau

                  Chạy trên đường đá sỏi.

                  Em ngắt chùm hoa dại

                  Mừng tuổi chị đầu năm.

                  Chị tặng em chiếc khăn

                  Có thêu dòng tên nhỏ.

                  (…)

                  Quê ngoại bên kia sông,

                  Hoa ô môi nở tím.

                  Ngồi đợi đò qua bến,

                  Chị hát cho em nghe.

                  Những câu hát ngày xưa

                  Má thường ru em ngủ.

                  Đôi môi em mọng đỏ,

                  Hớp từng hớp ngọt ngào.

                  (…)

                  Trời xanh cao rất cao

                  Có một đàn chim trắng...

                                          (Thức giữa mùa xuân)

                Họng súng đen ngòm chia cắt nước non của kẻ thù đang chĩa thẳng vào người phụ nữ, nhưng có hề gì họ vẫn kiên gan bám đất giữ làng, tham gia sản xuất và chiến đấu. Và khi sắp bị kẻ thù hành hình chị vẫn ngẩng cao đầu bất khuất:

                        Một phút nữa thôi, đạn thù sẽ nổ!

                        Chị đứng đó, bóng ngả dài trên lúa

                        Không van xin, không khóc, không buồn.

                        Vầng trán nám đen chưa lau kịp vết bùn

                                    Mảnh khăn rằn vải thưa bó tròn mái tóc

                                    Chị đứng đó: nhỏ bé, mong manh nhưng tràn đầy sinh lực

                                    Như mạ non chị cấy, như bụi chuối chị trồng.

                                    Mắt thản nhiên nhìn họng súng đen ngòm

                                    Ôi! Đôi mắt chưa bao giờ biết sợ!

                                                            (Chiếc áo cuối cùng)

Tinh thần của người phụ nữ miền Nam là thế hay cũng chính là tinh thần chung của con người miền Nam. Đạn bom của kẻ thù không bao giờ có thể hủy diệt được sức sống mãnh liệt của con người.

Và từ trong đau khổ, căm hờn, Giang Nam nhìn thấy ở những người phụ nữ miền Nam ấy sự trưởng thành trong chiến đấu và trong tính cách:

                                    Bên bờ Cửu Long gió ngàn lồng lộng

                                    Em lớn lên rồi qua giông tố phong ba.

Đã từng sống và chiến đấu, từng đi sát phong trào, đi sâu vào cuộc chiến đấu của nhân dân, đến những nơi quyết liệt nhất, những nơi mà con người sống với sức sống mạnh nhất nên Giang Nam đã ghi lại rất nhiều, rất chân thực về sự chuyển biến, lớn lên của người phụ nữ trong bão táp phong ba. Hình ảnh cô gái An Thường là hình ảnh điển hình cho người phụ nữ đã được rèn luyện qua thử thách. Lần thứ nhất, tác giả gặp cô trên bãi biển Quy Nhơn khi tiễn người yêu ra Bắc tập kết thật hồn nhiên nắm trên tay con cào cào mới thắt, đuổi bắt những chú còng giỡn nước, nụ cười bẽn lẽn trên môi và chỉ thấy cuộc đời hạnh phúc! Lần thứ hai, tác giả gặp lại cô “Trên đường phố Sài Gòn giữa những ngày giặc vào chiến dịch”. Đôi mắt mệt mỏi, thâm quầng: “Không sống nổi đâu anh! Chúng trả thù, chém bắn…”, tiếng nấc đau buồn thay cho tiếng cho “tiếng cười khúc khích, màu đỏ trên môi”. Lần thứ ba, tác giả gặp lại cô “trên phần đất tự do giành từ tay giặc Mỹ” bây giờ là: “Chị cán bộ từ đâu về hội nghị - Mà chiếc áo bạc màu mang miếng vá trên vai”(Đội du kích anh hùng). Và lần này tác giả thật sự vui mừng trước sự thay đổi, trưởng thành của cô gái: “Em khác xưa rồi lớn khoẻ biết bao nhiêu”. Quả thật, hoàn cảnh đã làm thay đổi tính cách, số phận của con người. Từ một cô gái bình dị, ngây thơ đã trở thành một nữ anh hùng:

                                    Người nữ chỉ huy dạn dày, gan dạ

                                    Mấy trăm trận chưa bao giờ biết sợ

                                                                        (Đội du kích anh hùng)

            Chính tác giả cũng nhận định:

                                    Ôi mười năm long trời lở đất

                                    Đã biến những cô gái quê thành những anh hùng!

Người nữ anh hùng Nguyễn Thị Hạnh cũng có sự chuyển biến, lớn lên như thế, từ một “cô bé gầy gò, lớn giữa đưng sình bắt cá mò cua”, chị đã trở thành cánh chim đầu đàn của đội du kích Củ Chi. Chính cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc đã tôi luyện nên tính cách anh hùng của những con người thật bình dị. Những chị Hạnh, chị Liên, chị Thắng,… đã trở thành những huyền thoại. Từ cuộc đời thực họ bước vào trang thơ để rồi bất tử trong lòng những người con yêu nước.

Không chỉ trưởng thành trong chiến đấu ở các chị còn có sự trưởng thành trong nhân cách, trong đạo đức cách mạng. Hình ảnh chị Hạnh mặc áo rách đi dự đại hội anh hùng là một hình ảnh đẹp. Chính sự bình thường, đơn giản ấy đã nâng nhân cách con người lên tầm cao mới khiến cho hình ảnh các chị càng sáng ngời lên trong chiến đấu. Và Giang Nam viết về điều này với ngòi bút trân trọng, tự hào:

                                    Anh đón em: người em gái anh hùng

                                    Nắm chặt bàn tay đen đúa nắng bùn

                                    Thương quá những đêm cắt rào, nhổ trụ

                                    Cho anh trùm lên vai em mảnh khăn rằn Nam Bộ

                                    Áo em rách rồi, không có tiền may.

                                                                        (Đội du kích anh hùng)

            Và chính vì phản ánh được những nét đẹp của người phụ nữ trưởng thành trong cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc bằng cách nói của riêng mình, thơ Giang Nam đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tình cảm mọi người.

             Đọc thơ Giang Nam, chúng ta nhận thấy một điều là vai trò của người phụ nữ miền Nam khác xưa nhiều lắm. Họ không chỉ đơn thuần là người vợ, người mẹ mà hơn hết họ là một công dân yêu nước, có trách nhiệm với đất nước, với dân tộc. Từ sau hiệp định Giơ-ne-vơ, những người kháng chiến mà đại bộ phận là nam giới đều tập kết ra Bắc. Vì thế mà “Anh đi rồi nửa đất nước giao em!”. Những người phụ nữ ấy vừa phải chăm lo gia đình, con cái, ruộng vườn, vừa đưa đường, dẫn lối cho cán bộ và làm công tác dân vận… Không gian của người phụ nữ lúc này không còn bó hẹp trong gia đình mà đã mở rộng ra. Đó là không gian của cộng đồng, của dân tộc. Ở miền Nam lúc này rất nhiều người phụ nữ đã tham gia vào cuộc chiến đấu vĩ đại của cả dân tộc, có nhiều chị trực tiếp cầm súng chiến đấu. Cùng với đồng bào miền Nam, chị em phụ nữ đã khẳng định vai trò và năng lực của mình: “Cái đẹp vĩ đại của dân tộc Việt Nam trước hết là của phụ nữ Việt Nam”. Có thể nói nét mới trong tính cách của người phụ nữ miền Nam được tạo nên bởi chính hoàn cảnh lịch sử xã hội. Tình yêu, lòng chung thuỷ của người phụ nữ miền Nam gắn chặt với lòng trung thành cách mạng, trung thành Đảng. Và bổn phận của một người vợ lúc này gắn liền với nhiệm vụ cách mạng:

                                    Một nửa quê hương em quyết bảo toàn

                                    Trao lại tay anh ngày về thống nhất!

                                                                        (Những người vợ miền Nam)

            Họ là những cô du kích anh hùng, những cô giao liên dũng cảm vượt đạn bom đưa đường cho cán bộ. Khi đất nước gọi họ sẵn sàng cầm súng. Khi Tổ quốc cần họ cũng dám đứng lên:

                                    Sài Gòn hiện nay ngút trời căm giận

                                    Bọn con gái chúng em cũng bãi khoá, rải truyền đơn…

                                                                        (Thành phố của chúng ta)

Những người phụ nữ ấy nhỏ bé, mong manh là thế: “Ôi đoá hoa thơm lừng và trong trắng - Nhỏ bé mong manh trước giông tố, bão bùng”. Nhưng ở họ có một sức mạnh phi thường: “Tiếng em cất cao, rắn chắc, rạch ròi - Rát mặt quân thù như một làn roi”. Người phụ nữ miền Nam là thế! Điều gì đã làm nên sức mạnh phi thường để những con người nhỏ bé ấy có thể chiến thắng cả những tên đế quốc hung hãn nhất nếu không phải là lòng yêu nước, nỗi căm hờn trước những tội ác dã man mà kẻ thù đã gây ra cho dân tộc.

Không chỉ trực tiếp cầm súng chiến đấu mà người phụ nữ miền Nam còn đi đầu trong các cuộc biểu tình quần chúng. Nhà thơ đã ghi lại rất đẹp hình ảnh ấy:

                        Em bước lên trước lũ diều hâu ác độc

                        Như anh bộ đội xuất kích trận đầu.

                                                            (Em bước lên)

Tình yêu của người phụ nữ miền Nam trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt cũng khác trước rất nhiều. Ở họ tình yêu, niềm hạnh phúc lứa đôi hòa chung với niềm vui của cả dân tộc. Khi được hỏi vì sao chưa làm lễ cưới, cô gái có người yêu tập kết ra Bắc đã thẹn thùng:

                                    “Việc gì phải vội!

                                    Em sợ chúng nó cười… thôi, thống nhất càng vui…”

                                                            (Cô gái An Thường)

Trong hai mươi năm chiến tranh, người phụ nữ miền Nam chịu nhiều đau thương mất mát. Các chị đấu tranh chống kẻ thù để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hạnh phúc, lẽ sống của đời mình. Hai mươi năm ấy có biết bao người vợ chờ chồng, cô gái đợi người yêu. Trong văn học từ trước đến nay, hình ảnh người phụ nữ chờ đợi người yêu có biết bao nhiêu dạng khác nhau. Nhưng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ hình ảnh người phụ nữ miền Nam chờ đợi người yêu tập kết có một nét mới:

                        Có phải Nguyệt Nga xưa

                                                từ những vần thơ ánh sáng

                        Đã bước ra cuộc đời: tóc bới gọn, quần xăn?

                        Chị là “con nhỏ giải phóng quân”

                        Của má đưa đò ngang sông Cái

                        Chị là ngôi sao xanh đỉnh núi

                        Thao thức đêm dài soi bóng người thương…

                                                                        (Chị)

Người phụ nữ miền Nam chờ đợi, nhớ thương người yêu da diết, mặn mà. Nhưng sự chờ đợi, nỗi nhớ thương ở đây không có cái vẻ ủ dột, sầu muộn mà đã biến thành hành động cụ thể, nhớ thương để giữ vững đấu tranh, để mãi là ngôi sao sáng dẫn đường, soi bóng người yêu trong những đêm dài hành quân ra trận.

Người phụ nữ miền Nam kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang là hình ảnh đẹp, nhiều màu sắc và tập trung nhất trong thơ Giang Nam. Nhà thơ đã chuyển tải điều ấy bằng một giọng thơ chân tình, mộc mạc, trữ tình sâu lắng, giàu chất tự sự. Thơ Giang Nam là tiếng nói của trái tim và cũng là tiếng nói của trí tuệ, của lí trí cách mạng. Vì vậy, dễ khơi gợi tinh thần chiến đấu cho các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ thời chống Mỹ. Như con bồ nông nuôi con bằng máu của mình, Giang Nam đã nuôi dưỡng đứa con tinh thần bằng những hình ảnh đẹp, bằng những kỷ niệm xót đau của đời mình. Nhà thơ đã viết về người phụ nữ miền Nam với những rung động, những cảm xúc chân thành nhất, với thái độ nâng niu, trân trọng, tự hào. Vì vậy, thơ ông mang hơi thở ấm áp của cuộc sống, của những con người đang chiến đấu. Những vần thơ “chan chứa mến thương” (Hoài Thanh) ấy của Giang Nam đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp và giá trị của người phụ nữ miền Nam. Cám ơn Giang Nam đã góp thêm một hình tượng đẹp với những nét riêng vào nền thơ Việt Nam hiện đại thời chống Mỹ.

2.1.1.3. Cuộc đời và những năm tháng đấu tranh vì độc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành huyền thoại. Đối với cả nhân loại Người là một vĩ nhân, đối với dân tộc Việt Nam Người là vị cha già vĩ đại, là “sao bắc đẩu”, là “vầng thái dương”. Nhiều tác giả đã có những sáng tác rất thành công về Bác như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Minh Huệ, Viễn Phương. Và đặc biệt hình ảnh của Người Cha già đã in đậm trong thơ ca miền Nam đúng như Viễn Phương đã nhận định: “Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, các nhà thơ sống ở Nam bộ đều có những tác phẩm viết về Bác” [127]. Hòa trong dòng cảm hứng chung ấy, Giang Nam cũng đã có những vần thơ dâng tặng Người. Chính tình cảm sâu nặng đối với Bác là cội nguồn cảm hứng để ông sáng tạo nên hình tượng nghệ thuật tuyệt vời này.

            Suốt cuộc đời mình, nhà thơ chưa bao giờ được gặp mặt Bác, vì vậy mà hình ảnh Bác được khắc họa chủ yếu bằng trái tim, bằng tình cảm chân thành của người con miền Nam đối với người cha già muôn vàn kính yêu. Giang Nam đã thay mặt cho những đứa con miền Nam dâng lên Bác những vần thơ ngọt ngào, đằm thắm, mượt mà:

                                    Mái tóc bạc phơ gian khổ, ân tình

                                    Ôi màu áo bà ba Bác mặc hiền lành.

                                                                        (Bác vẫn còn sống mãi)      

Bác vẫn giản đơn như cuộc đời bộ đội

                                    Vẫn đôi dép cao su bốn mùa không thay đổi

                                    Vẫn bộ đồ kaki quen thuộc, bạc màu.

                                                                        (Con viết bài thơ dâng Bác)

Bằng những cảm xúc khác nhau, nhà thơ đã gợi lên trong tâm trí người đọc những ấn tượng sâu đậm về vị cha già dân tộc. Hình ảnh Bác Hồ với chiếc áo nâu giản dị, màu áo của quê hương đậm đà, chung thủy, với đôi dép cao su quen thuộc là một hảnh ảnh đẹp xuyên suốt trong những trang viết của các nhà thơ, nhà văn.

            Tâm hồn, tấm lòng nhà thơ luôn hướng về Bác. Cũng như đồng bào miền Nam, Giang Nam luôn khao khát được một lần gặp mặt Bác, được đón Bác vào thăm miền Nam rực nắng như chính lòng Bác ước mong:

                                    Ngày mai đẹp nắng, Sài Gòn tự do

                                    Sẽ đón Bác giữa sao cờ

                                    Với hoa trên tóc, lời ca nghẹn ngào.

                                                                        (Miền Nam có Bác)

            Niềm ước mong giản dị và tha thiết ấy đã trở thành nỗi canh cánh trong tâm trí nhà thơ. Vì vậy, dù chỉ có thể ngắm nhìn ảnh Bác trên báo nhưng trái tim ông vẫn ngân lên những giai điệu rộn ràng vui sướng:

                                    Vui sao giữa những ngày gian khổ

                                    Bác bỗng về đây với chúng con

                                    Tờ báo mới thơm mùi mực mới

                                    Đến với con qua lớp lớp Trường Sơn.

                                    (…)

                                    Con nhìn Bác nghẹn ngào không chớp mắt

                                    Bác Hồ đây. Cha của chúng con đây

                                    Bác vẫn khỏe hồng hào, rắn chắc

                                    Hơn thuở đầu tiên Bác đứng giữa lễ đài.

                                                                        (Con viết bài thơ dâng Bác)

            Các chiến sĩ miền Nam dù bị đọa đày giữa chốn ngục tù, dù đứng trước ranh giới giữa sự sống và cái chết vẫn kiên gan, bất khuất bởi đơn giản một điều: Bác vẫn luôn ở trong trái tim của họ:

                                    Trong xà lim trước lưỡi lê, máy chém

                                    Hàng vạn chúng con đã thấy Bác bên mình

                                    An ủi, vỗ về, tiếp sức đấu tranh

                                    Dù đến cuối cuộc đời chưa gặp Bác

                                    Đồng chí Cống, đồng chí Thuần, đồng chí Xuân Thu

                                    Và muôn ngàn anh chị khác

                                    Trước giờ chết hiên ngang không khuất phục

                                    Vẫn hô to: Hồ Chủ tịch muôn năm!

                                                                        (Con viết bài thơ dâng Bác)

            Hay:                Dù xa trăm núi, ngàn sông

                                    Bác vẫn đứng bên chúng con từng giờ.

                                                                        (Miền Nam có Bác)

Với Giang Nam, Bác là tất cả, Bác là quê hương. Bác ra đi để lại trong lòng chúng ta niềm tiếc thương vô hạn. Trong niềm kính yêu khôn cùng đối với người lãnh tụ vĩ đại, ông không thể nào tin được Bác đã vĩnh viễn ra đi:

                                    Có thể nào tin Bác vĩnh biệt chúng ta rồi

                                    (…)

Bác vĩnh biệt chúng ta rồi! Không, Bác vẫn còn sống mãi

                                    Như mặt trời không tắt trên đồng ruộng Việt Nam.

                                    Bác thân yêu ơi, chúng con lại hành quân

                                    Có Bác cùng đi, phượng đỏ đường ra tiền tuyến…

                                                                        (Bác vẫn còn sống mãi)

Hòa cùng với nỗi đau chung của dân tộc, nhà thơ cảm nhận nơi lòng mình một mất mát vô biên. Nỗi đau đớn tột cùng ấy khiến ông không dám đối diện với sự thật: Bác kính yêu không còn! Trong tận cùng sâu thẳm tâm hồn ông, Bác vẫn còn sống mãi với quê hương đất nước, với mỗi con người Việt Nam. Bác như ánh mặt trời chiếu rọi những tia nắng ấm áp, mang lại sự sống cho vạn vật trên thế gian. Hình ảnh “mặt trời không tắt trên đồng ruộng Việt Nam” là hình ảnh biểu trưng: Bác là niềm tin, là lẽ sống của dân tộc Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến trường kì gian khổ.

Tóm lại, với những xúc cảm chân thành từ trái tim, hình tượng Bác Hồ kính yêu thật ngời sáng trong thơ Giang Nam. Nhà thơ đã thể hiện tình cảm yêu mến tha thiết đối với Bác – một thứ tình cảm ngưỡng mộ, tự hào.

2.1.2. Thơ ca từ sau năm 1975 đến nay

Trở về với cuộc sống đời thường, Giang Nam vẫn “đau đáu” một nỗi niềm với thơ ca. Mạch thơ trong tâm hồn của ông không hề bị ngắt quãng, vẫn viết về những đề tài quen thuộc với chất giọng trữ tình, sâu lắng, nhưng tiếng thơ Giang Nam mới hơn, có chiều sâu hơn về cảm xúc, về nghệ thuật và đầy chất triết lý.

Trong kháng chiến chống Mỹ, nhà phê bình Hoài Thanh đã từng nhận định Giang Nam là nhà thơ của quê hương. Và đúng như vậy. Tâm hồn nhà thơ như cùng nhập vào tâm hồn của quê hương đất nước. Hòa bình lặp lại, trang sử vàng của dân tộc lại sang một trang mới, vì thế, hình ảnh quê hương đất nước trong thơ ông vui hơn, tươi sáng hơn, tràn đầy niềm tin tưởng, lạc quan. Mùa xuân tự do đầu tiên đã trở về trên quê hương và nhà thơ hân hoan, reo mừng trước niềm vui chung của Tổ quốc:

                                                Xin chào Tổ quốc vào Xuân

                                    Nỗi đau xưa với muôn phần vui nay

                                                Bồi hồi tay lại cầm tay

                                    Mừng nhau không rượu mà say say lòng.

Đất trời ta rộng mênh mông

                                    Ngọt ngào sao những cánh đồng phù sa

                                                Nghe vui tiếng sóng vỗ bờ

                                    Khói nhà máy chân trời xa rựng hồng.

                                                (…)

                                                Bây giờ đường lại nối đường

                                    Rất toàn vẹn, cả bốn phương về mình

                                                Bây giờ đồng ruộng biển xanh

                                    Một hột muối cũng mặn tình Việt Nam.

 

Bây giờ Xuân mới là Xuân

                                    Hạnh phúc lớn nỗi băn khoăn kiếp người

                                                Tự do làm đẹp cuộc đời

                                    Thủy chung làm đẹp mỗi lời của em

                                               

Bây giờ ta lấp hố bom

                                    Vườn sầu riêng lại vui chung nảy mầm

                                                Bây giờ máy chạy càng nhanh

                                    Đêm đêm điện sáng cho mình, cho ta.

                                                (…)

                                                Tự do nên má em hồng

                                    Trời xanh, nên mắt em trong lạ thường

                                                Người thuỷ chung, đất thuỷ chung

                                    Tình yêu bỗng đẹp vô cùng, em ơi!

(Mùa xuân ơi, rất tuyệt vời)

Nhìn thấy cuộc sống đang hồi sinh, tiếng thơ ông dường như thấm cả tiếng cười hạnh phúc. Lời đầu tiên mà tác giả thốt lên ấy chính là lời chào Tổ quốc thân yêu: “Xin chào Tổ quốc vào Xuân”. Lời chào giản dị mà rất đỗi chân thành bởi chứa đựng trong ấy tấm lòng, tình cảm của một con người được tự do trên mảnh đất quê hương vừa mới được giải phóng. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà ông viết hoa từ “Xuân”. Hơn nữa, thể thơ lúc bát truyền thống của dân tộc với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng, thiết tha rất phù hợp trong việc diễn tả tâm trạng, tình cảm của nhà thơ. Chất men say ngọt ngào của niềm vui chiến thắng như thấm sâu vào hồn người và lan toả trong không gian: “Mừng nhau không rượu mà say say lòng”. Mùa Xuân đầu tiên con người được làm chủ, được sống một cuộc đời tự do không còn bị nô lệ, áp bức làm sao không khỏi xúc động, bồi hồi. Mạch cảm xúc dâng trào, nhà thơ ca ngợi đất nước tự do với tinh thần say sưa, sảng khoái. Với niềm vui náo nức, với tâm thế của một con người làm chủ, tác giả nhìn đâu cũng thấy đẹp, cũng thấy toàn một màu hồng rạng rỡ: đất trời rộng mênh mông và xanh biếc, những cánh đồng ngọt ngào phù sa, tiếng sóng vỗ bờ nghe thật vui, màu hồng trên đôi má em. Và “Bây giờ Xuân mới là xuân”. Khắp nơi tràn ngập niềm vui và ánh sáng: “Bây giờ máy chạy càng nhanh – Đêm đêm điện sáng cho mình, cho ta”.

Đất nước sạch bóng quân thù, non sông từ đây nối liền một dải. Một cuộc sống mới đang nảy mầm từ trên mảnh đất đau thương, mất mát:

                                    Áo trắng các em đùa trên sóng nước

                                    Phà tươi vui nối những mạch đời.

                                                            (Qua phà Rạch Miễu)

Hình ảnh đẹp, tươi sáng như gói trọn niềm vui, niềm hạnh phúc của nhà thơ trước sự thay da đổi thịt của quê hương đất nước. Con sông chia cắt hai tỉnh Mỹ Tho và Bến Tre giờ đây đã được nối liền bởi những chuyến phà tươi vui, đông khách. Tự do đã thật sự trở về!

Đã từng công tác và chiến đấu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ, nên khi trở lại nơi này ông thật ngỡ ngàng trước cuộc sống nơi đây:

                                    Đường vào Ấp Bắc, mưa bay trắng

                                    Lúa xanh đồng, lúa vẫy người đi

                                    Hố bom ngập nước vui đàn cá

                                    Rặng cây xa thầm nhắc những ngày.

                                                                        (Về thăm Ấp Bắc)

Quê hương vẫn còn đó dấu tích của chiến tranh, nhưng có hề chi. Cuộc sống mới đang hồi sinh! Bức tranh quê hương với gam màu nhẹ xanh mát của đồng lúa, hàng cây gợi sự bình yên cùng niềm hi vọng về một tương lai tươi sáng, tràn đầy niềm vui, niềm hạnh phúc.

Và khi đặt chân đến Đà Lạt, nhà thơ cảm nhận về sự đổi thay trên mảnh đất cao nguyên lạnh giá này:

                                    Tôi đến đây vượt đèo dốc, sương mù

                                    Hồ vẫn đó mà cuộc đời đã khác

                                    Thông không buồn mà thông reo, thông hát

                                    Nước không còn than thở nỗi riêng tư.

                                                                        (Hồ Than thở)

Và:                             

Đà Lạt vui như một bức tranh

Thiên nhiên quý người nên cho nhiều đến thế!

                                    Những đồi thông rì rào bên cửa sổ

                                    Những mặt hồ như mặt gương trong.

                                                                        (Đà Lạt mùa hoa)

Đi đến đâu nhà thơ cũng cảm nhận được một cuộc sống khác, một cuộc đời khác. Cuộc đời nô lệ với nỗi đau xưa giờ không còn nữa. Hình ảnh thông, nước tượng trưng cho kiếp người, kiếp đời giờ đây không còn buồn đau, than thở. Động từ “reo”, “hát” đi liền nhau nhấn mạnh niềm vui sướng tột cùng của con người trước cuộc đời mới.

Và khi trở về với mảnh đất Khánh Hòa thân yêu, với thị trấn Diên Khánh hiền hòa, ông đã kịp thời ghi nhận những đổi thay nơi đây:

                                    Lúa sắp vào vụ gặt, vườn đầy trái non

                                    Công trường mới mọc lên ngổn ngang vôi gạch

                                    Đôi mắt em cười, ôi đôi mắt miền Trung rất đẹp

                                    Nơi ngày xưa máu đổ, nay bát ngát mùa xuân.

                                                                        (Qua cầu Sông Cạn, mùa xuân)

Thể thơ tự do được vận dụng thật phù hợp trong việc chuyển tải cảm xúc, tình cảm của tác giả. Mảnh đất ngày xưa, nơi giặc Pháp hồi đầu thế kỷ XX đã xử chém nhà chí sĩ yêu nước Trần Quý Cáp, nơi đã từng thấm máu xương của biết bao thế hệ cha ông, nơi đế quốc Mỹ đã từng khủng bố, đàn áp, huỷ diệt, giờ đây một cuộc sống mới đang nảy mầm: lúa sắp vào vụ gặt, vườn cây đầy trái non, và đặc biệt đôi mắt em cười, ôi đôi mắt quê hương miền Trung ngàn đời vẫn đẹp, vẫn xanh trong. 

Đất nước hôm nay đang trỗi dậy một sức sống mới, mọi người bắt tay vào lao động, xây dựng làm chủ cuộc đời mình:

Cuộc đời lớn đó, tưng bừng

                                    Máy cày vạch luống, con đường xe lên

                                                                        (Chiếc nón bài thơ)

            Từ năm 1978 do yêu cầu công tác, ông mới có dịp được sống giữa Hà Nội yêu thương. Vậy là nỗi ước mong, niềm khao khát bấy lâu nay đã thành hiện thực. Vì vậy, những trang viết về miền Bắc, nhất là về Hà Nội, cũng đậm đà, cụ thể hơn. Hà Nội thời hậu chiến vẫn còn trong cảnh đói nghèo. Bát cơm đón khách từ miền Nam thương nhớ “vẫn độn mì sao em, bát cơm của mỗi nhà” nhưng trên hết ấy là tấm lòng, là tình nghĩa của con người dành cho nhau:

                                    Em gạn bớt mì, bới cho anh bát cơm gạo mới

                                    Vẻ chắt chiu, đầm ấm, thương sao!

                  (…)

                                    Có một điều em không nhận ra đâu:

                                    Bát cơm độn mà lòng người đầy đặn

                                    Thương Hà Nội còn nghèo sau thắng trận

                                    Bồi hồi anh nhìn em quên ăn…

                                                                        (Bữa cơm đầu ở Hà Nội)

Và trong cảm nhận của Giang Nam, Hà Nội giờ đây khác trước rất nhiều, khác “từ cái dáng đi, từ mặt trời tỏa nắng”:

                        Từ nơi đây, mặt trời lên đỏ rực

                  (…)

                        Ôi sáng nay, Hà Nội đỏ màu cờ

                        Quảng trường nắng Ba Đình, hàng cây xanh vườn Bác

                        Mặt nước Hồ Tây, đường Thanh Niên gió rì rào ca hát

                        Hà Nội của mình đẹp lắm, em ơi!

                                                            (Bài thơ về Hà Nội)

Đất nước mình vẫn còn nghèo sau thời hậu chiến, nhưng với cái nhìn lạc quan và niềm tin yêu cuộc sống, nhà thơ cảm nhận một cuộc sống mới đang bắt đầu ngập tràn niềm vui, niềm hạnh phúc:

                        Tết ngoài này rộn rã biết bao nhiêu

                        Cờ đỏ Hồ Gươm, sông Hồng áo đỏ

                        Dòng người đi trong mưa phùn, trẻ lại

                        Đôi mắt cười như hạnh phúc tìm nhau

                                                            (Gởi Huế, xuân này)

Hình ảnh quê hương đất nước còn hiện lên qua những điệu dân ca, những câu quan họ, những câu hát bài chòi, tranh Đông Hồ:

                                    Đêm Bình Quới nghe em hát dân ca

                                    Dòng sông xanh và cù lao đầy gió

                                    Lòng rộng mở như đất này rộng mở

                                    Câu “lý thương nhau” luyến láy cột chân người.

                                                                        (Đêm Bình Quới nghe hát dân ca)

                                    Đêm hội xuân nghìn con mắt đổ về

                                    Cô gái hát dân ca

                                    Một vùng quê Kinh Bắc

                                    Không nón quai thao, không áo tứ thân

                                    Không con thuyền buộc chặt

                                    Mà vẫn lặng đi: người ở, người về.

                                                                        (Quan họ)

                                    Đêm hội mùa xuân, em hát bài chòi

                                    Anh lại nghe trăm miền thương nhớ cũ

                                    Con sông nhỏ, cát vàng nhìn thấy đáy

                                    Người đi hội xuân, soi đuôi mắt làm duyên.

                  (…)

                                    Câu hát bài chòi có cô gái làm dâu

                                    Có “ông Xã”, “ông làng”

                                    Có người trung kẻ nịnh

                                    Anh đã mang đi như nỗi lòng canh cánh

                                    Dưới đáy ba lô trong giấc ngủ chập chờn.

                                                                        (Nghe em hát bài chòi)

            Những tưởng mùa xuân đã thực sự trở về, nhưng không, đất nước vẫn chưa được bình yên, người lính vẫn chưa được nghỉ ngơi sau một chặng đường dài vất vả, gian lao. Họ vẫn phải tiếp tục cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương, bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được bởi kẻ thù ở phương Bắc vẫn mang dã tâm chiếm nước ta một lần nữa:

                                    Ta lại gặp một kẻ thù ta tưởng đã quên

                                    Lịch sử chôn dưới mồ và bây giờ sống lại

                                    Những cái đầu hung hăng và tăm tối

                                    Giữa thế kỷ văn minh mơ lấy thịt đè người!

 

                  (…)

Những tên chặt đầu người và giết trẻ em

                                    Những bản làng chìm trong lửa khói

                                    Đau nhức lòng ta đêm mênh mông Hà Nội

                                    Càng hiểu tình yêu, hạnh phúc, tự do.

 

                                    Miền Nam ơi, và em ở quê xa

                                    Tiền tuyến gọi mai anh lên phía Bắc.

                                                                        (Bài thơ đêm Hà Nội)

            Yêu thương và căm giận như hai đợt sóng dâng trào trong tâm hồn người lính. Không thể bình yên cho kẻ thù gây tội ác, tất cả lại lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Đảng, của Tổ quốc:

                                    Đảng đã gọi. Đêm nay dưới mỗi mái nhà

                                    Không ai ngủ chờ ngày mai ra trận

                                    Đảng đã gọi. Yêu thương và căm giận

                                    Cháy lòng ta… Hãy cứu lấy quê hương!

                                                                        (Bài thơ đêm Hà Nội)

Lời thơ gợi ta nhớ lại lời hịch năm nào của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và dù ở thời đại nào người Việt Nam vẫn canh cánh bên lòng tình yêu quê hương, xứ sở và sẵn sàng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Đâu chỉ bảo vệ Tổ quốc thân yêu mà chúng ta còn giúp nước bạn (Campuchia) diệt trừ bọn ăn thịt người Pôn-Pốt mang lại sự bình yên cho biên giới:

                                    Chiều Bảy Núi, biên giới “không bình yên”

                                    Người lên tuyến trong khói mù đại bác.

                                                                        (Chiều Bảy Núi)

            Tự bao đời, biên giới hai nước vẫn bình yên, “Núi bên đó, núi bên này tựa vào nhau mà đánh giặc”. Vậy mà, “có những kẻ hòng quên hạt muối cắn đôi” đang lén lút gây tội ác. Và để giữ cho núi, đồng mãi một màu xanh, người lính lại tiếp tục cầm súng lên đường. “Biên giới không bình yên”, thế mà, lòng người rất đỗi bình yên dẫu biết trước mặt mình là giặc. Đấy là cái bình yên, trầm tĩnh, thấu suốt của người đã từng trải qua chiến tranh bởi họ tin một điều những kẻ gây nên tội ác, những kẻ đang cố giết chết nghĩa tình rồi cuối cùng cũng phải đền tội.

Lẽ thường con người ta sống ở hiện tại, mơ ước nhiều ở tương lai và không quên nghĩ về quá khứ. Đặc biệt đối với những người đã từng sống và chiến đấu trong những năm tháng gian khổ, ác liệt nhưng rất đỗi hào hùng của dân tộc thì không thể nào quên được những gì đã diễn ra của ngày hôm qua. Và Giang Nam cũng thế! Những cảnh, những sự việc, những con người vẫn mãi ám ảnh, trăn trở trong thơ ông. Viết về cuộc chiến hôm qua là một cách để trân trọng, ghi nhớ công ơn các thế hệ cha anh đã ngã xuống, đã hi sinh thân mình để làm nên màu đỏ của những chiến công, màu xanh của sự sống hôm nay: “Đất nước đẹp từ đau thương, căm giận – Máu và mồ hôi…để có cảnh, có người” (Đà Lạt mùa hoa). Bản thân Giang Nam luôn tâm niệm một điều càng “trân trọng những ngày qua càng quý hơn những gì ta có”. Và chúng ta không thể không thừa nhận có nhiều bài thơ hay, câu thơ hay lại là trở về với những kỷ niệm, những từng trải của ngày qua. Sống trong hòa bình nhưng Giang Nam vẫn nhớ về chiến trường xưa, nhớ những người bạn đã từng cùng mình vào sinh ra tử nên tiếng thơ ông có sự lắng đọng trong chiều sâu cảm xúc khi nhìn về quá khứ. Vì thế, khi về lại Trường Sơn tác giả không khỏi bồi hồi, xúc động:

                                    Lại về Dốc Miếu, Tà Cơn

                                    Bánh xe lăn, nắng Trường Sơn bồi hồi

                                    Những ai qua đó một thời

                                    Bàn chân dẫm nát núi đồi, cỏ tranh

                                    Những ai nằm lại một mình

                                    Đã về chưa, bước gập ghềnh còn đi.

                   (…)

                                    Lại về nắng lửa Trường Sơn

                                    Vắt cơm, hạt muối tình thương một thời

                                    Bay đi những cánh chim trời

                                    Mang nghìn mơ ước của người mà bay.

(Về Trường Sơn)

            Năm tháng rồi sẽ xóa nhòa tất cả nhưng những kí ức về bạn bè, đồng chí thuở nào vẫn hiện hữu trong tâm trí nhà thơ và ông viết về họ với nỗi khắc khoải khôn nguôi.

            Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ do yêu cầu của thời cuộc, nhà văn phải bám sát và phản ánh được cái không khí nghẹt thở của cuộc chiến, phải tuyên truyền cổ vũ tinh thần chiến đấu; văn học phải nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, con người không thể sống với cái tôi riêng của bản thân. Vì thế, phương diện cá nhân, đời tư ít được chú ý. Nếu như trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Giang Nam có đề cập đến tình cảm cha con, tình vợ chồng thì những tình cảm ấy vẫn gắn liền với tình cảm chung của đất nước, của dân tộc. Khi nghe tin vợ con bị kẻ thù bắt và không biết sống chết ra sao, ông đau đớn vô cùng. Ông nói với con nhưng cũng là tự nói với chính mình: “Ba không buồn, không khóc đâu con”. Nhà thơ đã nén tình riêng, biến đau thương thành hành động, mài sắc ý chí chiến đấu để trả thù cho vợ con, cho dân tộc. Giờ đây, khi đất nước đã lặng yên tiếng súng, ý thức về cái tôi cá nhân thức tỉnh, có điều kiện nhìn lại bản thân mình, nhà thơ quay về trò chuyện với trái tim mình. Ông bắt đầu chú ý nhiều hơn đến phương diện đời tư cá nhân, tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Ông nghĩ về quá khứ:

                                    Quá khứ là gì, em ơi

                                    Là một phần của đời ta không chia cắt

                                    Những vụng dại, lỗi lầm, tổn thất

                                    Vinh quang và đắng cay

                                    Có anh bạn thân bỏ mình mà đi

                                    Lại có người không quen yêu mình đến tận cùng cái chết

                                                                                    (Nghĩ về quá khứ)

            Câu thơ mang đậm tính triết lý về cuộc sống, con người. Với Giang Nam những cảnh, những việc và con người trong quá khứ vẫn ám ảnh khiến ông day dứt mãi khôn nguôi. Những kỷ niệm ấy găm sâu vào trong ký ức ông, là một phần của cuộc đời ông không thể chia cắt. Đôi khi, ta bắt gặp người nghệ sĩ lặng lẽ suy tư:

                                    Ta hớp buồn vui từng hớp nhỏ

                                    Nghe trong mưa từng giọt đắng ngọt ngào

                                                                                    (Mưa tháng năm)

Khi nói về hạnh phúc, nhà thơ Chế Lan Viên từng cho rằng: “Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp – Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” (Người đi tìm hình của nước), còn với Giang Nam được đưa con đến trường là điều hạnh phúc:

                                    Má bận bao nhiêu là việc

                                    Nên dành cho ba

                                    Cái hạnh phúc đưa con đến trường

                                    Mười bảy tuổi đời con

                                    Ba mới có niềm vui của những người cha, người mẹ

                                    (…)

                                    Có hạnh phúc nào lớn hơn

                                    Như sáng mai này ba đưa con đến lớp

                                    (…)

                                    Cái hạnh phúc trong lành như hơi thở của con

                                    Cái hạnh phúc nửa đời người ba mới gặp!

                                                                                  (Hạnh phúc)

Đưa con đến trường, một công việc thật bình thường của người làm cha làm mẹ nhưng với Giang Nam ấy lại là niềm hạnh phúc lớn lao. Nhìn vào hoàn cảnh của nhà thơ ta sẽ thấu hiểu và trân trọng vô cùng cái hạnh phúc nhỏ bé, giản dị mà rất đỗi thiêng liêng ấy! Suốt những năm dài công tác và chiến đấu ở hai miền Nam Bắc, ông không có nhiều thời gian dành cho vợ con. Giờ đây, ông mới cảm nhận trọn vẹn niềm vui sướng khi lần đầu tiên cầm tay con đến lớp. Vì vậy, nhà thơ nâng niu, trân trọng vô cùng cái hạnh phúc giản đơn, trong lành mà đến nửa đời người ông mới tìm thấy!

            Và khi nghĩ về nghề văn với tư cách là một nhà văn, ông lại tâm niệm về hạnh phúc:

                                    Hạnh phúc là gì? Câu hỏi xoáy lòng đau

                                    (…)

                                    Hạnh phúc là gì?  Nước mắt tôi rưng rưng

                                    Câu trả lời nào cũng không nói hết

                                    Là nhà nghệ sĩ của nhân dân được đi và viết.

                                                                              (Hạnh phúc)

Đó là niềm mong mỏi, là nỗi khát khao của người nghệ sĩ chân chính và đồng thời cho ta thấy được một quan niệm đúng đắn về mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống. Văn học phải hướng về cuộc sống, phục vụ cuộc sống, nhất là cuộc sống của quần chúng nhân dân. Và muốn như thế người nghệ sĩ phải đi sâu vào thực tế, bám sát đời sống của quần chúng nhân dân và phản ánh nó vào trong các trang viết của mình.

Vẫn là tiếng lòng đằm thắm, thiết tha, Giang Nam gởi trái tim mình đến vạn trái tim khác. Ông viết về những người bạn, những nhà văn, nhà thơ mà ông từng kính yêu, ngưỡng mộ. Đây là những vần thơ ông viết về nhà thơ Yến Lan:

                        Thanh thản một đời thơ

                        Thanh thản một tình yêu đã thành huyền thoại

 

                        Để lại bến My Lăng con đò đợi mãi

                        Ngơ ngác chiều, gió thổi lá sang sông.

                                                            (Mùa thu chợ huyện)

            Giang Nam viết về nhà thơ Quách Tấn, tác giả Mùa cổ điển, với những câu thơ thật xúc động:

                                    Anh sống trọn tình với thế kỷ hai mươi

                                    Mỗi ngọn núi, dòng sông với anh là lịch sử

                                    Mãi không phai niềm say câu thơ cũ

                                    Chùa Hàn San tiếng chuông vọng, con thuyền…

                                    (…)

                                    Buổi mừng thọ anh mới đó đã xa xôi

                                    Nhẹ nhàng anh đi như một nhà hiền triết

                                    Chồng bản thảo mấy ngàn trang xếp chật

                                    Ấm lòng ai qua Bến chợ chiều mưa.

                                                                        (Bến chợ chiều nay)

            Tình cảm của Giang Nam dành cho Quách Tấn, người “đã khép lại một thời đại trong thi ca Việt Nam” (Hoài Thanh), thật nồng thắm. Nhà thơ đã cô đọng tấm lòng mình rất chân thật trong mười hai câu thơ tám chữ để tưởng nhớ nhà thơ Quách Tấn. Và thơ khi ra đi từ trái tim sẽ dễ dàng nhận được sự đồng điệu, đồng tình từ hàng vạn trái tim khác.

Cũng có lúc ông lặng im nhìn sâu vào nỗi cô đơn của người nghệ sĩ:

                                    Đó là nỗi cô đơn làm nên những thiên tài

                                    Nỗi cô đơn của một người và của ngàn người khác

                                    Hạnh phúc, tình yêu, tự do, sự nghiệp

                                    Rất riêng mà rất chung.

            Nỗi cô đơn của Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tú Xương là nỗi cô đơn của người nghệ sĩ tài hoa nhưng bất đắc chí. Người đời không thấu hiểu, không đồng cảm với họ. Vì vậy, họ gởi tấm lòng mình vào trang viết mong nhận được tiếng nói tri âm của người đời sau. Đó là nỗi cô đơn của người nghệ sĩ cách ta ba thế kỉ. Còn thời đại hôm nay khác xưa nhiều lắm! Đời đã thay đổi rồi, đời đang có mùa xuân:

                                    Nỗi cô đơn đã có người chia sẻ

                                    Không phải nỗi cô đơn kiêu căng, ích kỷ

                                    Mà nỗi cô đơn giục giã những tấm lòng.

                                                                        (Về nỗi cô đơn của người nghệ sĩ)

            Nghĩ về tình yêu, người đọc nhìn thấy ở ông một sự hi sinh thầm lặng. Ông giành về phần mình nỗi nhớ thương, đau đớn. Ông nhìn thẳng vào bi kịch cuộc đời mình và tự vượt:

                                    Gần không giữ được người thương lại

                                    Thì xa tim vẫn đập trong nhau

                                    Bao nhiêu thương nhớ mình anh chịu

                                    Thức trọn đêm nay đủ bạc đầu.

                                                                        (Đêm)

            Giờ đây câu thơ của Giang Nam không chỉ đơn giản dừng lại ở mạch tình cảm, cảm xúc mà còn lấp lánh chất trí tuệ:

                                    Đất nào cũng đất quê hương

                                    Cũng là nơi em bé ra đời và cụ già nằm xuống              

                                                                        (Đường về An Đức)

            Câu thơ thể hiện một triết lý sống. Đâu chỉ đơn giản là tình yêu quê hương mà ở đó còn chứa đựng cả lẽ sinh tồn, gắn bó về mảnh đất chôn nhau cắt rốn. Vậy đó, dù cách nói, cách thể hiện khác nhau nhưng bao giờ thơ Giang Nam cũng ánh lên tình yêu đất, yêu quê tha thiết.

 

 

 

2.1.3. Đôi nét về nghệ thuật  

            2.1.3.1. Về giọng điệu

            Thơ là tiếng nói đi ra từ trái tim một người và hướng đến trái tim của vạn người. Như vậy để có được sự đồng cảm, đồng điệu trong tâm hồn và tác phẩm có sức sống bền lâu trong tâm hồn con người, thì tất yếu người nghệ sĩ phải có cách diễn đạt riêng và nhất là có một giọng điệu riêng cho chính mình. Giọng điệu là điểm phân biệt các nhà văn, nhà thơ. Giọng điệu “phản ánh lập trường xã hội, thái độ, tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò to lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định nhà văn chưa thể viết ra tác phẩm” [130]. Bàn về vấn đề này, trong Điển luận, Tào Phi cho rằng: “Văn lấy khí làm chủ, khí có thể trong và có thể đục, không thể dùng sức mạnh mà có được”. Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long cũng đề cập đến phong cốt, khí chất của nhà văn: “Văn cần có cốt cách cũng như thân thể người ta có bộ xương. Tình cảm của ta chứa đựng sẵn cái phong cũng như hình hài ta chứa đựng cái khí chất vậy”[33]. Còn khi bàn về giọng điệu thơ trữ tình, Nguyễn Đăng Điệp viết: “Giọng văn chương vừa cho phép người đọc nhận ra vẻ riêng nghệ sĩ, vừa có ý nghĩa như một tiêu chí xác định tài năng nhà văn. Không có giọng điệu, lập tức tác giả sẽ được liệt vào số người không có tài năng” [19].                   

Từ việc tìm hiểu các ý kiến khác nhau về giọng điệu, ta nhận thấy giọng điệu là yếu tố bộc lộ chủ thể một cách trung thực, cho phép ta nhận ra nét riêng, sự độc đáo của người nghệ sĩ. Giọng điệu là yếu tố cơ bản tạo thành phong cách nghệ thuật. Tuy nhiên, không thể có giọng điệu nếu không có những rung động sâu sắc, những nỗi đau, những xót xa trước quê hương đất nước, trước thân phận con người, không xẻ chia với họ nỗi đau, niềm vui và tình yêu cuộc sống [19, tr. 34].

 Nghiên cứu về giọng điệu thơ Giang Nam, chúng tôi nhận thấy thơ Giang Nam mang giọng điệu trữ tình – cách mạng (Nguyễn Công Lý) nghĩa là ông chuyên chở những vấn đề của dân tộc, của đất nước bằng tiếng thơ mượt mà, trữ tình, sâu lắng, và đấy cũng là cái điệu chung của thơ ca cách mạng miền Nam. Giọng điệu thơ Giang Nam gắn liền với mạch cảm xúc tình cảm xuất phát từ trái tim chân thành, từ chiều sâu suy nghĩ và ý thức thẩm mỹ của một thanh niên sống hết mình vì quê hương đất nước, vì lý tưởng cách mạng.

Viết về nỗi đau riêng của bản thân cũng như nỗi đau chung của cả dân tộc, lời thơ bật ra thật nghẹn ngào, đau xót:

                        Giặc bắn em rồi quăng mất xác

                        Chỉ vì em là du kích, em ơi!

                        Đau xé lòng anh, chết nửa con người…

                        Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm

                                    Có những ngày trốn học bị đòn, roi

                                    Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

                                    Có một phần xương thịt của em tôi.

                                                                        (Quê hương)

                        Những năm dài kháng chiến, mang quê hương xanh biếc bên mình ra đi chưa một lần về lại, nhà thơ nói về nỗi nhớ quê với âm điệu buồn tha thiết:

                        Hăm ba năm rồi

                        Ba chưa về quê nội

                        Nơi ba lớn lên

Giữa những cây xoài, cây ổi

                        Nơi ba biết yêu

                        Tiếng nội hát buồn buồn

                        “À ơi, con mèo con chuột có lông

                        Ống tre có lỗ, nồi đồng có quai!”

                        (…)

                        Con có về thăm nơi ấy thay ba

                        Có thấy nội con đêm đêm còn khóc?

                        Bông bưởi vẫn còn rơi trên tóc

                        Hay chỉ là mảnh pháo sắc như dao.

                                                            (Con có về thăm quê nội)

Tâm trạng của người lính ngụy trong buổi đi càn được nhà thơ tái hiện bằng giọng thơ trầm buồn, da diết, khắc khoải:

                        Anh nín thở nép mình sau gò đất

                        Mắt căng lên trong bóng tối chập chờn

                        Làng nào đây? Ồ cũng những đụn rơm

                        Con mương nước, gốc dừa xiêm

                        Và chiếc cầu tre gập ghềnh như sắp đổ

                        Anh nghe tiếng trẻ thơ nô đùa trước ngõ

                        Tiếng chày khua và cả tiếng xa quay

                        Anh cắn môi. Trời, những tiếng xa quay

                        Sao khắc khoải như tiếng người thương nhớ.

                                                            (Tiếng xa quay)

Giọng thơ tâm tình mang âm hưởng ngọt ngào của những lời ru. Vì tiếng thơ ra đi từ trái tim chân thành, nhạy cảm nên thơ Giang Nam có sức sống bền lâu trong lòng bạn đọc. Chính giọng điệu đã góp phần lý giải vì sao trong những năm tháng đấu tranh gian khổ, người đọc cả hai miền Nam Bắc tìm đến thơ Giang Nam như một chỗ dựa tinh thần để vững tin và mài sắc ý chí chiến đấu. Một số bài thơ của Giang Nam đã trở thành những bài binh vận như: Quê hương, Bài ca tháng tám, Tiếng xa quay

Sau ngày đất nước đổi mới, Giang Nam đã tự làm mới mình nên tiếng thơ của ông có sự lắng đọng trong chiều sâu cảm xúc và có thêm chất triết lý. Tình cảm trong thơ cô đọng hơn chứ không dàn trải như trong thơ kháng chiến nhưng tựu trung lại chất giọng trữ tình vẫn giữ vai trò chủ đạo.

2.1.3.2. Về thể thơ

             Thơ tự do vốn xuất hiện từ trong phong trào Thơ Mới và được sử dụng rộng rãi trong thơ hiện đại. Đây là một thể thơ được các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, trong đó có Giang Nam, sử dụng một cách nhuần nhuyễn. Khi bàn về thơ tự do, Hà Minh Đức đã nhận định: “Thơ tự do không phải là một hình thức định trước của nhà thơ khi sáng tác mà  là một hình thức đã được nhà thơ tìm đến với độ chín của tâm hồn, phù hợp nhất để diễn tả đối tượng, tâm đắc nhất để diễn tả các trạng thái tinh vi của tình cảm” [85, tr. 353]. Thống kê 235 bài thơ, chúng tôi nhận thấy Giang Nam chủ yếu sử dụng thể thơ tự do để chuyển tải tư tưởng, tình cảm của mình. Thể thơ này chiếm tỷ lệ 60,42%. Đặc biệt là những sáng tác theo thể thơ này xuất hiện khá cao trong giai đoạn kháng chiến. Sở dĩ thơ tự do chiếm ưu thế trong thơ Giang Nam bởi nó có thể tiếp nhận một dung lượng cuộc sống thực tế lớn hơn. Mặt khác, với thể thơ tự do, nhà thơ có điều kiện phát triển mạch cảm xúc thoải mái mà không bị lệ thuộc vào một luật lệ nào.

             Ở thể thơ này, ông đã có những câu thơ từ 3 đến 15 tiếng nhưng tập trung nhiều nhất là những câu thơ 6, 7, 8, 9 tiếng (Những người vợ miền Nam, Mạnh hơn súng gươm và án tử hình, Sau ngày chiến thắng, Người con gái Kiến Phong, Con có về thăm quê nội, Thăm quê Nguyễn Huệ, Bài thơ đêm Hà Nội, Hạnh phúc…). Nhà thơ đã có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các loại câu thơ trong một bài thơ:

                                    Chúng nó trói anh vào cột

                                    Mắt anh vẫn sáng ngời ngời

                                    Anh Trỗi ơi!

                                    Anh không khóc mà sao lòng nức nở?

                                    Quê chúng mình khu năm – Anh còn nhớ

                                    Chuyến đò ngang trên sông nước Thu Bồn

                                    Và Sài Gòn –

                                                            Sài Gòn trăm mến nghìn thương

                                    Bà Chiểu, Thị Nghè, Cầu Bông, Khánh Hội

                                                                        (Mạnh hơn súng gươm và án tử hình)

                                    Em Nguyễn Thị Bé ơi!

                                    Em không còn nữa

                                    Chúng nó giết em rồi

                                    Những thằng côn đồ mặt chó

                                    Chúng nó giết em, người con gái Kiến Phong

                                    Của quê ta, của Nam bộ thành đồng.

                                                                        (Người con gái Kiến Phong)

                                    Theo bạn về Hà Tĩnh

                                    Bàn chân NGUYỄN còn hằn trên đá sỏi

                                    Câu thơ quặn lòng nỗi bất hạnh trăm năm:

                                    “Nàng thì cõi khách xa xăm

                                    Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây”

                                    Bãi lau còn đó hơi may

                                    Hình như tôi đã quên một Tiền Đường xa lắc

                                    Có phải Kiều đã qua đây

                                    Nước mắt thấm vào từng hạt cát

                                    Hà Tĩnh ơi!

                                                                        (Về Hà Tĩnh nhớ Nguyễn Du)

Lục bát là một thể thơ “diệu kỳ” có giá trị nhất định trong đời sống văn học cũng như trong tâm hồn của công chúng yêu thơ. Thơ lục bát được ca ngợi như một hình ảnh đẹp: “Lục – Bát là Lục – Bát ơi/ Em duyên dáng vậy làm tôi say lòng/ Con sáo thì đã sang sông/ Ai thì vẫn bắc cầu vồng mộng mơ (…) Lục – Bát là Lục – Bát ơi/ Ước gì Lục – Bát là tôi với nàng” (Nguyễn Thị Kim Quy – Báo Văn nghệ ngày 21/1/1993). Khảo sát thơ lục bát, chúng tôi nhận thấy thơ lục bát có khoảng 29 bài trong tổng số 235 bài chiếm tỷ lệ 1,23 %, một tỷ lệ tương đối khiêm tốn trong sáng tác của Giang Nam và xuất hiện nhiều trong các sáng tác sau năm 1975. Thơ Giang Nam là tiếng thơ thốt ra từ trái tim chân thành, đằm thắm. Ông nói về những vấn đề lớn lao của dân tộc, thời đại bằng giọng thơ trữ tình, sâu lắng. Vì vậy, việc ông tìm đến thể thơ lục bát để diễn tả tình cảm của mình đối với quê hương đất nước, con người là một điều tất yếu.

Nhìn chung, số khổ trong thơ và số câu trong một khổ được phân chia khá đa dạng. Hầu hết các bài thơ gồm nhiều khổ. Số câu trong một khổ có sự thay đổi tùy theo nội dung, cảm xúc của tác giả, ví dụ như: khổ thơ gồm 2 câu (Câu hát cũ), 4 câu (Bài ca chiến trường), 6 câu (Về Trường Sơn), 8 câu (Hàng tre Giồng nhỏ), 10 câu (Mẹ Củ Chi), 18 câu (Đất nước còn mang hình bóng Bác)… Về cách ngắt nhịp thơ lục bát, đôi khi, ông không theo nhịp chẵn quen thuộc mà đã có sự thay đổi, chẳng hạn:

Cách ngắt nhịp ở câu 6 tiếng:

+ Nhịp 1/2/3:

                                    Mẹ/ giao con/ mảnh đất này

                                                            (Mẹ Củ Chi)

+ Nhịp 3/3:

                                    Đông hay Tây/ cũng bản làng

                                                            (Về Trường Sơn)

+ Nhịp 1/2/3:

                                    Người/ còn đợi/ đến bao giờ

                                                            (Dưới chân núi Mẹ bồng con)

+ Nhịp 1/3/2:

                                    Đá/ không trở lại/ làm người

                                                            (Dưới chân núi Mẹ bồng con)

            Cách ngắt nhịp ở câu 8 tiếng:

            + Nhịp 3/3/2:

                                    Câu hát cũ,/ em nhớ gì/ không em?

                                                            (Câu hát cũ)

            + Nhịp 3/1/4:

                                    Ba Đình nay/ nhớ/ Ba Đình ngày vui

                                                            (Đất nước còn mang hình bóng Bác)

            + Nhịp 1/3/4:

                                    Không,/ ngàn cặp mắt/ dạt dào yêu thương

                                                            (Tiễn cháu qua đường 4)

            + Nhịp 3/5:

                                    Tình của bạn/ cũng là tình Bác xa

                                                            (Bài ca chiến trường)

Dù sử dụng thể thơ truyền thống nhưng thơ lục bát của Giang Nam đã có những biến đổi về khổ thơ, câu thơ và nhịp thơ để cho chúng trở nên mới lạ và phong phú hơn.

            Thể thơ 5 tiếng có số lượng khá ít (19/235 bài thơ, chiếm tỷ lệ 0,8%). Các khổ thơ của thơ 5 tiếng thường có 4 câu. Tuy nhiên, có bài khổ thơ lên đến 10 câu thơ 5 tiếng như bài Thức giữa mùa xuân, Mở đường hoặc có bài đoạn kết lại xen các khổ thơ 7 tiếng như bài Chị em. Đáng chú ý là số lượng khổ khá cao trong mỗi bài thơ như: Mừng bạn mùa xuân (9 khổ), Những vết bầm trên má (11 khổ), Bởi ngày mai giặc đến (13 khổ), Chị em (14 khổ), Gặp anh du kích miền Tây (27 khổ)…          

Riêng về cách ngắt nhịp, đôi khi, ông có những câu thơ vượt ra ngoài cách ngắt nhịp thông thường 2/3 hoặc 3/2, chẳng hạn như:

            + Nhịp 2/1/2:

                                    Chị cười/ và/ chị khóc

                                                            (Thức giữa mùa xuân)

 

            + Nhịp 1/1/3:

Nắng/ rung/ cành phượng đỏ

                                                            (Bởi ngày mai giặc đến)

            + Nhịp 1/2/2:

                                    Mà/ thương em/ muốn khóc

                                                             (Chị em)

Về thể thơ, Giang Nam ít có sự bứt phá, cách tân mà dấu ấn của thơ ca truyền thống vẫn còn in đậm trong sáng tác của ông. Tuy nhiên, cách ngắt nhịp thơ có những sáng tạo vượt thoát khỏi những quy luật thơ truyền thống đã chứng minh cho sự miệt mài và cố gắng thể nghiệm trong quá trình sáng tác của nhà thơ.

            2.1.3.3. Về ngôn ngữ thơ

            Nhà văn khi sáng tạo nên tác phẩm bên cạnh việc sáng tạo hệ thống nhân vật, hình tượng, thế giới nghệ thuật… thì cũng đồng thời sáng tạo ngôn ngữ bởi “Thơ phải làm say đắm hồn người bằng hồn vía của chữ nghĩa” [139]. Giang Nam đã vận dụng ngôn ngữ của đời sống hàng ngày trong thơ một cách tự nhiên, bình dị, sinh động. Những từ ngữ địa phương, đậm sắc thái Nam Bộ được ông đưa vào thơ góp phần tạo nên chất hiện thực với sắc thái riêng độc đáo. Và đó cũng chính là đặc điểm của thơ ca kháng chiến.

            Về ngôn ngữ thơ Giang Nam, chúng tôi sẽ tìm hiểu những nét đặc sắc trong cách dùng từ ngữ, các biện pháp tu từ và hình ảnh trong thơ.      

 Giang Nam có sự kết hợp nhuần nhuyễn các động từ, tính từ tình thái:

                                    Cô bé nhà bên (có ai ngờ)

                                    Cũng vào du kích

                                    Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích

                                    Mắt đen tròn thương, thương quá đi thôi

                                    (…)

                                    Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn, ngậm ngùi

                                    Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng

                                                                     (Quê hương)

            Chính sự kết hợp các động từ, tính từ tình thái làm câu thơ đậm sắc thái biểu cảm và trở nên gần gũi hơn:

                                    Đêm thương nhớ một con đường cỏ ướt

                                    Bến nước xôn xao mái tóc, mảnh khăn rằn

                                                                       (Đường về)

Các động từ được sử dụng liên tiếp còn để nhấn mạnh niềm vui sướng tột cùng của con người được tự do, được làm chủ:

                                    Sung sướng quá tôi muốn cười, muốn nói

                                    Muốn thét to lên như thuở ấy ra đường

                                                                      (Bài thơ tháng Tám)

            Đặc trưng của thơ là giàu sức gợi nên thơ Giang Nam được cô đúc bằng những từ ngữ tạo hình, gợi tả, gợi cảm:

                                    Thương biết mấy những bờ vai nhỏ hẹp

                                    Áo bà ba trắng thon thon

                                                                        (Những người vợ miền Nam)

                                    Anh vẫn là cây cổ thụ rễ sâu

                                    Bám chặt xóm thôn, ăn vào lòng đất.

                                                                        (Đi để trở về)

                                    Em vẫn đẹp như mùa xuân chín tới

                                    Má vẫn hồng và mái tóc vẫn xanh

                                                                        (Thành phố của chúng ta)

                                    Họ như mùa xuân chín ngọt trên cành

                                    Hoa nở đầu môi, sông cười trong mắt

 

                                    Tuổi mười chín, áo chưa sờn đã chật

                                    Bước vụng về nhưng rắn chắc, hăng say

                                                                        (Hoa mùa xuân Nam bộ)

Biện pháp tu từ ngữ nghĩa so sánh được Giang Nam sử dụng một cách sáng tạo, độc đáo:

                                    Môi em cười như hoa bưởi, hoa sen

                                    Tươi mát những dòng sông mùa mít ngọt

                                                                        (Chiến thắng)

                                    Chị đứng đó: nhỏ bé, mong manh nhưng tràn đầy sinh lực

                                    Như mạ non chị cấy, như bụi chuối chị trồng

                                                                        (Chiếc áo cuối cùng)

Giang Nam còn sử dụng cấu trúc so sánh đảo với những câu thơ đầy ấn tượng:

                                    Bàn tay mềm thon thon

                                    Ôm cổ ba nũng nịu

                                    Như một cánh chim non

                                    Như một cành sậy yếu.

                                                                        (Bởi ngày mai giặc đến)

                                    Như vú mẹ không cạn nguồn sữa quý

                                    Như dòng sông vô tận chẳng ngừng trôi

                                    Gói trọn tâm tình trên đôi cánh nhẹ

                                    Làn sóng đi mang nắng khắp phương trời

                                                                        (Tiếng nói Việt Nam)

            Biện pháp tu từ so sánh được Giang Nam sử dụng rất nhiều, không chỉ dùng liên từ “như” để so sánh hai vế, nhà thơ còn sử dụng từ “”:

Em ngọn lửa tháng năm đốt cháy cánh đồng

                                    Em ngôi sao sáng giữa trời.

                                                            (Đội du kích anh hùng)

            Song hành với so sánh, điệp ngữ cũng là một phép nghệ thuật được nhà thơ vận dụng khá nhiều nhằm nhấn mạnh suy nghĩ, cảm xúc qua một số từ ngữ:

                                      Một vùng lũ trắng không bờ

                                     Lại xanh …tranh thủ từng giờ mà xanh

                                                                        (Hội xuân vùng lũ)

                                    Tôi về quê biển miền Trung

                                    Nghe sóng nói những lời thương nhớ

                                    Nghe gió gọi những tên người quen cũ

                                    Nghe rì rầm ghềnh đá nhấp nhô

                                    Nha Trang ơi, biển đêm sóng vẫn vỗ bờ

                                    Ánh đèn câu mực tuổi thơ sáng trong kí ức.

                                                                        (Biển miền Trung)

                                    Trời Bến Tre xanh như vườn Bến Tre xanh

                                                                        (Đất anh hùng)

                                    Anh vẫn thương em son sắt, vẹn toàn

                                    Dù đã nát cả cuộc đời trinh trắng!

                                    Đã trinh trắng em càng thêm trinh trắng!

                                    Đã thương nhiều, càng thương lắm em ơi!

                                                                        (Những người vợ miền Nam)

            Chính sự phong phú trong cách sử dụng từ ngữ, các biện pháp nghệ thuật đã giúp thơ ông chạm đến những xúc cảm sâu lắng trong hồn người.

Dù chiến tranh khốc liệt, sự sống và cái chết cận kề, thơ Giang Nam vẫn ánh lên cái nhìn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống và con người thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng. Vì thế, thơ ông thiên về các hình ảnh tươi sáng, gam màu nóng. Ông hay nhắc đến màu đỏ, màu xanh, ánh sáng cũng như các dạng biểu hiện của chúng, chẳng hạn ánh sáng: ánh sáng, sáng chói, mặt trời, nắng mới, ánh đèn, chấm lửa, đốm lửa, biển lửa…; màu xanh: bóng dừa xanh, trời thăm thẳm một màu xanh, biển xanh, xanh màu áo, đồng xanh, ; màu đỏ: áo đỏ, ngôi sao đỏ, hoa chuối đỏ, đôi môi đỏ, máu đỏ, ráng đỏ, ngói đỏ, nắng đỏ, bông hồng đỏ… Những màu sắc và ánh sáng biểu hiện ý niệm về cuộc sống và những khát vọng ẩn chứa trong tâm hồn nhà thơ. Màu xanh, màu đỏ, ánh sáng tượng trưng cho sức sống, sức trỗi dậy mãnh liệt của vùng đất, con người Nam Bộ đồng thời thể hiện niềm tin tưởng, lạc quan của tác giả.

Lấy chất liệu từ hình ảnh, màu sắc thực trong cuộc sống đưa vào thơ là một hướng khai thác đầy cá tính của các nhà thơ. Giang Nam hay sử dụng các gam màu xanh, màu đỏ:

                                    Con có về thăm nơi hoa toàn màu đỏ

                                    Con có về thăm nơi thắm thiết điệu ru hời

                                                                        (Con có về thăm quê nội)

                                    Ôi mùa xuân tôi đi dọc sông Đà

                                    Hoa chuối đỏ như rất nhiều chấm lửa

                                                                        (Sông Đà, mùa xuân)

                                    Cô gái áo xanh quai chèo nhè nhẹ

                                    Nắng gió mơn man đôi cánh tay tròn

                                                                        (Qua sông Vàm Cỏ)

                                    Đồng giải phóng màu xanh mát mắt

                                    Nơi em nằm lúa vàng trĩu hạt

                                                                        (Viết ở Đại Điền)

Ngoài ra, những gam màu “trắng”, “hồng”, “tím”, “vàng” cũng được ông đưa vào trong thơ một cách tự nhiên, dung dị:

                                    Mảnh đất đồng bằng ngọt mía, vàng cam

                                    Gợi nhớ, gợi thương những chân trời cũ

                                    Đuốc rừng Ba tơ – đắng, lạt canh đu đủ

                                    Đêm Hàm Luông, cá nhảy trắng khoang xuồng.

                                                                         (Một mặt trời đỏ rực)

                                    Hậu phương, hậu phương

                                    Đỏ dải lụa sông Hồng

                                    Xanh những cành cam có bầy ong về hút mật

                                    Sao vàng bay trên nơi Bác đọc tuyên ngôn.

                                    Trắng cánh cò bay lả mênh mông

                                    Một thung lũng Điện Biên tím màu hoa mua bình dị

                                    Năm sắc cầu vồng đã làm nên Tổ quốc ta hùng vĩ…

                                                                        (Giữ cho tôi màu sắc nước non này)

            Cũng như nhà thơ Lê Anh Xuân, Giang Nam đã đưa phương ngữ Nam Bộ, tên địa danh, tên các nhà văn, nhà thơ vào trong thơ mình. Đây cũng là một cách nhằm tạo ra sắc thái biểu cảm trong thơ:

Em còn sống đấy, quê hương

Vẫn đôi mắt của đồng, bưng cuối trời

                                    (Hàng tre Giồng nhỏ)

Lại về với đất mùa xuân

Lòng người như suối trong ngần hát ca,

Con dao vạch lối rừng xa

Rẫy cách mạng, đuốc mò o bập bùng.

                                     (Đất mùa xuân, đất tiến quân)

Việc sử dụng phương ngữ Nam Bộ cho ta thấy được tình cảm gắn bó của nhà thơ với mảnh đất mình từng sinh sống. Không chỉ dừng lại ở đó, Giang Nam còn đưa tên đất, tên người vào thơ mình:

                        Bác vốc vào đôi tay

                        Từng giọt nước trong vắt

 

                        Chiếc áo nâu Bác mặc

                        Thấm mồ hôi đường dài

                                                (Rừng trưa)

                        Bác không ngủ năm nào rừng Việt Bắc

                        “Nỗi nước nhà” giờ chắc Bác chưa yên

                        Trường Dục Thanh con nghe từng chiếc lá

                        Khe khẽ rơi như ngại động bậc thềm

                                                (Nghe thơ Bác ở Phan Thiết)

                                    Cầu Sông Cạn ta chưa về thăm nơi cụ Nghè ngã xuống

                                    Ôi Nguyễn Huệ đã phá giặc mấy lần

                                    Trên dòng Cù Huân mịt mù khói sóng

                                    Những năm ba mươi, cờ đỏ búa liềm

                                    Mọc trên đỉnh Ổ Gà mẹ còn nhớ như in

                                    Đất lịch sử, ru nôi người từ tuổi nhỏ

                                    Hòn Dữ, Hòn Hèo, Đá Bàn, Dốc Mỏ.

                        (Khánh Hòa, Nha Trang ơi!)

sông Hồng, sông Lô, có Hồ Gươm, Đống Đa

Có cả thơ Nguyễn DuNguyễn Trãi

Có mười hai cô gái Truông Bồn mở đường trong đêm tối

Và có miền Nam, có miền Nam!

                        (Giữ cho tôi màu sắc nước non này)

Các địa danh quen thuộc, tên nhân vật lịch sử được Giang Nam đưa vào trong thơ như là một cách để gợi nhớ về quá khứ hào hùng, về cội nguồn dân tộc.

Ngoài ra, nhà thơ còn dành riêng từng bài thơ để nhắc đến tên cụ thể của từng người như: Về Hà Tĩnh nhớ Nguyễn Du, Đêm xuân Quy Nhơn đọc Hàn Mặc Tử, Mùa thu chợ huyện, Cháy trong lửa, Bài thơ ấy, Thăm nhà E. Hemingway, Vội thế sao anh,…

Thơ Giang Nam phục vụ chính trị, tuyên truyền cổ vũ chiến đấu, đó cũng là giá trị, là điều tất yếu của văn học thời kì chiến tranh. Sáng tác của Giang Nam đã đáp ứng được yêu cầu của thời đại nghĩa là nó đã thực hiện được chức năng xã hội – lịch sử của mình.  Đọc thơ Giang Nam, ta lại nhớ câu nói của Sóng Hồng: “Thơ tức là sự thể hiện con người và thời đại” [98, tr.50]. Tuy nhiên, xét đến cùng, chất hiện thực của nhiều bài thơ vẫn chưa vươn tới chiều cao của những vấn đề thời đại. Nhiều lúc chúng ta bắt gặp trong thơ những con người, những sự việc, những tình cảm quá chung chung, hình tượng nhân vật chưa cụ thể, sắc nét. Sự sống chưa ùa vào trong thơ kết tinh lại thành những hình ảnh chân thực và xúc động. Có một số bài thơ rơi vào kể lể dài dòng mà vẫn thiếu cụ thể [20, tr.47]. Còn với thơ ca sau 1975, cảm hứng sáng tạo chưa gắn liền với thực tế mà gắn liền với khát vọng về tương lai với niềm vui tràn đầy khi được tự do [54, tr.36]. Nhưng đó là nhiệt tình, là tấm lòng của ông đối với quê hương đất nước, với dân tộc. Vì thế, tiếng thơ Giang Nam tác động mạnh đến người đọc, cổ vũ tinh thần chiến đấu của thế hệ trẻ. Hơn nữa, trong điều kiện chiến tranh ác liệt, chúng ta không thể đòi hỏi quá nhiều ở nhà thơ, bởi ông đâu có thời giờ gọt giũa từng câu chữ, tìm tòi những cái độc đáo. Nhưng dẫu sao chúng ta vẫn trân trọng tiếng thơ Giang Nam!

 

MỤC LỤC

  

 

 TOC \o "1-4" \h \z \u MỞ ĐẦU.. PAGEREF _Toc320794596 \h 1 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003500390036000000

1. Lý do chọn đề tài PAGEREF _Toc320794597 \h 1 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003500390037000000

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. PAGEREF _Toc320794598 \h 2 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003500390038000000

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. PAGEREF _Toc320794599 \h 12 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003500390039000000

4. Phương pháp nghiên cứu. PAGEREF _Toc320794600 \h 13 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600300030000000

5. Đóng góp mới của luận văn. PAGEREF _Toc320794601 \h 14 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600300031000000

6. Cấu trúc của luận văn: PAGEREF _Toc320794602 \h 14 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600300032000000

Chương 1: GIANG NAM – CUỘC ĐỜI VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC.. PAGEREF _Toc320794603 \h 16 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600300033000000

1.1. Cuộc đời PAGEREF _Toc320794604 \h 16 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600300034000000

1.2. Những chặng đường sáng tác. PAGEREF _Toc320794605 \h 22 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600300035000000

1.3. Quan niệm nghệ thuật PAGEREF _Toc320794608 \h 29 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600300038000000

Tiểu kết  PAGEREF _Toc320794609 \h 32 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600300039000000

Chương 2:  THƠ VÀ TRƯỜNG CA GIANG NAM-TIẾNG NÓI TRỮ TÌNH SÂU LẮNG, CHÂN THÀNH.. PAGEREF _Toc320794610 \h 33 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600310030000000

2.1. Thơ. PAGEREF _Toc320794611 \h 33 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600310031000000

2.1.1. Thơ ca kháng chiến chống Mỹ. PAGEREF _Toc320794612 \h 33 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600310032000000

2.1.2. Thơ ca từ sau năm 1975 đến nay. PAGEREF _Toc320794613 \h 64 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600310033000000

2.1.3. Đôi nét về nghệ thuật  PAGEREF _Toc320794614 \h 78 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600310034000000

2.2. Trường ca. PAGEREF _Toc320794615 \h 92 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600310035000000

2.2.1. Trường ca trước năm 1975. PAGEREF _Toc320794616 \h 93 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600310036000000

2.2.2. Trường ca sau năm 1975. PAGEREF _Toc320794618 \h 100 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600310038000000

Tiểu kết PAGEREF _Toc320794619 \h 115 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600310039000000

Chương 3: VĂN XUÔI CỦA GIANG NAM  –  NHỮNG SÁNG TẠO TỪ NGUỒN HỒI ỨC.. PAGEREF _Toc320794620 \h 116 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600320030000000

3.1. Truyện ngắn. PAGEREF _Toc320794621 \h 116 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600320031000000

3.1.1. Những cảm hứng, chủ đề chính. PAGEREF _Toc320794622 \h 116 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600320032000000

3.1.2. Thế giới nhân vật PAGEREF _Toc320794625 \h 121 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600320035000000

3.2. Kí PAGEREF _Toc320794626 \h 132 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600320036000000

3.2.1. Bút kí PAGEREF _Toc320794627 \h 132 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600320037000000

3.2.2. Hồi kí PAGEREF _Toc320794630 \h 139 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600330030000000

Tiểu kết PAGEREF _Toc320794631 \h 141 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600330031000000

KẾT LUẬN.. PAGEREF _Toc320794632 \h 142 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600330032000000

TÀI LIỆU THAM KHẢO.. PAGEREF _Toc320794633 \h 145 08D0C9EA79F9BACE118C8200AA004BA90B02000000080000000E0000005F0054006F0063003300320030003700390034003600330033000000

PHỤ LỤC             

 

 

Danh mục website