Bàn lại và bàn thêm về thời điểm Phật giáo – Thiền đạo truyền vào Việt Nam

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, số 6-2012 (số 122), trang 17-22.

1. Phật giáo truyền vào nước ta từ khi nào?

Nêu vấn đề với câu hỏi như trên bởi lẽ từ trước đến nay có nhiều tư liệu ghi cái mốc Phật giáo truyền vào nước ta chưa nhất quán. Có ý kiến cho rằng Phật giáo truyền vào nước ta từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên như sách Thiền uyển tập anh ngữ lục, và các công trình của: Trần Văn Giáp (1932), Mật Thể (1941), Viện Triết học (1988) V.V..; Lại có ý kiến cho rằng Phật giáo truyền vào từ cuối thế kỷ thứ I trước Công nguyên như các công trình của Nguyễn Lang (1972), Lê Mạnh Thát (1976)[1] v.v.. Vấn đề vừa nêu tưởng như đơn giản và đã giải quyết ngã ngũ, vì từ đầu thế kỷ XX đến nay, các nhà nghiên cứu lịch sử, lịch sử tư tưởng, Phật giáo sử, Văn học trung đại… đã bàn nhiều, bàn kỹ, nhưng ngẫm lại, vấn đề trên cũng còn có điều để bàn thêm, bàn lại. Ngay cả quyển sách được xem là tài liệu gốc và xưa nhất về lịch sử Phật giáo Việt Nam là tác phẩm Thiền uyển tập anh ngữ lục được viết vào khoảng đầu thế kỷ XII (khoảng trước năm 1134) đến đầu thế kỷ XIII thì hoàn tất, bởi các vị thiền sư Thông Biện, Thường Chiếu, Thần Nghi, Ẩn Không kế tục nhau biên chép; truyền bản đời Trần hiện không còn, bản in xưa nhất hiện còn là bản Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), đời Lê Dụ Tông (1705-1729) cũng không phải là không có sai sót, nhầm lẫn hoặc ghi chép thiếu nhất quán. Bài viết này sẽ bàn thêm, bàn lại về vấn đề vừa nêu.

Lâu nay, các sách viết về Phật giáo Việt Nam chỉ chú trọng đến lớp văn hóa sau, tức lớp văn hóa Phật giáo phương Bắc – từ Trung Quốc truyền xuống bằng đường bộ mà quên đi lớp văn hóa trước, tức lớp văn hóa Phật giáo phương Nam – từ Ấn Độ trực tiếp bằng đường biển truyền sang. Và lớp văn hóa Phật giáo phương Nam này đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn hoá Việt Nam thời kỳ đầu, mà dấu vết còn lưu lại trong nhiều truyền thuyết và truyện cổ dân gian, trong lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc, v.v.. Điều đó chứng tỏ, từ rất xa xưa Việt Nam và Ấn Độ đã có sự giao lưu văn hóa. Mối quan hệ đặc biệt này hiện nay hai nước vẫn đang tiếp tục và ngày càng gắn bó hơn.

Phật giáo khởi nguyên là một học thuyết triết lý với tinh thần bình đẳng dân chủ, với tư tưởng vô ngã vị tha, từ bi hỷ xã, tâm không phân biệt và mong cầu giải thoát con người ra khỏi những cảnh khổ nghiệp, về sau mới trở thành tôn giáo (réligion) với sự kính tin, kính ngưỡng của quảng đại quần chúng, truyền phát rộng rãi trong khu vực và trên toàn thế giới.

Phật giáo phát sinh ở vùng đông bắc Ấn Độ tại tiểu vương quốc cộng hoà Ca Tỳ La Vệ vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên[2], trong lòng xã hội Ấn Độ cổ đại mà đặc trưng là sự thành lập những Nhà nước chủ nô chuyên chế lớn về sự tồn tại của những đẳng cấp xã hội[3] do Bà la môn giáo quy định. Phật giáo ra đời là nhằm xóa bỏ sự phân biệt đẳng cấp này, mong đem lại quyền bình đẳng dân chủ cho tất cả mọi người. Đây là một trào lưu tư tưởng rất tiến bộ, đậm tính nhân văn, phản ánh đấu tranh giai cấp có những nguyên cớ sâu xa trong lòng xã hội và văn hóa Ấn Độ thời cổ đại.

Phật giáo theo đường biển từ phương Nam và theo đường bộ từ phương Bắc truyền vào nước ta từ rất sớm. Sách Thiền uyển tập anh ngữ lục có chép câu chuyện đối đáp giữa bà Phù Thánh Cảm Linh Nhân Hoàng Thái hậu (tức Ỷ Lan, mẹ của vua Lý Nhân Tông, được phong Hoàng Thái hậu năm 1073), với sư Trí Không (Thông Biện quốc sư) đại để rằng: trong lúc đàm đạo với các bậc cao tăng kỳ lão, Hoàng Thái hậu hỏi: “Phật và Tổ nghĩa thế nào? Ai hơn ai kém? Phật trụ phương nào? Tổ ở thành nào? Đến nước ta từ bao giờ? Việc truyền đạo ai trước ai sau? Người niệm tên Phật đạt tâm ấn của Tổ chưa rõ là những ai?”“Về giáo tông thì chưa nói tới, nhưng còn hai phái thiền tông (tức phái Tỳ ni đa lưu chi và phái Vô Ngôn Thông - NCL chú thêm) thì có gì thực chứng?. Trong lúc mọi người đều im lặng thì thiền sư Trí Không trả lời rõ Phật là gì, Tổ là gì… khi sắp nhập diệt, Phật đã đem chánh pháp nhãn tạng truyền cho Ma ha Ca Diếp làm Tổ thứ nhất dòng Tâm tông. Sau đó Trí Không đã dẫn lại truyện Đàm Thiên pháp sư (Trung Quốc) khi vua Tùy Cao Tổ (581-604)[4] ngỏ ý với pháp sư Đàm Thiên muốn làm chùa tháp ở Giao Châu và tuyển danh tăng sang đây hoằng hóa… thì ông tâu: “Xứ Giao Châu có đường thông với Thiên Trúc. Khi Phật pháp mới đến Giang Đông chưa khắp thì ở Luy Lâu đã có tới hai mươi ngôi bảo tháp, độ được hơn trăm năm vị tăng và đã dịch được mười lăm quyển kinh rồi”… “Như vậy là Phật giáo đã truyền đến Giao Châu trước nước ta (tức Trung Quốc – NCL chú thêm). Hồi ấy đã có các vị cao tăng như Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác cư trú tại đó”. (dẫn lại: Thiền uyển tâp anh ngữ lục, bản in năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), ký hiệu A3144). Sau đó, sư Trí Không còn dẫn thêm một chứng cứ nữa “…Quyền Đức Dư là một Tể tướng đời Đường có viết trong lời tựa sách “Truyền pháp” rằng, sau khi Tào Khê (Huệ Năng) tịch rồi, thiền pháp thịnh hành, các dòng đều có kẻ nối, thiền sư Chương Kính Huy[5] đem những điều tâm pháp của Mã Tổ đi giáo hoá ở miền Ngô, Việt. Vô Ngôn Thông đem tông chỉ của Bách Trượng Hoài Hải đi khai ngộ ở Giao Châu… (theo Thiền uyển tập anh ngữ lục). Từ chứng cứ trên, Trần Văn Giáp nêu giả thuyết rằng:“Thuyền buôn Ấn Độ sang Quảng Châu có ghé Giao Châu mua bán hàng hoá. Nhà tu hành đi theo làm việc cúng lễ trên tàu biển và chữa bệnh dọc đường. Khi vào Giao Châu thầy tu lên chữa bệnh cho dân bản xứ và giảng đạo” [dẫn lại: Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam des origine au 13e siecle, BEFEO, 1932] mà sau này trong các công trình của các nhà nghiên cứu như Mật Thể, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Lang, Lê Mạnh Thát đều nhất trí với ý kiến của Trần Văn Giáp. Đặc biệt, Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1 (1972); Lê Mạnh Thát trong Sơ thảo lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1 (1975); Bùi Văn Nguyên trong tài liệu Kiến thức bổ trợ cho môn văn học cổ Việt Nam (1980) đã chứng minh xác đáng rằng Phật giáo theo đường biển vào phương Nam truyền vào Giao Châu rất sớm, sớm hơn là theo đường bộ từ phương Bắc truyền xuống. Vì đi đường biển nhanh hơn và thuận lợi, an toàn hơn. Bùi Văn Nguyên còn nêu giả thuyết về hai con đường thỉnh kinh ngày xưa[6]. Theo nhiều tài liệu thì hồi ấy, Giao Châu đã là một trung tâm truyền bá đạo Phật rất lớn mà Luy Lâu là thủ phủ. Rồi từ “Trung tâm Luy Lâu, Phật giáo truyền sang trung tâm Bành Thành, sau đó đến Lạc Dương ở Trung Quốc” (theo Nguyễn Lang và Lê Mạnh Thát, tlđd). Điều đó chứng tỏ trung tâm Phật giáo Luy Lâu có trước trung tâm Phật giáo Bành Thành, Lạc Dương và Phật giáo vào Việt Nam sớm hơn Phật giáo vào Trung Quốc.

2. Vị nào là người đầu tiên truyền bá đạo Phật vào nước ta?

Cũng căn cứ theo Thiền uyển tập anh ngữ lục, về sau Trần Văn Giáp, Mật Thể, Hoàng Xuân Hãn rồi Henri Maspéro và P. Pelliot đều cho rằng Ma ha kỳ vực, Chi Cương Lương, Khương Tăng Hội và Mâu Bác là bốn vị sư truyền đạo đầu tiên ở Việt Nam. Và trước đó, các tác giả trên cũng nhất trí với ý kiến của Trí Không (Thông Biện) là Ma Đằng là một trong hai nhà sư đầu tiên của Ấn Độ đến Trung Quốc truyền đạo.

Nhưng sự thật không phải như thế. Các vị sư vừa nêu trên không thể là người đầu tiên truyền đạo Phật vào nước ta. Nếu đọc kỹ tiểu truyện các vị sư trên, chúng ta sẽ thấy rằng:

Ma Đằng là thiền sư người Ấn Độ đến Trung Quốc giảng đạo vào năm 68 đời vua Hán Minh Đế, tức vào đầu nửa sau thế kỷ I sau CN.

Bốn vị sư kể trên thì phải xếp theo thứ tự niên đại như sau: Mâu Bác, Ma ha kỳ vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương (viết như sách Thiền uyển tập anh chép lại lời sư Đàm Thiên thì không theo trình tự lịch sử). Những vị này sống và hành đạo tại nước ta vào cuối thế kỷ thứ II, thế kỷ thứ III sau Công nguyên.

Nếu theo Thiền uyển tập anh ngữ lục và các công trình của Trần Văn Giáp, Mật Thể, Hoàng Xuân Hãn thì đạo Phật vào Giao Châu trước Trung Quốc và cho rằng bốn vị sư kể trên là những người truyền đạo đầu tiên; trong khi đó lại thừa nhận Ma Đằng là người đầu tiên mang Phật giáo truyền giáo vào Trung Quốc. Đây là chỗ bất hợp lý, thiếu nhất quán trong sách Thiền uyển tập anh ngữ lục và trong công trình của các nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp, Mật Thể, Hoàng Xuân Hãn.

Mâu Bác là người Hán, giỏi Khổng Mạnh, tinh thông Lão - Trang, thời Tam Quốc loạn lạc, ông đưa gia đình sang Giao Châu lánh nạn vào nửa sau thế kỷ thứ II. Sau khi mẹ mất, ông đã xuất gia tu Phật tại Giao Châu rồi viết sách hoặc luận để xiển dương giáo lý nhà Phật vào khoảng năm 195-198. Việc này trong tác phẩm Lý hoặc luận, Mâu Bác có nói. Đây là tác phẩm Luận thuyết triết lý theo lối vấn đáp, một thể văn thịnh hành ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ III, thứ II tr.CN, tác phẩm gồm 37 câu hỏi và đáp với nội dung lý giải những điều mê lầm của một số người không hiểu đạo Phật. Từ câu 1 đến câu 28 là những vấn nạn của người theo Khổng hỏi về Phật; từ câu 29 đến câu 37 là những vấn nạn của người theo Lão. Ở đó, tác giả bài bác tư tưởng hẹp hòi câu nệ của Khổng; đả kích Lão và Đạo giáo, chuyện luyện thuốc trường sinh là bịa đặt. Ông kết luận: Khổng, Lão như hang khe, bó đuốc, hoa lá; còn Phật như là mặt trời, là quả trái thơm ngon. Cũng trong tác phẩm này, ông có phàn nàn về tệ trạng của giới tăng sĩ ở Giao Châu. Điều đó có nghĩa là thời bấy giờ tăng đoàn Giao Châu đã khá đông đảo nên mới có tình trạng lộn xộn và nhiều tệ đoan.

Việc Mâu Bác xuất gia học đạo tại Giao Châu đã chứng tỏ lúc này Phật giáo ở Giao Châu đã lớn mạnh có đủ tam sư thất chứng để tổ chức nghi lễ đại giới đàn truyền thọ Tỳ kheo giới. Trong khi đó vào thời điểm này ở Trung Hoa, chính quyền phong kiến cấm không cho người bản xứ xuất gia; mãi đến nửa cuối thế kỷ thứ III, khoảng năm 250 về sau (niên hiệu Gia Bình) mới có sư Đàm Ma Ca La từ miền Trung Ấn Độ qua truyền giới Thập nhân thọ và làm lễ xuất gia cho người Trung Quốc, mà phép này đã được áp dụng ở Việt Nam từ trước đó đã từ lâu rồi.

Như vậy, khi Phật giáo chưa truyền vào Trung Quốc thì ở Giao Châu đã có tăng đoàn. Và Mâu Bác đã xuất gia, học đạo và viết sách tại Giao Châu, nên Mâu Bác không thể là một trong bốn người đầu tiên truyền bá đạo Phật vào Giao Châu như sách Thiền uyển tập anh có ghi mà sau này các nhà nghiên cứu như Trần Văn Giáp, Mật Thể, Hoàng Xuân Hãn đã căn cứ vào sách này để chép lại.

Một chứng cứ khác: trước Mâu Bác hơn một trăm năm, từ năm 40-43 sau Công nguyên (tức nửa đầu thế kỷ thứ I), Bát Nàn phu nhân, một vị tướng của Hai Bà Trưng, bà vốn là một vị ni sư, đã triệu tập lực lượng khởi nghĩa, tham gia dưới trướng của Hai Bà Trưng, sau đó, khi Hai Bà Trưng thất trận (năm 43), Bát Nàn trở về lại Thái Bình tiếp tục tu tập, hành đạo. Như vậy, từ nửa đầu thế kỷ thứ I sau Công nguyên, ở Việt Nam đã có nữ giới xuất gia, trở thành ni sư, đã chứng tỏ Phật giáo tại xứ sở này lúc ấy đã lớn mạnh rồi. Việc cho nữ giới xuất gia, ở Trung Quốc phải nhiều thế kỷ sau mới có.

Cùng thời điểm với Mâu Bác, vào cuối đời Hán Linh Đế (168 - 189), đã có hai vị sư Ấn Độ là Ma ha Kỳ vực và Khâu Đà La đến Luy Lâu (Bắc Ninh). Khâu Đà La (còn gọi là Già la Đồ lê) ở lại Giao Châu, trụ trì chùa Phúc Nghiêm bên bờ sông Thiên Đức, còn Ma ha Kỳ vực lại tiếp tục đi về phương Bắc sang Trung Quốc. Sự nghiệp hành đạo của Khâu Đà La đã được các sách Báo cực truyện (đời Lý), Lĩnh Nam chính quái lục (đời Trần), Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn (giữa thế kỷ XVIII), đặc biệt là truyền thuyết Man Nương có ghi lại, và mộc bản chữ Nôm ở chùa Dâu Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh có nói đến.

Về Khương Tăng Hội, theo sách Lương cao tăng truyện thì ông là người gốc ở nước Khương Cư (vùng Sodian thuộc Udơbếch, Liên Xô cũ). Tổ tiên của ông dời về định cư tại Ấn Độ. Từ Ấn Độ, cha của Tăng Hội sang Giao Châu buôn bán, lấy vợ người Việt và đã sinh ông tại đây. Khi ông 10 tuổi, cha mẹ qua đời, không nơi nương tựa, Tăng Hội mới xuất gia học đạo tại Giao Châu, mà Mâu Bác là vị thầy truyền giới cho ông. Việc này ông có nói trong bài tựa kinh An ban thủ ý. Sách còn cho biết rằng, Khương Tăng Hội rất thông minh, tinh thông tam tạng kinh điển, giỏi chữ Hán lẫn Phạn ngữ nên đã dịch kinh Phạn ngữ sang Hán ngữ. Ngoài kinh An Ban thủ ý, ông còn chú sớ, đề tựa các kinh như Pháp cảnh kinh, Đạo thọ kinh. Ông còn viết Lục độ tập kinhCựu tạp thí dụ kinh. Nhờ danh đức mà ông được vua Trung Quốc mời sang tận kinh đô Kiến Nghiệp của nhà Ngô để giảng kinh (tức Nam Kinh, vùng Giang Nam bây giờ), vào năm Xích Ô thứ 2 (247). Sách Cao tăng truyện đã khẳng định Khương Tăng Hội là vị tăng sĩ đầu tiên xuất hiện ở vùng Giang Nam.

Cùng thời với Khương Tăng Hội và Chi Cương Lương ở thế kỷ III còn có một nhà sư tên là Đạo Thanh (Đạo Hinh). Vị sư này đã cùng Chi Cương Lương dịch toàn bộ Pháp hoa tam muội kinh (Kinh Hoa sen chính pháp) vào năm 255, mà sau này trong sáu bức thư ở thế kỷ V của Đạo Cao và Pháp Minh có đề cập.

Nói thế để khẳng định rằng trước Mâu Bác, Ma ha Kỳ vực, Khương Tăng Hội…, Phật giáo đã tồn tại và phát triển mạnh ở Giao Châu, mà trung tâm Luy Lâu là trụ sở. Lúc này ở Giao Châu đã có danh tăng và tăng đoàn nên hai ông Mâu Bác và Khương Tăng Hội mới có đủ kiện thọ giới, xuất gia tu học và viết sách. Phật giáo Việt Nam từ trung tâm Luy Lâu truyền sang trung tâm Bành Thành và Lạc Dương, Trung Quốc.

Gần cuối thế kỷ thứ II, lúc Sĩ Nhiếp làm Thái thú cai trị nước ta[7], thì ông “Khi ra vào rất uy nghi, chuông khánh, trống kèn, đờn kịch vang, xe ngựa đầy đường. Người Hồ đi theo hai bên xe đốt hương, từng đoàn có đến mấy chục người”. “Người Hồ” ở đây là tiếng người Trung Quốc dùng để chỉ các vị sư người gốc Ấn Độ hay Trung Á. Chi tiết “người Hồ đi theo xe, đốt hương đến mấy chục người”, chứng tỏ lúc này ở Giao Châu đã có tăng đoàn và bản thân Sỹ Nhiếp có lẽ theo đạo Phật nên đi đâu cũng có các nhà sư đi theo. Như vậy, từ cuối thế kỷ thứ II, Phật giáo ở Giao Châu đã cực thịnh. Việc này, sách Ngô chí của Trung Quốc (viết vào đời Hán) mà sau này Nguyễn Đổng Chi trong Việt Nam cổ văn học sử (1942); Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt và lịch sử ngoại giao - tôn giáo đời Lý (1949); Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1 (1972); Lê Mạnh Thát trong Sơ thảo lịch sử Phật Giáo Việt Nam, cảo bản in rônêô, tập 1 (1975); Vân Thanh trong Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam (1975) có dẫn lại.

Sách Hậu Hán thư của Trung Quốc cũng thừa nhận là tăng sĩ từ Giao Châu đến hạ lưu sông Dương Tử bằng đường biển.

Hồ Thích trong “Hồ Thích luận học cận trước” thì cho rằng, vào thế kỷ đầu công nguyên, các tăng sĩ từ Giao Châu đến truyền đạo ở Vũ Châu - Quảng Tây rồi đến Quảng Đông, sau đó vượt núi đi tới miền hạ lưu sông Dương Tử [dẫn lại: Nguyễn Lang, Lê Mạnh Thát, tlđd].

Điều đó, cho phép chúng ta kết luận rằng Phật giáo từ Giao Châu truyền sang Trung Quốc.

Câu chuyện về Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung với chi tiết hai người có buôn bán với nước ngoài, khi thuyền buôn ra khỏi xứ, họ Chử gặp nhà sư Ấn Độ tên là Phật Quang, ông đã mến mộ nên ở lại học đạo, giao vàng bạc cho bạn đi buôn giúp. Khi về đất liền, Chử đã được nhà sư giao cho một chiếc gậy và một chiếc nón lá với lời dặn “có thể làm phép lạ bằng hai vật này”. Một hôm trời tối, Chử Đồng Tử chống gậy và úp nón lá, ngay lậy tức biến thành nhà cho Đồng Tử nghỉ qua đêm. Sau về Giao Châu, Chử giảng giải phép Phật để giáo hóa Tiên Dung, cả hai từ đó bỏ buôn bán tìm thầy học đạo (có tài liệu nói Chử Đồng Tử đi tu tiên). Câu chuyện xảy ra từ cuối thời Hùng Vương. Điều đó cũng có nghĩa là trước công nguyên, người Việt đã tiếp xúc với Phật giáo và đạo Phật đã truyền đến xứ này rồi.

Lại nữa, không phải ngẫu nhiên mà các truyền thuyết, truyện cổ Việt Nam gọi ông Phật là ông Bụt. Từ “bụt” xuất hiện trong ngôn ngữ Việt trước từ “Phật”. Bụt là tiếng phiên âm trực tiếp từ “Budha” của tiếng Phạn. Còn “Phật”, gọi đầy đủ là “Phật đà” là tiếng Hán phiên âm từ “Budha” của tiếng Phạn. Theo quan niệm của quần chúng dân gian, Bụt biết được tâm tư nguyện vọng của tất cả mọi người, trừng trị kẻ ác, giúp người lương thiện. Bụt là vị thần linh có phép lạ, có biến hóa, ban phước trừ họa, v.v.. Trong tiếng Việt từ “Bụt” có trước từ “Phật”, tức Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam sớm hơn là Phật giáo từ Trung Quốc truyền xuống.

Về mặt vị trí địa lí, nước ta nằm ở ngã ba giao lưu trong khu vực và quốc tế. Các thuyền buôn Trung Á, Ấn Độ và các vùng lân cận trước khi đến Trung Quốc đều ghé vào Giao Châu. Các nhà sư đi theo thuyền buôn làm nhiệm vụ cầu an và chữa bệnh. Chính các nhà sư này là người đầu tiên đem đạo Phật vào Việt Nam. Bấy giờ, đạo Phật với tín ngưỡng cầu phúc, cúng tế, tụng kinh, niệm Phật, thọ trì tam quy ngũ giới, chữa bệnh trừ tà… chứ chưa có quy củ, hệ thống, tổ chức như giai đoạn sau. Và hồi ấy, Luy Lâu là nơi giao lưu của ba nền văn hóa (văn hóa Lạc Việt, văn hóa Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ), nên cũng là nơi đầu tiên dịch kinh Phạn ngữ sang Hán ngữ. Chính quyển kinh đầu tiên là kinh Tứ thập nhị chương đã được dịch tại Luy Lâu, sau đó mới được mang sang truyền bá ở Trung Quốc.

Tóm lại, nếu thừa nhận Phật giáo vào Giao Châu sớm hơn Trung Quốc và trung tâm Phật giáo Luy Lâu ở Bắc Ninh đã mở rộng phát triển đến trung tâm Bành Thành, Lạc Dương ở Trung Quốc mà Phật giáo truyền vào Trung Quốc vào năm 68 (nửa cuối thế kỉ I SCN) đời Hán Minh Đế với câu chuyện “Giấc mộng người vàng” thì theo lôgic có thể khẳng định Phật giáo truyền vào Giao Châu từ nửa cuối thế kỉ I trước Công nguyên, nhưng cũng có thể sớm hơn nữa bởi truyền thuyết về Chử Đồng Tử thời Hùng Vương với chi tiết Chử Đồng Tử gặp sư Phật Quang để sau đó ông cùng công chúa Tiên Dung đi tu.

Như vậy, các nhà sư đi theo thuyền buôn là những người đầu tiên đem đạo Phật vào Việt Nam. Còn nếu căn cứ vào truyền thuyết Chử Đồng Tử thì có thể nói sư Phật Quang là một trong những vị sư truyền bá Phật giáo vào nước ta.  

3. Có phải thiền sư Tỳ ni đa lưu chi là người đầu tiên truyền Thiền đạo vào nước ta?

Cũng theo Thiền uyển tập anh, rồi sau này các học giả Trần Văn Giáp, Mật Thể, Hoàng Xuân Hãn qua các tài liệu đã dẫn trên đều xem Tỳ ni đa lưu chi  (Vinitaruci) là người đầu tiên truyền đạo Thiền vào Việt Nam. Ông gốc người miền Nam Ấn Độ, sang Tây Ấn học đạo, sau đó chưa có cơ duyên nên sang Trung Quốc cầu pháp với Tổ thứ ba Tăng Xán, được Tổ ấn chứng. Nghe lời Tổ, thiền sư sang phương Nam hành đạo. Năm 580 ông về trụ trì tại chùa Pháp Vân (Chùa Dâu - Bắc Ninh) dịch kinh Tổng Trì. Năm 594 truyền tâm ấn cho Pháp Hiền rồi tịch [theo Thiền uyển tập anh ngữ lục].

Thực tế lịch sử phát triển Thiền học ở Việt Nam không phải như sách Thiền uyển tập anh ngữ lục đã khẳng định. Theo thiển nghĩ của chúng tôi, Tỳ ni đa lưu chi không thể là người đầu tiên truyền bá đạo Thiền vào Việt Nam, bởi trước Tỳ ni đa lưu chi đến mấy trăm năm, ở Việt Nam đã có nghiều danh sư truyền bá thiền học và pháp môn thiền định như: Khương tăng Hội, Đạo Thiền, Huệ Thắng, v.v..

Khương Tăng Hội khi soạn Lục độ tập kinh và đề tựa kinh An ban thủ ý (do An Thế Cao dịch) thì trong đó đã có đề cập đến thiền học. Kinh An ban thủ ý dạy về phương pháp đếm hơi thở và tập trung thiền quán. Đây là kinh thuộc Tiểu thừa nhưng Khương Tăng Hội đã phô giải theo tinh thần Đại thừa Phật giáo. Còn trong Lục độ tập kinh có nhiều đoạn viết về Thiền quán. Điều này, sách Cao tăng truyện (Trung Quốc) có chép lại lời nói của An Thế Cao: “Cư sĩ Trần Tuệ là người làm tôn giá trị đạo học của tôi, còn tỳ kheo Tăng Hội là người dạy kinh Thiền”. Vì thế, có thể mạnh dạn khẳng định Khương Tăng Hội là người đầu tiên truyền bá Thiền học ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ thứ III. Sau đó, ông mới chống gậy sang Trung Quốc, đến kinh đô Kiến Nghiệp (nước Đông Ngô) truyền bá đạo Thiền ở đây vào năm Xích Ô thứ 2, tức năm 247, được vua Đông Ngô là Tôn Quyền kính phục, bái làm thầy, xây chùa Kiến Sơ để làm nơi giảng thuyết và nơi ở của Khương Tăng Hội cùng tăng chúng được gọi là Phật đà lý (làng của Phật đà).

Nối tiếp sự nghiệp của Khương Tăng Hội, vào thề kỷ thứ V, ở Giao Châu còn có Thiền sư Huệ Thắng. Sách Tục Cao tăng truyện (Trung Quốc) viết vào đời Đường Trinh Quán 654; có ghi tên hai vị Thiền sư ở Giao Châu lúc này là Đạt Ma Đề Bà (Dharma Deva) và Huệ Thắng.

Sách còn chép rằng Đạt Ma Đề Bà là người Ấn Độ, sang Giao Châu truyền đạo giữa thế kỷ thứ V, tức trước ngày Bồ Đề Đạt Ma (Boddhi Dharma) sang Lương (Trung Quốc). Sách Truyền đăng lục của Đạo Nguyên (Trung Quốc) lại viết: Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Quốc vào năm 520, sau khi không thành công với Lương Vũ Đế, ông vượt sông sang Bắc Ngụy rồi quán bích tọa thiền. Sách Tục Cao tăng truyện của Đạo Tuyên (Trung Quốc) thì viết: Ban đầu Bồ Đề Đạt Ma sang đất Nam Việt (vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam ngày nay), sau đó vượt sông sang Ngụy. Như vậy, giả sử nếu Bồ Đề Đạt Ma vào Nam Việt cuối đời Tống (420-447) tức khoảng năm 440 rồi sau đó mới qua nước Lương thì có thể ông sang Trung Quốc đồng thời hoặc sớm hay muộn hơn một ít so với Đạt Ma Đề Bà sang Giao Châu. Có điều tại Bắc Ngụy, Bồ Đề Đạt Ma đã quán bích toạ thiền tại Tung Sơn Thiếu Thất rồi truyền tâm ấn cho Huệ Khả, từ Huệ Khả (đời thứ 2 - dòng thiền Trung Quốc) truyền xuống đến đời thứ 6 cho Huệ Năng, rồi trở nên nổi tiếng, với sự ghi chép các thế hệ truyền thừa cụ thể - một sự ảnh hưởng của Nho gia về phương cách ghi chép lịch sử; còn Đạt Ma Đề Bà truyền bá Đạo Thiền ở Giao Châu lại ít được sử sách nhắc đến: bởi lẽ, Giao Châu bấy giờ bị Bắc thuộc, chỉ là một quận huyện của Trung Quốc, và có lẽ dòng thiền của Đạt Ma Đề Bà ở Giao Châu chỉ chú trọng thực hành, có khuynh hướng thần bí tâm linh, ít chú trọng lập tông phái và ghi chép lịch sử. Tại Giao Châu, Đạt Ma Đề Bà truyền pháp cho Huệ Thắng. Sách Tục Cao tăng truyện ghi “Thích Huệ Thắng (440-477) người Giao Chỉ, trụ trì chùa núi Tiên Châu, vân du khắp nơi, chuyên về kinh Pháp hoa, mỗi khi tu thiền nhập định thì ngày mai mới xả”. Vậy, thiền pháp của Huệ Thắng cũng thuộc thiền Đại thừa như Khương Tăng Hội. Huệ Thắng đắc pháp, được triều đình Trung Quốc mời sang giảng kinh. Ông đến Bành Thành (Trung Quốc) ở chùa U Thê chỉ bày cho đồ đệ chân thể màu nhiệm, mọi người kính trọng, còn các học giả thì khâm phục. Sau đó, ông về ở Diên Hiền tịnh xá ở núi Khế Chung năm 487, rồi viên tịch tại đó.

Ngoài ra, trong thời gian này, còn có một thiền sư nổi tiếng nữa là Đạo Thiền. Đạo Thiền người Giao Chỉ, xuất gia từ thuở nhỏ, giới hạnh tịnh nghiêm, có thể hàng phục được cọp dữ, chuyên về luật học, ông sang Trung Quốc giảng đạo được tứ chúng kính trọng, tịch năm 70 tuổi (tức năm 527) ở Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là ông sinh năm 457 tại Giao Châu vào đầu hạ bán thế kỉ thứ V. Với bấy nhiêu dẫn chứng trên, chúng ta có thể bác bỏ những ý kiến cho rằng thiền học Việt Nam là từ Trung Quốc truyền xuống, do Tỳ Ni Đa Lưu Chi truyền đến khoảng gần cuối hạ bán thế kỉ thứ VI . Thật ra, Thiền học ở Việt Nam đã có ngay từ đầu, cùng thời với Phật giáo khi mới du nhập, mà Khương Tăng Hội đã tu tập, hành trì và ông là người có công lao khởi xướng, phát triển thiền đạo không những ở Việt Nam mà còn sang tận Trung Quốc. Cho nên, ý kiến cho rằng Tỳ Ni Đa Lưu Chi là người đầu tiên truyền bá đạo thiền vào Việt Nam cần phải xem xét lại. Cũng như không thể đồng ý với ý kiến của một số học giả có uy tín ở Trung Quốc khi họ khẳng định rằng “Thiền tông là sản phẩm thuần túy của Phật giáo Trung Quốc[8].

* *

Tóm lại, qua những cứ liệu minh chứng trên, chúng ta có thể rút ra những kết luận sau:

1. Đạo Phật từ Ấn Độ theo đường biển do các nhà sư đi theo thuyền buôn trực tiếp truyền vào Giao Châu sớm nhất là vào nửa cuối thế kỉ thứ I TCN. Việc Chử Đồng Tử cùng Tiên Dung bỏ buôn bán tìm thầy học đạo đi tu; chuyện Bát Nàn phu nhân xuất gia vào sau năm 43 đã là một minh chứng. Những chứng cứ này, dù là truyền thuyết nhưng vẫn còn dấu vết lịch sử lưu lại, cho phép nói rằng Phật giáo vào Giao Châu sớm hơn là vào Trung Quốc. Và từ trung tâm Luy Lâu (Giao Châu), Phật giáo truyền sang trung tâm Bành Thành, Lạc Dương (Trung Quốc). Điều này, các học giả Trung Quốc như Hồ Thích, Phùng Hữu Lan cũng đã thừa nhận.

2. Đạo Phật từ phương Nam Ấn Độ truyền sang nước ta sớm hơn Đạo Phật từ phương Bắc do Trung Quốc truyền xuống. Lớp văn hóa đầu, Phật giáo Thiền tông truyền vào chùa Dâu (Bắc Ninh) và chùa Hương Tích (núi Hồng Lĩnh – Nghệ Tĩnh (Hà Tĩnh ngày nay) – kinh đô cũ của Kinh Dương Vương trên đất Việt Thường, một con đường thỉnh kinh của quận Cửu Chân ngày xưa). Lớp văn hóa này chỉ chú trọng thực hành và có ảnh hưởng lan tỏa trong mạch sống dân tộc hơn là thành lập hệ thống tông phái, có tổ chức, ghi chép lịch sử truyền thừa như lớp văn hóa sau. Còn một khi đạo Phật từ phương Bắc truyền xuống theo đường bộ vào thời Bắc thuộc, được chính quyền phong kiến trung ương cùng các quan lại cai trị địa phương ủng hộ nên có điều kiện bành trướng, mở rộng, lấn át các nhà sư bản địa cùng văn hóa Phật giáo lớp trước truyền sang. Lớp văn hóa sau chủ yếu là Thiền Tông (có kết hợp Mật tông và Tịnh độ tông) với hệ thống kinh điển Hán tạng – một thứ chữ, tiếng đơn âm thích hợp với người Việt hơn là thứ chữ kinh điển bằng tiếng Sançrit, Pali đa âm. Do vậy, lớp văn hóa Phật giáo sau dần dần xóa mờ đi tất cả những gì của đạo Phật lớp trước truyền sang cũng là lẽ đương nhiên.

3. Với công lao cùng vai trò của Tỳ ni đa lưu chi (thế kỷ thứ VI) và sau đó Vô Ngôn Thông (thế kỷ thứ IX) thì Thiền học Việt Nam phát triển mạnh, nhưng trước đó đã lâu, từ cuối nửa đầu thế kỷ thứ III, Thiền học Việt Nam đã được Khương Tăng Hội khởi xướng, không những ở Việt Nam mà còn được truyền bá sang Trung Quốc. Sau đó được kế tục bởi Huệ Thắng (thế kỷ thứ V) rồi Đạo Thiền (cuối thế kỷ thứ V, đầu thế kỷ thứ VI). Điều đó chứng tỏ, nếu Phật giáo Thiền Tông Trung Quốc phát triển mạnh với công lao to lớn của vị tổ sư thứ 28 Bồ Đề Đạt Ma (trở thành sơ tổ Thiền tông Trung Quốc) thì ở Việt Nam, từ thế kỷ thứ III Thiền học theo khuynh hướng Đại thừa đã phát triển rồi. Thiền học Đại thừa Phật giáo ở Việt Nam đã tồn tại và phát triển trước Thiền tông Trung Quốc đến vài thế kỷ. Hơn nữa, Việt Nam hồi ấy còn là cái nôi góp phần truyền bá Thiền học sang Trung Quốc trước khi Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang.

4. Lời cuối

Gần đây, tại Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ 3 (ngày 4 đến 8 tháng 12 năm 2008) ở Tiểu ban Giao lưu văn hóa có một báo cáo Thành Nê Lê – Đồ Sơn thời Asoka của tác giả Đồng Thị Hồng Hoàn và Trịnh Minh Hiên (là 2 chuyên viên đang công tác tại Bảo tảng Thành phố Hải Phòng). Tham luận chỉ nêu vài thông tin về thành Nê Lê, xác định thành này ở Đồ Sơn [thông tin này có khác với ý kiến của Lê Mạnh Thát trong nhiều công trình của ông đã từng đoán định thành Nê Lê ở Bắc Giang?] với những ngôi tháp (stupa) và đoán định niên đại xây dựng thành và tháp từ thời vua Asoka (A Dục đại đế)[9]. Tại Hội thảo này, tôi có phát biểu rằng: “Ở đây, có hai vấn đề cần lưu ý: Một là, có thể các vị sư theo đường biển truyền giáo vào nước ta hồi ấy đã mô phỏng theo kiểu tháp thời vua Asoka (tức A Dục đại đế, trị vì ở Ấn Độ thế kỷ thứ III trước Công nguyên) mà xây lại sau này, tức tháp được xây sau thời đại vua A Dục; Hai là, cũng có thể tháp được các vị sư truyền giáo xây dựng tại nước ta từ thời vua A Dục, tức lúc Phật giáo phát triển cực thịnh tại Ấn Độ, khoảng hai trăm năm sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn. Việc này phải cần đến những chuyên gia khảo cổ mới xác định rõ niên đại. Nếu xác định được thành Nê Lê Đồ Sơn được xây dựng vào thời vua Asoka thì việc này có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định thời điểm Phật giáo truyền vào nước ta có thể sớm hơn nữa, tức vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên chẳng hạn”. Hôm đó, tôi có đề nghị GS. Phạm Đức Dương với tư cách ông là Chủ tịch đoàn, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Nam Á và đang là Chủ tịch Hội Nghiên cứu Đông Nam Á, nên ghi nhận ý kiến đề xuất này để đề nghị Viện Khoa học Xã hội Việt Nam có kế hoạch khảo cổ. Nhưng đó chỉ là giả thuyết. Bởi cần phải khảo cổ thì mới có thể kiểm chứng và xác định được niên đại của tháp Nê Lê ở Đồ Sơn, từ đó mới có thêm chứng cứ để khẳng định thời điểm Phật giáo truyền vào nước ta.

Nha Trang, 1995 - Viết lại và viết  thêm Lời cuối giữa năm 2009.

NCL

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Thiền uyển tập anh ngữ lục, Vĩnh Thịnh năm thứ 11 (1715), ký hiệu A 3144, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

2. Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam des origines au XIIIe siècle, BEFEO, HN, 1932.

3. Mật Thể, Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb Minh Đức, HN, 1941; tb, SG, 1960.

4. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Lá Bối, Paris, 1972; Lá Bối, SG, 1973, Nxb Văn học, HN, tb nhiều lần.

5. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, bản in ronéo, Tu thư Vạn Hạnh, 1976 (sau in thành sách bởi Nxb Thuận Hoá, 1999).

6. Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật giáo Ấn Độ, Quê hương, SG tái bản lần thứ nhì, 1971.

7. Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb KHXH, HN, 1988.

8. Nhiệm Kế Dũ (Dụ), Hán Đường Phật giáo tư tưởng luận, Bắc Kinh xuất bản, 1963, thư viện KHXH Hà Nội ký hiệu Vd 888.

9. Nhiệm Kế Dũ (Dụ), Sơ lược lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb Nhân dân Bắc Kinh, 1973, thư viện KHXH Hà Nội ký hiệu Vd 2025.

10. Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tôn giáo thời Lý, tập 2, Sông Nhị, HN, 1949.



[1] Xin xem:

- Thiền uyển tập anh ngữ lục, Vĩnh Thịnh năm thứ 11 (1715), ký hiệu A 3144, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

- Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam des origines au XIIIe siècle, BEFEO, HN, 1932.

- Mật Thể, Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb Minh Đức, HN, 1941; tb, SG, 1960.

- Viện Triết học, Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, KHXH, HN, 1988.

- Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Lá Bối, Paris, 1972; Lá Bối, SG, 1973, Nxb Văn học, HN, từ 1994 về sau tái bản nhiều lần.

- Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, bản in ronéo, Tu thư Vạn Hạnh, 1976. Về sau in thành sách bởi Nxb Thuận Hoá, 1999.

[2] Về niên đại giáng sinh của Phật Thích Ca Mâu Ni và khởi nguyên của Phật giáo, xin xem “Bàn về Phật lịch” của chúng tôi đã đăng trên Nguyệt san Giác ngộ, số 15, tháng 6-1997 trang 68-70.

[3] Theo nhiều tài liệu thì bấy giờ xã hội Ấn Độ chia thành bốn đẳng cấp:

- Bàlamôn (Brahmana): đẳng cấp tăng lữ, tu sĩ. Đây là những trí thức uyên bác, thống trị con người về tinh thần.

- Sát đế lị (Kasatrya): đẳng cấp vua chúa, quý tộc, võ sỹ. Đây là đẳng cấp nắm chính quyền cai trị.

- Tỳ xá hay Phệ xá (Vaisya): đẳng cấp bình dân gồm thương nhân, nông dân tự do.

- Thủ đà la hay Chiên đà la (Soudra): đẳng cấp lao động nghèo khổ, làm thuê có khi là tiện dân.

- Có vài tài liệu ghi thêm đẳng cấp thứ năm là đẳng cấp Paria (Pariahs): đẳng cấp tôi tớ, nô tỳ, đời đời làm nô lệ.

[4] Hoàng Xuân Hãn “Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tôn giáo thời Lý” (tập 2) chép là Tề Cao Đế. Trong các công trình nghiên cứu của Trần Văn Giáp: “Le Bouddhisme en Annam…”; Mật Thể: “Việt Nam Phật giáo sử lược”; Nguyễn Lang: “Việt Nam Phật giáo sử luận” (t .1); “Thiền uyển tập anh” bản in năm Vĩnh Thịnh 1715 chép là Tùy Cao Tổ.

[5] Bản dịch Thiền uyển tập anh (đánh máy, tổ tư liệu trường ĐHSP Hà Nội), bản dịch Thiền uyển tập anh của Đoàn Thăng đều ghi là Trương Kính Vân. Hoàng Xuân Hãn, tlđd và bản dịch Thiền uyển tập anh của Ngô Đức Thọ ghi là Chương Kính Huy. Bản Thiền uyển tập anh (in năm Vĩnh Thịnh, 1715) chép là Chương Kính Huy.

[6] Theo GS Bùi Văn Nguyên thì hai con đường thỉnh kinh ở nước ta thời bấy giờ là:

- Chùa Dâu (Luy Lâu - Bắc Ninh) qua Ninh Bình hoặc Hòa Bình và miền trên Thanh Hóa, sang Sầm Nưa (Lào). Từ Sầm Nưa đi Tích Lan, Ấn Độ con đường thỉnh kinh của quận Giao Chỉ cũ.

- Chùa Hương Tích (Nghệ Tĩnh) đi Linh Cảm qua Na Phê (Lào). Từ Lào đi Tích Lan, Ấn Độ. Con đường thỉnh kinh của quận Cửu Chân cũ.

[7] Sĩ Nhiếp người đời Đông Hán, làm Thái thú quận Giáo Chỉ từ năm 187 sau Công nguyên.

 

[8] Theo Nhiệm Kế Dũ (Dụ) “Hán Đường Phật giáo tư tưởng luận”, Bắc Kinh xuất bản, 1963, và “Sơ lược lịch sử triết học Trung Quốc”, Nxb Nhân dân Bắc Kinh, 1973, trang 341; (thư viện KHXH Hà Nội ký hiệu Vd 888; Vd 2025)

[9] Một vị vua hùng mạnh cai trị vùng phương bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 3 TCN, sau đó chinh phục các vương quốc khác ở toàn cõi Ấn Độ, là người có công xiển dương Phật giáo, ủng hộ việc kết tập kinh điển lần thứ ba, làm cho Phật giáo phát triển không chỉ tại Ấn Độ mà còn truyền bá sang các nước lân cận trong khu vực lúc bấy giờ. 

Bài viết cùng tác giả

Danh mục website