Khúc ngâm Viếng bạn bằng chữ Nôm của một nữ sĩ họ Nguyễn (sưu tầm tại huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang)

(NGUYỄN ĐÔNG TRIỀU, TC Hán Nôm, số 1, năm 2013)

              Năm 2011, với dự án thành lập Phòng nghiên cứu và sưu tầm di sản Hán Nôm do ĐHQG TP.HCM cấp kinh phí, Bộ môn Hán Nôm thuộc Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã triển khai sưu tầm đợt 1 tại Nam bộ. Tuy chưa đủ điều kiện và khả năng sưu tầm diện rộng ở tất cả địa bàn, nhưng kết quả đạt được vô cùng phong phú. Đó là một số lượng lớn văn bản Hán Nôm thuộc các lĩnh vực: văn, sử, triết, tôn giáo, bói toán, y học… với nhiều thể loại: câu đối, hoành phi, sắc thần, văn tế, văn bia, gia phả, thơ phú…

Chắc chắn đây là kho tàng văn hoá vô giá của Nam bộ nói riêng và cả nước nói chung, phải có kế hoạch bảo quản và khai thác triệt để. Vẫn biết đây không phải là việc có thể thực hiện trong một sớm một chiều, nhưng chúng tôi cũng quyết tâm và cố gắng trong mọi điều kiện để nhanh chóng hiện thực hoá giá trị của di sản Hán Nôm ấy. Bước đầu chúng tôi tiến hành công tác xử lý văn bản, nghiên cứu, phiên dịch, chú thích một số văn bản tiêu biểu và giới thiệu dần đến quý vị độc giả gần xa có lòng quan tâm đến di sản Hán Nôm và văn hoá dân tộc.

Tại huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang, chúng tôi sưu tầm được bằng cách sao chụp một số sách của cụ đồ Tư Mậu, nhà ở ven sông Cái Cối xã An Hữu, đối diện đình thần An Hữu (đình Rạch Chanh), từ đình đi qua khoảng 10 phút đò ngang. Trong đó có một tuyển tập thơ văn tuy mất trang bìa, không tìm thấy tên người tuyển soạn và niên đại (vấn đề này chúng tôi có trình bày thêm ở phần sau), nhưng thể loại đa dạng, nội dung cũng rất đáng chú ý. Tập sách có tổng cộng 210 trang giấy dó viết tay, mỗi trang 8 cột, số chữ mỗi cột nhiều ít không đều, nhìn chung khoảng từ mười mấy chữ tới 30 chữ, với khoảng 250 đơn vị bài và câu đối. Về thể loại, trừ 20 trang đầu ghi chép về bói toán, coi tướng, còn lại là thơ (kể cả ca, ngâm, vịnh), thư (thư từ), phú, biểu, điếu tế, hát nói, đối liên, văn phổ khuyến, bài nói (bài phát biểu bằng văn xuôi)… Ngoại trừ một số bài của các tác giả Hồ Xuân Hương 胡 春 香, Nguyễn Công Trứ 阮 公 著 (1778 - 1858), Nguyễn Văn Thành 阮 文 誠, Nguyễn Khuyến 阮 勸 (1835-1909), Nguyễn Huy Khôi 阮 輝 瑰, Phạm Như Xương 范 如 昌 (1844 - 1917), Chu Mạnh Trinh 朱 孟 楨, Vũ Khắc Tiệp 武 克 捷, Đoàn Như Chương 段 如 璋, Lan Đình 蘭 亭, Nguyễn Ngôi 阮 隗, Trần Văn Cửu 陳 文 九, Phạm Vũ Toàn 范 武 全… mỗi tác giả 1 bài, riêng Vũ Khắc Tiệp 5 bài, thì đa số phần còn lại không ghi tên tác giả, có thể trong số những bài không ghi tên tác giả có một số bài do chính người tuyển soạn tập sách sáng tác (xem thêm mục 3 phần nhận xét). Tập sách chủ yếu viết bằng chữ Nôm tương đối dễ đọc, trừ một số trang cuối hơi khó đọc (có thể do người khác viết thêm vào)(1).

Trong tập sách những thể loại chiếm số lượng nhiều gồm:

1. Thơ: Chiếm số lượng nhiều nhất, tạm chia thành các nhóm tiêu biểu sau:

- Vịnh cảnh vật: Vịnh Tam Điệp ải thi, Chơi chùa Hương Tích ngâm đề, Vịnh chùa Trầm, Lên lầu Trấn Vũ hoài cổ (Phạm Vũ Toàn), Thượng thư Nguyễn Tư Giản đề Phát Diễm/ Diệm Lý Sơn thi, Cảnh Hồ Tây bên thành Hà Nội, Kiếm Hồ hoài cổ (Trần Văn Cửu), Nhớ cảnh Cao Bằng (Lan Đình), Trẩy chùa Hương, Chợ trời (tại Sài Sơn)…

- Chủ đề bốn mùa: Ngày xuân chơi núi, Đưa xuân, Hoa xuân thi, Xuân tàn, Thu tiêu cảm tác, Thu đề, Vào hạ, Mưa hạ…

- Thơ tự thán: Thơ than nghèo (theo điệu liên hoàn, Nguyễn Công Trứ), Tự trào, Tự vịnh, Tự thuật, Khí phụ tự thán, Bài thơ tự tình, Nỗi mình, Bài ngâm chơi, Thơ tình (chữ Hán)…

- Năm bài thơ ghi tên tác giả là Vũ Khắc Tiệp: Thơ Hai Bà Trưng, Bà Triệu Ẩu, Cảm hoài, Lữ du cảm hứng, Cảnh đi chơi núi.

- Một số bài tống tiễn, xướng hoạ và các chủ đề khác: Hoạ thơ đi rừng, Hoạ thơ tiễn biệt, Biệt bạn ra về, Đánh tổ tôm, Chơi thuyền nhớ bạn, Qua cảnh cũ nhớ người xưa, Tặng bạn làm Thông phán, Vịnh hoa thuỷ tiên (quan Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh soạn)…

2. Thư: Đại nghĩ thứ tử ký huynh như Tây thư, Đại nghĩ trưởng hôn Vũ thị Hà phu như Tây thư (Bào đệ Nguyễn Huy Khôi kính thư), Thư của quan Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền gửi cho quan Thám hoa Vũ Phạm Hàm, Ông Thám Hàm đáp lời ông Hoàng Hiền…

3. Ai điếu: Tế thân mẫu tiểu tường văn, Đại nghĩ Thanh Hoá Tùng Chính Nguyễn tộc khấp kế Tổ mẫu trướng văn, Bài văn con gái tế mẹ, Bài điếu tang của quan Thiếu Hà Thúc, Thân mẫu đại tường tế văn, Xuân hồi Hàn lâm viện Kiểm thảo Cử nhân Phạm tiên sinh thân mẫu quyên trần môn sinh bái vãn văn, Tiền quân tế tướng sĩ văn (Nguyễn Văn Thành), Văn tế hết tang chồng người Hà Nội (Cử nhân Đoàn Như Chương soạn), Bài kính viếng một ông quan người Pháp, Văn tế Nguyệt Lão…

4. Phú: Thế tục phú (chữ Hán), Bài phú thầy đồ ngông (Tam nguyên Yên Đổ 三 元 閼 堵 soạn), Bài phú gái lỡ thì, Phú được đồng tỉnh bán thuốc hoa cầu nhuộm thâm(?)…

5. Đối liên: Câu đối Tam nguyên Yên Đổ khóc vợ, Câu đối tết, Các câu đối khóc người thân qua đời, Các câu đối viếng ông Cử nhân báo quán Phan Kế Bính, Các câu đối viếng cụ Giáo thọ Nguyễn Bá Học ở Nam Định, Các câu đối Thiên Trì Tú tài Phạm Hạ chúc thọ, Các câu đối Kim Sơn Huyện doãn Ngô công được ban sắc, Các câu đối mừng hôn sự, Hùng Vương miếu đối, Những câu đối viếng ông Phan Tây Hồ (trong năm Bính Dần niên hiệu Bảo Đại 保 大)…

6. Hát nói: Hát nói (chữ Hán, trang 49), Bài hát nói em gửi cho anh ở ngoại quốc (đại nghĩ thứ tử Nguyễn Ngôi), Ngự giá bắc du, Hát nói (trang 111)…

Về niên đại, dựa vào các hiện tượng và nhân vật được nhắc đến qua một số tác phẩm như chữ thời 時 được viết là 辰 kỵ huý vua Tự Đức (1829 - 1883), mấy câu đối viết vào năm Bính Dần niên hiệu Bảo Đại (1926), báo Nam Phong (1917-1934); Phạm Quỳnh (1892 - 1945), Nguyễn Văn Vĩnh (1882 - 1936)…, chúng tôi suy đoán tập sách ra đời muộn, khoảng nửa đầu thế kỷ 20, đến muộn nhất là 1945 (vì còn kỵ huý vua nhà Nguyễn)(2). Mặc dù ra đời muộn, nhưng trong thời buổi chữ Hán chữ Nôm suy tàn mà vẫn còn người có tấm lòng thiết tha yêu chuộng, gìn giữ, sao chép, sáng tác bằng thứ văn tự cổ của cha ông thì tấm lòng ấy thật sự rất đáng được trân trọng; hơn nữa, về lâu dài, đây sẽ là một tập sách có giá trị văn hoá, lịch sử vô cùng to lớn đối với các thế hệ mai sau. Trên tinh thần ấy, chúng tôi cũng trân trọng chọn phiên âm, chú thích, nhận xét một tác phẩm chữ Nôm của nữ giới trong tập sách mà chúng tôi tâm đắc: khúc ngâm Viếng bạn 咏伴 (trang 134 - 137, xem phụ lục 1: “Bản Nôm”).

VIẾNG BẠN (VĂN NỮ GIỚI)

Kiếp hồng nhan có mong manh,

Nửa chừng thoắt đã gẫy cành thiên hương.(3)

Được tin bạn mất, xiết nỗi kinh hoàng:

Than ôi cùng kiếp má hường,

Kẻ còn người khuất can trường(4) như châm.

Những khi gió bấc mưa dầm,

Nào ai là kẻ đồng tâm chuyện trò?

Đã hay rằng:

Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử!(5)

Ai mà tránh được luật hoá sinh(6)!

Dầu phú quý như ai, hiển hách như ai, lầu hồng gác chói như ai, cũng không sao khỏi được,

Nữa là chị em mình đào thơ liễu yếu, tấm thân hèn mọn chốn nhân gian.

Nhưng tiếc cho:

Đoá hoa chưa nở đã vội tàn,

Đời người nghĩ khóc than khôn kể xiết.

Ngoài hai mươi cũng là một kiếp,

Kiếp tài danh oan nghiệt thế ru mà.

Thương thay cho bạn:

Phong trần mấy độ,

Sương tuyết một thân.

Có khi tưởng thoát khỏi nợ nần,

Mà hưởng cuộc thanh nhàn vui thú.

Ai ngờ số còn nặng nợ,

Tình sắt cầm(7) bỗng hoá Sâm Thương(8).

Lênh đênh mệnh bạc,

Đau đớn gan vàng.

Hỏi Hoá công(9) sao nỡ phũ phàng chi quá độc?

Thôi thì thôi!

Liều mặt phấn để chọn người tri kỷ,

Đem mắt xanh mà xem cuộc hý trường(10).

Đàn tỳ bà dạo khúc bến Tầm Dương(11),

Khách Tư Mã những vấn vương tình gặp gỡ(12).

Cung đàn vừa lựa, phút đà dây đứt phím long;

Nhịp phách(13) mới ươm, bỗng chốc gương tan trâm gẫy(14).

Kiếp phù sinh(15) trông thấy thấy mà đau.

Bạn bình sinh hay có vẻ buồn, không những buồn vì thân thế cảnh ngộ, mà lại buồn vì thế thái nhân tình.

Ôi!

Thân thế cảnh ngộ, bèo bọt lênh đênh;

Thế thái nhân tình, trắng đen thay đổi.

Như thế:

Dẫu có trơ gan cùng tuế nguyệt(16),

Cũng phải cau mặt với tang thương(17).

Bạn cùng ta vốn người đồng điệu,

Tình yêu thương ruột héo gan khô.

Thương thay cho bạn, người như thế mà mệnh bạc ru?

Mới không ngày nào mà đã ra người thiên cổ ru?

Than ôi!

Trời tình mờ mịt, bể giận mênh mang.(18)

Cùng nhau sum hợp, phút đã âm dương.

Kẻ còn người khuất, xót nghĩa tơ vương.

Sanh ly tử biệt, trăm thảm ngàn thương.

Đã đành:

Trăm năm giấc mộng, như thế là an.

Nhưng thảm cho hai mươi mấy tuổi đầu, mưa dập sóng vùi, chừng trải bao phen lận đận, kiếp tài tình ôm giận để ngàn thu.

Thôi thì thôi!

Lá đã lìa cành, nói thêm tủi mà khóc càng thêm tủi;

Hồn không phụ xác(19), hỏi chẳng thưa mà gọi cũng chẳng thưa.

Giờ đây vĩnh biệt, gọi là mấy tiếng ô hô:

Đồng không mông quạnh mịt mờ,

Kìa mộ ai đó, là mồ hồng nhan.

Mộ hồng nhan một làn cỏ mọc,

Khách qua đường ai khóc ai than?

Gió đông hiu hắt canh tàn,

Mây trời vơ vẩn, trăng ngàn thờ ơ.

Những buồn bã gió trưa mưa sớm,

Lại lạnh lùng tuyết sáng sương chiều.

Rì rầm dế khóc ve kêu,

Ấy ai vẽ cảnh đìu hiu chốn này?

Hồn kẻ khuất có hay chăng nhẽ,

Bóng người đời đến thế là thôi.

Khóc than, than khóc sụt sùi,

Cõi trần bao(20) lại thấy người cửu nguyên(21)?

(Nguyễn thị mỗ)

Một vài nhận xét:

1. Khúc ngâm trích dùng nhiều câu hoặc mượn ý (tạm gọi là dùng điển) từ một số tác phẩm nổi tiếng của Việt Nam, đôi khi có sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh thực tại. Chúng tôi điểm lại và có đôi lời phân tích như sau:

- Hai câu đầu được mượn từ Kim Vân Kiều tân truyện 金 雲 翹 新 傳 của Nguyễn Du 阮 攸 (1766? - 1820), chỉ khác ở chỗ, trong Truyện Kiều câu thứ 2 là “Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương”, còn trong khúc ngâm này là “Nửa chừng thoắt đã gẫy cành thiên hương”. Hai câu trong Truyện Kiều là lời kể của Vương Quan về nàng Đạm Tiên có sắc có tài nhưng bạc mệnh, đến cả tấm thân sau khi vùi chôn dưới lòng đất lạnh chẳng có người hương khói. Dụng ý của tác giả khúc ngâm khi đưa hai câu này vào đầu tác phẩm là ngay từ đầu gợi cho người đọc sự liên tưởng về một “nguyên mẫu” của nàng Đạm Tiên, vừa dự báo, vừa gây cho người đọc tâm trạng xót thương, đồng cảm về một cuộc đời bất hạnh. Tác giả đã thành công với cách làm này vì nó đã tạo ra hiệu ứng đặc biệt cho quá trình tiếp nhận tác phẩm. Nói thêm rằng, chữ “đã” được thêm vào ở đây không đơn thuần thể hiện sự việc thuộc về quá khứ, nó còn mang vai trò quan trọng thể hiện dụng ý của tác giả là nhấn mạnh sắc thái của nội dung lời trần thuật, cho thấy sự việc quá đỗi bất ngờ và dường như vừa mới xảy ra trước mắt, còn in đậm trong tâm trí tác giả.

- Câu “Cung đàn vừa lựa, phút đà dây đứt phím long” mượn ý từ bản Nôm Chinh phụ ngâm khúc 征 婦 吟 曲 của Đoàn Thị Điểm 段 氏 點 (1705-1748) “Sắt cầm gượng gảy ngón đàn, dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”. Hai câu trong Chinh phụ ngâm khúc miêu tả sự xa cách vợ chồng và tâm trạng cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ. Mượn ý từ Chinh phụ ngâm khúc, kết hợp với câu “Nhịp phách mới ươm, bỗng chốc gương tan trâm gẫy”, tác giả than thở về nỗi bất hạnh của bạn mình có một cuộc hôn nhân đầy trắc trở. Về ý này xin xem thêm ở mục 2 phần nhận xét.

- Câu “Kiếp phù sinh trông thấy thấy mà đau” được mượn từ Cung oán ngâm khúc 宮 怨 吟 曲 của Nguyễn Gia Thiều 阮 嘉 韶 (1741-1798) “Tuồng ảo hoá đã bày ra đấy, kiếp phù sinh trong thấy mà đau”. Hai cuộc đời khác nhau nhưng cùng số phận ba chìm bảy nổi. Người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc chôn vùi tuổi xuân trong thâm cung tuyệt vọng, tuy còn sống nhưng khác nào đã chết, cuộc sống của nàng bi kịch hơn cái chết. Còn cô gái ở đây đã thực sự chôn vùi dưới mộ, hoàn toàn thoát khỏi nợ trần, để lại nỗi đau cho người còn sống. Chiêm nghiệm lẽ đời từ những “kiếp phù sinh”, không chỉ thông qua Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm khúc…của đời xưa, mà còn được chứng kiến ngay trước mắt, tác giả đã lựa chọn câu rất đắt này thể hiện nhiều ý nghĩa: tác giả - cũng là một cô gái trẻ - nhớ tiếc người nay, thương xót người xưa, và lo lắng cho cả bản thân mình.

- Hai câu “Dẫu có trơ gan cùng tuế nguyệt, cũng phải cau mặt với tang thương” được sửa lại từ hai câu trong Thăng Long thành hoài cổ 昇 龍 城 懷 古 của Bà Huyện Thanh Quan 婆 縣 清 觀 (? - ?) “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, nước còn cau mặt với tang thương”. Bà Huyện Thanh Quan sống trong một thời đại đầy biến động, liên tiếp diễn ra những cuộc tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn, Tây Sơn-Nguyễn Ánh. Tuy nhiên, dù thời cuộc có đổi thay như tấn tuồng trên sân khấu (“Tạo hoá gây chi cuộc hý trường”-Thăng Long thành hoài cổ), thì đá, nước, mọi thứ thuộc tự nhiên vẫn không bao giờ thay đổi. Trước sự tồn tại vĩnh hằng của tự nhiên, mọi thứ tranh giành, được mất thuộc thế giới con người trở nên giả tạm và thoáng chốc, từ đó con người được thức tỉnh hơn. Hai câu này trong Viếng bạn đổi lại là “Dẫu có…, cũng phải…” càng nhấn mạnh con người dù mạnh mẽ đến đâu (“trơ gan cùng tuế nguyệt”) cũng vô cùng nhỏ bé, bất lực và chấp nhận trước quy luật vô thường của vũ trụ (“cau mặt với tang thương”). Đồng thời, ở phạm vi rộng hơn, câu này còn thể hiện rõ mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, giữa sự sống và cái chết.

- Câu “Trời tình mờ mịt, bể giận mênh mang” được dịch từ câu Hán văn trong Thanh Tâm Tài Nhân thi tập tự 青 心 才 人 詩 集 序) của Chu Mạnh Trinh (1862-1905). Kim Vân Kiều truyện đề từ có đoạn 嗟 乎!小 謫 風 塵,幾 遭 魔 孽。情 天 浩 渺,恨 海 滄 茫。隨 風 之 絮 何 依,墜 悃 之 花 無 賴。“Ta hồ! Tiểu trích phong trần, kỷ tao ma nghiệt! Tình thiên hạo diểu, hận hải thương mang! Tuỳ phong chi nhứ hà y, truỵ khổn chi hoa vô lại!” (Than ôi! Gió bụi một phen, nổi chìm mấy độ! Trời tình mờ mịt, biển hận mênh mang! Tơ mành theo gió cuốn bay, hoa rụng tuỳ cơn trôi dạt). Nếu Chu Mạnh Trinh viết lời tựa với mục đích là, dù rằng “chuyện ngàn xưa khá còn áo não”, nhưng cũng vì “cảm thông cho người đồng điệu” (Thanh Tâm Tài Nhân thi tập tự), thì Viếng bạn không chỉ là “chuyện ngàn xưa” với người ngàn xưa, mà là chuyện ngàn xưa ứng ở người hiện tại, và cũng không chỉ có “con người cảm thông” mà là con người vừa cảm thông vừa đớn đau trước nỗi mất mát vô cùng to lớn. Chẳng thế mà tiếp sau câu này, tác giả còn viết ra những câu “Cùng nhau sum hợp, phút đã âm dương; Kẻ còn người khuất, xót nghĩa tơ vương; Sanh ly tử biệt, trăm thảm ngàn thương” đầy ai oán.

- Câu “Cõi trần bao lại thấy người cửu nguyên” được sửa lại từ một câu trong Truyện Kiều “Minh dương đôi ngả chắc rồi, cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên”. Trong Truyện Kiều, khi nghe tin Thuý Kiều trầm mình ở sông Tiền Đường, ngỡ nàng đã chết thật, cả nhà họ Vương cùng Kim Trọng lập đàn tràng bên sông làm lễ chiêu hồn và giải oan cho nàng. Nhưng may gặp sư Giác Duyên bảo nàng còn sống đang tá túc chốn Phật môn. Cuộc trùng phùng giữa người còn sống với “người cửu nguyên” hạnh phúc khôn tả, niềm vui không ngờ mà lại có. Còn trong Viếng bạn thì người bạn đã thật sự trở thành “người cửu nguyên”, không bao giờ có cảnh trùng phùng với người đã chết. Tuy biết là vậy, nhưng lòng tiếc nhớ khiến tác giả lúc nào cũng ôm ấp một niềm ước mơ cháy bỏng nhưng tuyệt vọng: “Cõi trần bao lại thấy người cửu nguyên”. Tác giả thật tài tình, chỉ đổi thành một chữ “bao” (biết đến bao giờ) mà cả ý lẫn tình hoàn toàn thay đổi.

            Có thể thấy, một trong những điểm đặc biệt của Viếng bạn là dùng nhiều điển trong văn chương Việt Nam, khác với nhiều tác phẩm trước đó chủ yếu dùng điển trong văn chương Trung Quốc. Nhìn chung, các điển trên đều là trích dùng câu hoặc mượn ý từ những tác phẩm của phụ nữ (Thăng Long thành hoài cổ, Chinh phụ ngâm khúc) hoặc nói về phụ nữ (Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Kim Vân Kiều truyện đề từ). Điều này phù hợp với nội dung của khúc ngâm là nói về nỗi bất hạnh của người bạn gái và tình cảm xót thương, tâm trạng đồng cảm của nữ tác giả dành cho bạn thân.

            2. Những chi tiết miêu tả về hoàn cảnh của người bạn cho ta thấy người bạn đã lập gia đình nhưng [có lẽ] bị chồng phụ bạc. Chúng tôi tạm dùng từ “có lẽ” vì điều này chưa thật chắc chắn lắm. Tác giả của khúc ngâm chưa biết chính xác là ai, chỉ biết là một cô gái họ Nguyễn (阮氏某), nên người bạn được nhắc đến trong tác phẩm cũng hoàn toàn là một ẩn số, đương nhiên hoàn cảnh của người bạn ấy chúng ta chỉ có thể dựa vào tác phẩm mà suy đoán. Những câu “Khách Tư Mã những vấn vương tình gặp gỡ”, “Liều mặt phấn để chọn người tri kỷ”, “Cung đàn vừa lựa, phút đà dây đứt phím long; Nhịp phách mới ươm, bỗng chốc gương tan trâm gẫy” dường như diễn tả lại chặng đường tình đầy trắc trở của cô bạn gái: gặp gỡ, yêu thương, hôn nhân, tan vỡ. Bất hạnh hơn, sự tan vỡ ấy là do bị người chồng phụ bạc, cho nên, tiếp sau những câu trên, tác giả lại nói rõ “bạn bình sinh hay có vẻ buồn” vì “thế thái nhân tình trắng đen thay đổi”. Cuộc đời của cô bạn gái là một “kiếp tài danh” mang nhiều “oan nghiệt”: thân phận bèo bọt lênh đênh, hôn nhân đổ vỡ, yểu mệnh. Nên đành “ôm giận để ngàn thu”. Thật đúng là “hồng nhan bạc mệnh”, “tài mệnh tương đố”.

            3. Về văn tự, hai chữ “sụt sùi” (khóc than than khóc sụt sùi) ở cuối bài không phải viết bằng chữ Nôm mà được ghi hẳn bằng chữ quốc ngữ. Sau khi xem qua toàn bộ tập sách, chúng tôi thấy một số chỗ tác giả có chua thêm chữ quốc ngữ bên cạnh chữ Nôm khó đọc như “nhoẹt nhoè” (悅齊), “dầm dìa” (淋洟), “rườm” (霪) giúp tiện lợi hơn cho người đọc. Chỉ còn lại một trường hợp được ghi bằng chữ quốc ngữ tương tự “sụt sùi” là “rác rảnh”, trong bài Khóc bạn, trang 206. Có thể những chữ này tác giả không biết viết như thế nào nên đành phải ghi bằng chữ quốc ngữ, mặc dù đây không phải là những chữ Nôm quá khó. Chi tiết này một lần nữa cho thấy tập sách ra đời vào khoảng nửa đầu thế kỷ 20, khi chữ quốc ngữ đã được sử dụng phổ biến; người tuyển soạn là một trí thức tân thời, không rành chữ Nôm như các bậc tiền bối nhưng quyết chung tay gìn giữ, phát huy một di sản văn hoá - tinh thần quý báu của dân tộc; và cũng có thể chứng tỏ một điều, Viếng bạn (và cả Khóc bạn) là tác phẩm sáng tác của người tuyển soạn tập sách này chứ không phải là tác phẩm sưu tầm của người khác.

Chú thích

(1) Vài trang cuối có nét chữ khác những trang đầu, có thể do người khác viết vào sau (xem phụ lục 2).

(2) Từ chú thích (1) không loại trừ trường hợp có người chép thêm sau năm 1945, nhưng chắc chắn chỉ là thiểu số.

(3) Những câu in nghiêng là được trích dùng hoặc mượn ý từ một số tác phẩm nổi tiếng của Việt Nam. Những câu này chúng tôi có điểm lại và có đôi lời phân tích ở phần nhận xét.

(4) Can trường: Gan ruột, lòng dạ.

(5) Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử: Người đời xưa nay ai tránh được cái chết. Câu này mượn từ bài Quá Linh Đinh dương của Văn Thiên Trường đời Nam Tống: “Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh” (Xưa nay hỏi có ai không chết, chết để lòng son rạng sử xanh). Hai câu này cũng được Nguyễn Công Trứ dùng trong bài Chí nam nhi.

(6) Hoá sinh: Quy luật biến hoá và sinh sản của vạn vật (Dịch). Nhà Phật cũng cho rằng, vạn vật trên đời có thành không, không hoá có. Ở đây ý nói, con người phải tuân theo quy luật thành trụ hoại không.

(7) Sắt cầm (cầm sắt): Đàn cầm và đàn sắt được dùng đánh hoà âm với nhau, nên thường dùng chỉ cảnh vợ chồng êm ấm, hoà hợp.

(8) Sâm thương: Sao Sâm (sao hôm) và sao Thương (sao mai), là tên gọi khác của sao Kim. Nói sự cách biệt, không gặp được nhau như sao Sâm sao Thương không bao giờ cùng xuất hiện trên bầu trời.

(9) Hoá công: Thợ tạo hoá. Xưa cho trời đất như người thợ làm ra vạn sự vạn vật trên thế gian.

(10) Hý trường: Sân khấu, nơi diễn tuồng hết lớp này đến lớp khác. Ví cuộc đời như một lớp tuồng diễn trên sân khấu.

(11) Bến Tầm Dương: Sông Tầm Dương thuộc huyện Cửu Giang tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc), nơi Bạch Cư Dị tiễn khách và sáng tác bài Tỳ bà hành nổi tiếng.

(12) Khách Tư Mã: Tư Mã Tương Như đời Hán đến chơi đất Lâm Cùng, soạn khúc Phụng cầu hoàng để tỏ tình với Trác Văn Quân.

(13) Nhịp phách: Phách là một loại nhạc cụ dùng để đánh nhịp khi hát.

(14) Gương tan trâm gẫy: Cũng như “bình rơi trâm gẫy”, ý nói việc đã thành nhưng bỗng dưng gẫy đổ, có làm cũng như không.

(15) Kiếp phù sinh: Đời người bấp bênh vô định như vật nổi trên mặt nước.

(16) Tuế nguyệt: Năm tháng.

(17) Tang thương: Dâu bể. Nói tắt từ “Thương hải tang điền” (Biển xanh biến thành ruộng dâu). Ý nói cuộc đời luôn biến đổi.

(18) Câu “Trời tình mờ mịt, bể giận mênh mang” dịch từ câu chữ Hán trong Kim Vân Kiều truyện đề từ của Chu Mạnh Trinh: “Tình thiên hạo diểu, hận hải thương mang.” Có người dịch “Trời tình u uất, biển hận vơi đầy” (Phùng Tất Đắc), “Trời tình bát ngát, bể hận mênh mang” (Đái Đức Tuấn và Đàm Quang Thiện). (Theo www.thivien.net > Thơ > Việt Nam > Chu Mạnh Trinh > Vịnh Kiều)

(19) Hồn không phụ xác: Hồn không còn nương vào xác, ý nói đã chết.

(20) Bao: Khi nào.

(21) Cửu nguyên: Một vùng đất thuộc tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc), thời Xuân Thu được dùng làm chỗ an táng các quan Khanh và quan Đại phu nước Tần, người đời sau dùng “cửu nguyên” chỉ những nơi mộ địa nói chung, hoặc chỉ cửu tuyền, tức âm phủ.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Bản Nôm Viếng bạn (đọc theo hàng dọc từ phải qua trái)

 

 

 

 

 

 

Bài viết cùng tác giả

Danh mục website