Từ khoảng thế kỷ XVII trở đi, truyện thơ trở thành thể loại văn học chủ đạo tại khu vực Đông Nam Á. Nhận định về điều này, Nguyễn Tấn Đắc nói: “Đến những thế kỉ XVII, XVIII, XIX, nền văn học viết truyền thống đạt đến đỉnh cao của nó. Ở Việt Nam xuất hiện Truyện Kiều và hàng loạt tác phẩm khác. Ở Lào có Xỉn Xay và nhiều truyện thơ. Ở Thái có Khủn Cháng Khủn Phẻng, Aphaymani. Ở Inđônexia có hàng loạt Hikayat, Sjair.”[1]. Một điều có thể dễ dàng nhận thấy là truyện thơ Thái Lan đã bắt kịp dòng chảy văn học của khu vực và phát triển mạnh qua rất nhiều thành tựu như: Ramakien, Inao, Phra Lo, Sang Thong, Chanthakhorop (Mora), Krai Thong, Nàng Kaeo mặt ngựa, Khun Chang Khun Phaen, Phra Abhai Mani…
Truyện thơ Thái Lan phát triển mạnh bắt nguồn từ ba lý do chính: thứ nhất, kho tàng các câu chuyện cổ ở Thái vô cùng phong phú; thứ hai, sự chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn học Ấn Độ từ nguồn đề tài cho đến phương thức sáng tác; thứ ba, sự quan tâm đặc biệt của các vị vua Thái Lan trong việc xây dựng nền văn học của vương quốc. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu hai trong số các đặc điểm quan trọng và có tác động qua lại mật thiết của truyện thơ Thái Lan: đặc điểm dân gian và đặc điểm cung đình.
[1] Nguyễn Tấn Đắc (1983), Văn học các nước Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á, Hà Nội, tr. 12
Xem toàn văn ở file đính kèm.