20042024Sat
Last updateFri, 19 Apr 2024 10am

Studies on Vietnamese and Korean Literature and Films

Vietnamese Literature

Sinology & Nom

Theater and Film

Linguistics

Vietnamese Folk Culture

Literary Theory & Criticism

Foreign Literatures & Comparative Literature

Lu Khe and the First Article Introducing Japanese Literature in Cochinchina

Sunday, 19 September 2021  |  Võ Văn Nhơn, Ngô Trà Mi

Lu Khe and the First Article Introducing Japanese Literature in Cochinchina

PGS.TS/ Assoc.Prof., Ph.D...

Loading...

Education

Dao Duy Anh – An erudite scholar and a respected educator

Dao Duy Anh – An erudite scholar and a respected educator

Saturday, 25 June 2016  |  Khoa Văn học

Abstract

Scholar and educator Dao Duy Anh had made outstanding contribution to our national culture. ...

Loading...

Vietnamese Cultural Links

Văn học Việt Nam ở Nhật Bản

Tuesday, 08 November 2016  |  KAWAGUCHI KEN’ICHI, Đoàn Lê Giang dịch

KAWAGUCHI KEN’ICHI

                     ...

Loading...

BA, MA, PhD. Theses

Narrative Art in Southern Novels before 1932

Narrative Art in Southern Novels before 1932

Tuesday, 21 February 2017  |  Phan Mạnh Hùng

(Summary)

Research Focuses and Expectations :

The studies the narrative art - the art of telling a stor...

Loading...

Calligraphy Club

Thu hứng

Thu hứng

Friday, 03 June 2016  |  Đỗ Phủ

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, 
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu s&a...

Loading...

Văn học Hà Tiên

(VH-NN) Vào ngày 12.9.2013, học viên Nguyễn Thị Tình đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ với đề tài Sự nghiệp văn học của Đông Hồ. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS Võ Văn Nhơn. Hội đồng chấm luận văn đánh giá cao những đóng góp của luận văn và đã cho luận văn 9,5 điểm. Khoa Văn học và Ngôn ngữ. VH-NN xin giới thiệu mục 2.1.4. Văn học Hà Tiên Mục lục của luận văn.
 
Học viên Nguyễn Thị Tình (người thứ ba từ phải sang) 

2.1.4. Văn học Hà Tiên (1970)

            Công trình Văn học Hà Tiên (Chiêu Anh Các Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh) là một tập tư liệu đầy đủ và công phu về văn chương Chiêu Anh Các mà Đông Hồ đã tuyển chọn trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy cho sinh viên lớp chứng chỉ Văn chương quốc âm miền Nam tại Đại học Văn khoa Sài Gòn. Có thể ghi nhận đây là sự nối tiếp và hoàn thiện công việc khảo cứu còn dang dở về thi xã Chiêu Anh Các và Mạc Thiên Tích mà Đông Hồ đã từng thực hiện từ năm 1926 với Hà Tiên Mạc thị sử. Văn học Hà Tiên được nhà xuất bản Quỳnh Lâm ấn hành lần đầu năm 1970, nhà xuất bản Văn nghệ TP. HCM tái bản năm 1999.

            Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích được người đời biết đến là những vị công thần đầu tiên có công khai phá và gây dựng vùng đất phía Tây Nam của Tổ quốc. Mạc Cửu sinh năm 1655 tại phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), không chịu thuần phục nhà Thanh nên cùng gia quyến rời quê hương tìm đến vùng đất mới sinh cơ lập nghiệp. Ông đã tổ chức lưu dân khai phá, mở mang đất đai, biến Mang Khảm (Hà Tiên) thành một tiểu vương quốc trù phú. Nhưng danh tiếng của Mạc Thiên Tích còn vang xa hơn người cha của mình, không chỉ về tài thao lược phát triển kinh tế, ngoại giao, quốc phòng, mà quan trọng hơn, ông còn phát triển cả về mặt văn hóa. Mạc Thiên Tích là chủ soái của Tao đàn Chiêu Anh Các, một thi xã đầu tiên ở miền Nam. Thơ văn của Chiêu Anh Các được người đời biết đến, công đầu thuộc về Lê Quý Đôn. Ông đã giới thiệu thơ Mạc Thiên Tích và Chiêu Anh Các bằng sách chữ Hán, sau khi đã đọc và phải thốt lên rằng: “Không thể nói ở hải ngoại xa xôi không có văn chương vậy” (Phủ biên tạp lục, 1776). Đóng góp văn hóa của Tao đàn Chiêu Anh Các còn được ghi nhận trong những sách sử cũ như: Thanh văn hiến thông khảo (1747) của những nhà chép sử Trung Hoa, Kiến văn tiểu lục (1777) của Lê Quý Đôn, Mạc thị gia phả (1818) của Vũ Thế Dinh, Gia Định thành thông chí (1820 - 1841) của Trịnh Hoài Đức, Đại Nam liệt truyện tiền biên (1852) của Quốc sử quán triều Nguyễn. Trong các sách nghiên cứu hiện đại, ảnh hưởng của Chiêu Anh Các đối với nền văn học Nam Bộ vẫn được khẳng định, thậm chí nữ sĩ Mộng Tuyết còn viết nên một thiên tiểu thuyết lịch sử Nàng Ái Cơ trong chậu úp dựa trên truyền thuyết xung quanh dòng họ Mạc. Điều đó cho thấy Chiêu Anh Các vẫn luôn là một Tao đàn có sức lôi cuốn các nhà nghiên cứu văn học sử. Nhưng trên hết, người con của mảnh đất này - Đông Hồ mới là người giới thiệu và phổ biến thành công những áng thơ đó trên sách báo quốc ngữ, đưa những vần thơ của xứ sở Hà Tiên bay cao bay xa trên bầu trời văn học cả nước. Đánh giá công lao to lớn này của Đông Hồ, nhà nghiên cứu Hoài Anh đã công nhận: “Từ năm 1926, Đông Hồ đã lần đầu giới thiệu họ Mạc trên Nam Phong tạp chí, đến năm 1970, cuốn sách Văn học Hà Tiên (Quỳnh Lâm xuất bản) được xuất bản, mối duyên bút mực với họ Mạc kéo dài gần nửa thế kỷ, đó chẳng phải là một điều kỳ ngộ hay sao? Nếu không có công sức Đông Hồ đưa thơ Chiêu Anh Các ra ánh sáng và giải thích bình luận cặn kẽ thì những áng thơ này dẫu không chịu số phận mai một thì cũng khó lòng được phổ biến rộng rãi như vậy”. [69, 237]. Có thể nói Đông Hồ chính là “tri âm, tri kỷ” của Mạc Thiên Tích.

            Thật vậy, ngay trong lần đầu viết Hà Tiên Mạc thị sử (Nam Phong số 107/ 1926), Đông Hồ dùng tư liệu của lớp người đi trước, công bố 10 bài thơ Nôm của Mạc Thiên Tích, song ông vẫn còn nghi ngờ và thú nhận việc này một cách thành thật: “Mười bài sao lục ra sau đây truyền lại đã lâu, không chắc có khỏi tam sao thất bản, duyệt giả có tường hơn đính chính lại cho”. Tuy nhiên, “suốt mấy chục năm sau đó, không có ai đính chính, và cũng không ai cãi. Người ta yên chí mười bài ngâm song thất lục bát là của ông Thiên Tích, cho mãi đến ngày ông Vũ Văn Kính đặt vấn đề về bản chữ Nôm của Trần Đình Quang. Thế có nghĩa là, thời xưa chưa ai đặt thành vấn đề nghi ngờ các câu thơ kia cả”[57, 126]. Từ khi công bố 10 bài thơ Nôm đầu tiên của Mạc Thiên Tích cho đến suốt mấy chục năm về sau này, Đông Hồ vẫn tiếp tục khảo cứu thêm về Hà Tiên, thu thập tất cả sách báo, tư liệu Việt, Hán, Pháp viết về Hà Tiên, ghi chú kỹ lưỡng để có thể giới thiệu thơ văn của nhóm Chiêu Anh Các và Mạc Thiên Tích một cách trọn vẹn nhất. Một phần trong các tài liệu nghiên cứu của ông đã được sử dụng trong cuốn Văn học Hà Tiên này.

            Công trình Văn học Hà Tiên của Đông Hồ nếu tính cả lời tựa do GS. Lê Đình Kỵ viết thì có tổng cộng 11 đề mục. Trong đó, có thể thấy rõ có 2 phần chính như sau:

            Phần thứ nhất: từ đề mục đánh số I tới số X, chủ yếu là những bài nghiên cứu của Đông Hồ về thơ văn Chiêu Anh Các và Mạc Thiên Tích. Bên cạnh đó còn có các bài viết bổ sung của GS. Lê Đình Kỵ, nữ sĩ Mộng Tuyết và GS. Giản Chi xung quanh các vấn đề nghiên cứu của Đông Hồ.

            Phần thứ hai: “Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh”, Đông Hồ đăng tải và trình bày cặn kẽ trọn vẹn 10 bài thơ Nôm, 10 bài thơ Hán và 10 bài ngâm khúc của Mạc Thiên Tích về 10 cảnh đẹp của Hà Tiên. Đồng thời, ở mỗi bài Hán thi đó, Đông Hồ lại tự dịch ra một bản Nôm của mình.

            Trong phần 1, bằng sự hiểu biết của mình, Đông Hồ đã cung cấp cho người đọc những kiến thức về tao đàn Chiêu Anh Các mà ông đã có dịp nói qua trong Hà Tiên Mạc thị sử. Lần này, Chiêu Anh Các được tác giả giới thiệu một cách khái quát và đầy đủ hơn trên các mặt sau:

            Về hoàn cảnh và mục đích ra đời: Năm Bính Thìn (1736), là năm Mạc Thiên Tích sáng lập hội tao đàn, và kiến tạo Chiêu Anh Các. Chiêu Anh Các như tên gọi, là nơi chiêu tập những bậc anh tuấn anh tài trong thiên hạ, cùng nhau xướng họa thơ văn và luận đàm binh thư thao lược. Chiêu Anh Các còn là một Văn miếu, thờ đức Thánh Khổng Tử. Và cuối cùng, Chiêu Anh Các còn là một nhà nghĩa học, dạy học trò làm nghĩa chứ không lấy học phí.

            Về lực lượng sáng tác: Lực lượng sáng tác cụ thể của Chiêu Anh Các là bao nhiêu, Đông Hồ không nói rõ, có lẽ vì sử cũ chưa chép thật đầy đủ. Ông chỉ nói rằng: “Có sách chép 32, nhưng có sách chép 36. Số 36 này gọi là tam thập lục kiệt. Tam thập lục kiệt là 36 vị kiệt sĩ, mà trong số đó, có thập bát anh là 18 vị anh hoa xuất chúng. Thập bát anh, tức là phân nửa số của tam thập lục kiệt. Có câu thơ ca tụng rằng: Tài hoa lâm lập trứ Phương Thành /Nam Bắc hàm vân thập bát anh”. [52, 21]

            Danh sách tam thập lục kiệt của Chiêu Anh Các, các sử thư đều có ghi chép đầy đủ cả danh tính, tự hiệu, quê quán. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần cũng cho rằng: “những con số như tam thập lục kiệt hoặc thập bát anh…đều chỉ có ý nghĩa ước lệ của dân gian mà thôi”. [69, 142]. Trong Chiêu Anh Các, phần lớn là người Trung Quốc, những người Việt Nam không nhiều. Dựa vào bài Tựa sách Hà Tiên thập vịnh, Đông Hồ đã dịch ra quốc văn: “Mùa xuân năm Bính Thìn (1736), có thầy Trần Hoài Thủy từ Việt Đông vượt biển đến đây. Ta đãi làm thượng tân. Mỗi khi hoa sớm trăng đêm, ngâm vịnh chẳng thôi. Nhân, đem Hà Tiên thập cảnh trình cho tri kỷ. Thầy Trần dựng cờ Tao Đàn, mở hội phong nhã. Sau đó, thầy Trần trở thuyền về Châu Giang (tức Quảng Châu, tỉnh lỵ Quảng Đông) đưa ra làng thơ, nhờ được chư công chẳng bỏ. Khi đề vịnh xong góp thành tập cho ta, bèn cho khắc bản”[52, 70]. Qua đó, chúng ta có thể hiểu thêm rằng: rất nhiều người trong Chiêu Anh Các ở tận bên Trung Quốc, chưa từng đặt chân đến đất Hà Tiên, nhờ Trần Tử Hoài mang 10 bài thơ chữ Hán của Mạc Thiên Tích về Trung Quốc và làm thơ họa lại, sau đó gửi trả lại cho Mạc Thiên Tích khắc in.

            Tìm hiểu thành phần và nguyên quán của các thi nhân trong Chiêu Anh Các, Đông Hồ đã khảo sát khá tinh tường. Ông đưa ra một số văn liệu và sử liệu về phương diện này: Sách Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn có 25 người Trung Quốc và 6 người Việt. Sách Kiến văn tiểu lục cũng do Lê Quý Đôn biên soạn (1777) có 25 người Trung Quốc, 6 người Việt Nam, chưa kể Mạc Thiên Tích. Kiến văn tiểu lục còn đưa thêm danh sách 32 vị thi nhân đã họa tập thơ vịnh cảnh bốn mùa ở Thụ Đức hiên của Mạc Thiên Tích có nhan đề là Thụ Đức hiên tứ cảnh. Lê Quý Đôn nói rõ tập thơ này do Phương Thu Bạch đề tựa và đã được khắc in. Như vậy Lê Quý Đôn chỉ nêu tên tác giả có thơ họa là 32 +32 = 64 người. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì ghi cẩn thận hơn, có 15 văn nhân tỉnh Phúc Kiến, 13 người Quảng Đông, 4 người phủ Triệu Phong, 2 người phủ Gia Định, 2 người phủ Quy Nhơn, tổng cộng là 36 vị. Như vậy, Trung Quốc có 28 người, Việt Nam có 8 người, trong số này có 6 người không được Lê Quý Đôn ghi nhận trong Phủ biên tạp lục là: Tạ Chương, Lương Hoa Phong, Lư Triệu Huynh, Lê Bá Bình, Hoàng Long hòa thượng, Tô Dần đạo sĩ. Và có 3 vị mà Gia Định thành thông chí không chép là Tôn Quý Mậu, Phương Minh và Mạc Triều Đán. Đó là những chỗ sai biệt giữa hai dữ liệu. Gần đây, trong bài nghiên cứu “Xung quanh vấn đề văn bản Hà Tiên thập vịnh” Nguyễn Kim Hưng đã kết luận về số thành viên của tao đàn Chiêu Anh Các là 65 người thậm chí đến 71 người. [57, 176]. Như vậy, những văn nhân nho sĩ tham gia Tao đàn Chiêu Anh Các cho đến nay vẫn chưa có con số khẳng định chính xác. Dựa vào các nguồn tư liệu trên, chúng ta có thể bằng lòng với một con số ước lượng có thể từ 32 đến trên 70 người, gồm cả người Việt và người Trung Hoa.

            Về tác phẩm của Chiêu Anh Các: Lê Quý Đôn là người đầu tiên nghiên cứu về Chiêu Anh Các và nguồn tài liệu thứ hai là của Trịnh Hoài Đức. Trịnh Hoài Đức đã sưu tầm tài liệu về Chiêu Anh Các và đã tìm được cuốn Minh bột di ngư và cho in lại vào năm 1821 với bài tựa Tân tự do chính ông viết. Dựa  vào bài tựa đó chúng ta biết sáng tác của Chiêu Anh Các gồm 6 bộ sách: “Tôi vào tuổi thành đồng đã từng thấy Hà Tiên thập cảnh toàn tập, Minh bột di ngư thi thảo, Hà Tiên vịnh vật thi tuyển, Châu thị trinh liệt tặng ngôn, Thi truyện tặng Lưu tiết phụ, Thi thảo cách ngôn vị tập. Cả 6 bộ đã xuất bản, gần xa, các sĩ phu đọc từng bài thưởng thức và thán phục. Dầu ở tận cõi Nam Thùy, Hà Tiên cũng nhờ đó mà trở thành trời Trâu, đất Lỗ, nổi dậy tiếng tăm” [52, 124]. Qua đó có thể thấy rõ rằng, tác phẩm của Chiêu Anh Các bao gồm nhiều thể loại khác nhau chứ không phải chỉ có mỗi thơ. Nhưng thơ có lẽ là thể loại sáng tác phổ biến nhất và cũng thành công nhất của thi phái này. Cuốn Minh bột di ngư do Trịnh Hoài Đức khắc bản mà nhà nghiên cứu Ca Văn Thỉnh đã sưu tầm được và nhắc tới trước năm 1945 nay cũng không còn được thấy. Tác phẩm của Chiêu Anh Các còn có tập thơ xướng họa Thụ Đức hiên tứ cảnh giữa Mạc Thiên Tích và 32 tác giả, được Lê Quý Đôn nhắc đến trong Kiến văn tiểu lục. Cuối cùng, dựa vào kết quả sưu tầm được trong nhân dân, Đông Hồ khẳng định chỉ có một tập Hà Tiên thập vịnh bằng Hán thi và một tập Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh bằng thơ Nôm của nhóm Chiêu Anh Các là còn lưu truyền trọn vẹn. Gần đây, các nhà nghiên cứu tìm thấy một áng thơ Nôm khá đặc sắc nữa viết về một thắng cảnh Hà Tiên có tựa đề là Lư Khê vãn. Tác phẩm này do Trương Vĩnh Ký có công sưu tầm nhưng chưa công bố. Các nhà nghiên cứu trước đó cũng chưa từng nhắc đến, và ngay cả Đông Hồ cũng không có Lư Khê vãn. Sau khi tìm hiểu xuất xứ và phân tích tác phẩm, Nguyễn Thị Thanh Xuân khẳng định “Lư Khê vãn là áng thơ Nôm của Hà Tiên do một nho sĩ người Việt đã từng trải qua bước đường hoạn lộ, có điều kiện sống gắn bó với thiên nhiên và đời sống sinh hoạt của dân gian sáng tác. Tác giả Lư Khê vãn có thể là người đã tham gia thi xã Chiêu Anh Các ở Hà Tiên” [69, 258].

            Về thơ Hán, khởi thủy, Mạc Thiên Tích thủ xướng 10 bài. Mỗi vị trong số 31 vị trong Chiêu Anh Các họa vần, mỗi vị 10 bài, tổng cộng là 310 bài. Tổng số cả xướng cả họa là 320 bài, góp lại thành tập, khắc bản ấn hành tại Hà Tiên năm 1737 do Mạc Thiên Tích đề tự và hai vị văn nhân khác đề hai bài bạt. Đến 18 năm sau, năm 1755, Nguyễn Cư Trinh vào Nam, giao thiệp với họ Mạc ở Hà Tiên, họa thêm 10 bài nữa. Nhờ đó mà ngày nay chúng ta có tất cả 330 bài Hà Tiên thập vịnh gồm những bài thơ của thi phái Chiêu Anh Các và của Nguyễn Cư Trinh. Đây là một tác phẩm hiếm hoi của Tao đàn Chiêu Anh Các còn giữ lại được, còn hầu hết các tác phẩm chữ Hán khác đã thất truyền do những thăng trầm, loạn lạc của lịch sử.

            Các tác phẩm viết bằng chữ Hán của nhóm Chiêu Anh Các đã được khẳng định. Còn các tác phẩm viết bằng chữ Nôm, mà nói đến thơ Nôm thì trước hết phải nói đến Mạc Thiên Tích vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều. Trong số những nhà nghiên cứu vẫn còn nghi ngờ trước ý kiến của Đông Hồ cho rằng tác giả 10 bài thơ Nôm Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh là của Mạc Thiên Tích có Nguyễn Khắc Thuần. Ông chưa thật an tâm bởi vì từ trước đến nay “chưa có một tài liệu gốc nào nói đến những tác phẩm bằng chữ Nôm của Chiêu Anh Các”[69, 144]; toàn bộ 10 bài thơ Nôm được viết theo thể lục bát gián cách, có độ dài hơn cả Chinh phụ ngâm thì “một tác giả người Việt chính cống và tài hoa mà viết được như thế còn khó, huống hồ là Mạc Thiên Tích”;“tác giả của nó có thể là người khác…luôn tìm cách bày tỏ lòng tôn kính đặc biệt của mình đối với Mạc Thiên Tích”[69, 144]. Ý kiến của Nguyễn Khắc Thuần không phải không có cơ sở, ngay chính Đông Hồ cũng còn băn khoăn trong Hà Tiên Mạc thị sử mà chúng tôi đã đề cập đến ở trên. Nhưng sau khi được đọc thứ tự các tựa bài trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú và Nam Hải dân tộc anh hùng của Lý Văn Hùng và Thôi Tiêu Nhiên, (khoảng năm 1950) thì Đông Hồ đã xếp lại chùm thơ đã công bố năm 1926, đồng thời khẳng định đó là thơ Nôm của Mạc Thiên Tích.[57, 128] Năm 1992, cuộc bút chiến của ông Cao Phi Hồng (tức Cao Tự Thanh) và ông Nguyễn Quảng Tuân trên tạp chí Khoa học xã hội TP. HCM số 12, 13, 15, 17…về vấn đề thơ Nôm của Mạc Thiên Tích cho thấy vấn đề này chưa bao giờ bị lãng quên [57, 115]. Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt đã dùng sự hiểu biết của mình và các tư liệu chứng minh khám phá của Đông Hồ về thơ Nôm Mạc Thiên Tích là đúng. “Cuộc ráp nối sít sao các mảnh vỡ, đặt lại trật tự các bài thơ, do Đông Hồ thực hiện, làm nổi lên giá trị không chối cãi của một bộ phận văn chương chữ Nôm có tính cổ điển và độc đáo ở nửa phần phía Nam của đất nước”[57, 116]. Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại, Mạc Thiên Tích đích thực là tác giả của 10 bài vịnh Hà Tiên thập cảnh bằng thơ Nôm.

            Bên cạnh việc giới thiệu về nhóm Chiêu Anh Các và thơ văn của họ, trong phần này, Đông Hồ còn đi sâu khảo cứu mối tương quan giữa thơ Hán và thơ Nôm của thi phái Chiêu Anh Các, tác phẩm và thi phẩm Hán cũng như tác phẩm và thi phẩm Nôm của Tao đàn này. Ở mỗi bài nghiên cứu, tác giả đều trích dẫn ra vài bài thơ làm ví dụ minh họa. Chẳng hạn, nói về thơ chữ Hán của Chiêu Anh Các, Đông Hồ trích bài Bình San điệp thúyLư Khê nhàn điếu, sau đó tự dịch nghĩa xuôi của bài thơ và dịch cả bài thơ Hán đó ra tiếng Việt một cách khá thành công. Còn khi khảo cứu thơ Nôm, tác giả một lần nữa khẳng định: “điều đáng cho chúng ta thán phục, đáng cho ta ca tụng từ trước tới nay, và mãi mãi về sau, là thi phái Chiêu Anh Các Hà Tiên đã để lại cho chúng ta một áng văn chương Nôm giá trị không ít”.[52, 152] Điều đó cho thấy “tiếng Việt quả có một sức quyến rũ phi thường”. Theo đó, Đông Hồ giới thiệu đôi nét về nội dung và nghệ thuật của tập thơ Nôm này. Về hình thức thơ: “Nó là một khúc vịnh thể lục bát gián thất, chia làm 10 đoạn. Mỗi đoạn nói về một cảnh, và kết đoạn đó bằng một bài thơ Nôm Đường luật. Cuối cùng có một bài luật Nôm làm lời tổng vịnh 10 cảnh, nhắc lại tên 10 cảnh và vị trí 10 cảnh có liên quan với nhau. Vần thơ lục bát và vần thơ luật, trên dưới cắn liền nhau, 334 câu lục bát gián thất, 88 câu của 11 bài Đường luật, tất cả là 442 câu liên ngâm không gián đoạn”[52, 154]. Và “đều là ý đẹp lời hay, đủ bóng bẩy, đủ thâm trầm, tỏ ra tác giả họ Mạc cũng là một tay thơ Nôm điêu luyện lắm”[52, 157]. Về nội dung, Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh chủ yếu tả vẻ đẹp của quê hương xứ sở và cảnh sinh hoạt yên bình của người dân Hà Tiên. Những bài khảo cứu của Đông Hồ trong Văn học Hà Tiên thực sự có ích cho việc tìm hiểu, gìn giữ và bảo tồn một nền văn học cổ “trong văn mạch phía Nam”. Ngoài ra, trong cuốn sách này còn có bài viết của Mộng Tuyết “Thêm một tư liệu để bổ sung cho tập Văn học Hà Tiên của Đông Hồ” và GS. Giản Chi “Về bài phú Lư Khê nhàn điếu của Mạc Thiên Tích” đã cung cấp nguồn tư liệu đáng quý về mảng thơ chữ Hán của Mạc Thiên Tích mà Đông Hồ còn chưa nắm rõ.

            Phần thứ hai của công trình nghiên cứu Văn học Hà Tiên là phần phụ lục, chú thích, bình giảng kỹ lưỡng 10 bài khúc vịnh bằng thơ Nôm. Cảm hứng, nội dung thơ Chiêu Anh Các bắt nguồn từ cuộc sống và cảnh sắc tươi đẹp của Hà Tiên. Đó là:

Mười cảnh Hà Tiên rất hữu tình

Non non nước nước gẫm nên xinh

Đông Hồ, Lộc Trĩ luôn dòng chảy

Nam Phố, Lư Khê một mạch xanh

Tiêu Tự, Giang Thành chuông trống ỏi

Châu Nham, Lạc Lộ cá chim quanh

Bình San, Thạch Động là rường cột

Sừng sững muôn năm cũng để dành

                         (Hà Tiên thập cảnh tổng vịnh - Mạc Thiên Tích)

            Ở mỗi bài khúc vịnh và bài thơ luật Nôm, Đông Hồ đều chú thích rõ từng từ, giải nghĩa cặn kẽ từng chữ một, người đọc chỉ cần đọc phần chú giải này là có thể hiểu được ý nghĩa bài thơ. Không chỉ giảng nghĩa, Đông Hồ còn bình tổng quát ở mỗi bài khúc vịnh và bình riêng bài thơ luật Nôm, giúp độc giả hiểu hơn về ý nghĩa của bài thơ cũng như nghệ thuật tài hoa của người sáng tác. Sau mỗi bài bình giảng đó, ông còn đính kèm phụ lục một bài thơ chữ Hán (như vậy phần phụ lục có tổng cộng 10 bài thơ chữ Hán), nguyên xướng của cùng một tác giả Mạc Thiên Tích để so sánh điệu và ý nghĩa với bài họa Nôm. Đông Hồ cũng không quên dịch nghĩa và dịch thơ Nôm từng bài thơ chữ Hán đó. Đây là việc làm rất công phu và tỉ mỉ, giúp chúng ta có một cái nhìn hệ thống và toàn diện về 10 bài khúc vịnh, 10 bài thơ Nôm và 10 bài thơ Hán của Mạc Thiên Tích. Có thể nói, đóng góp lớn nhất của Đông Hồ trong phần này chính là ở những bản dịch Nôm 10 bài thơ Hán của Mạc Thiên Tích. Cả phần dịch nghĩa và dịch thơ, ông đều dịch rất sát nghĩa, ngôn từ thanh nhã, nói chung khá thành công. Về phần này, Nguyễn Hiến Lê có viết: “Tôi nhận thấy công trình khảo cứu công phu, cách trình bày sáng sủa – giọng ông ở đây là giọng một giáo sư kiêm một nghệ sĩ. Ông rất thận trọng trong phần chú giải, nhất là trong những bài dịch thơ chữ Hán của Mạc Thiên Tích. Ông dịch sát mà giữ đúng cả thể lẫn vần trong nguyên tác, như bài Lộc trĩ thôn cư  nguyên tác là thất ngôn Đường luật và dùng những vần tinh, thinh, thanh, linh, đình thì ông dịch ra thất ngôn Đường luật và dùng những vần mình, tranh, xanh, thanh, thinh”.[65, 124] Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Hoài Anh thì cho rằng, phần dịch thơ Hán ra tiếng Việt của Đông Hồ có nhiều chỗ nên trao đổi thêm. “Có thể nói bản dịch của Đông Hồ đáp ứng được yêu cầu nhã, còn về tín, do Đông Hồ cố gò cho nhã hoặc cố gắng theo sát nguyên vần thơ Hán và luật Nôm của Mạc Thiên Tích, cho nên đôi chỗ đã làm sai lệch ý của nguyên tác” [69, 238]. Theo đó, ông dẫn ra một số ví dụ sau:

            Bài Kim dữ lan đào, câu:

Nhất đảo thôi thôi điện bích liên,

Hoành lưu kỳ thắng tráng Hà Tiên.

Ba đào thế tiệt đông Nam Hải,

Nhật nguyệt quang hồi thượng hạ thiên.

Đắc thủy ngư long tùy biến hóa…

            Hai câu đầu, Đông Hồ dịch là: “Một dãy non xanh nước bích liền. Giăng ngang cho mạnh đẹp sông Tiên”. Chữ Sông Tiên ở đây không tiêu biểu cho toàn bộ cảnh Hà Tiên vốn là một địa danh. Có lẽ nên dịch là: “Một đảo vươn cao trên mặt nước. Chắn sông cho mạnh đẹp Hà Tiên”. Câu 3 Đông Hồ dịch là: “Đông Nam sóng biển bằng trang cả”. Chữ “bằng trang” hơi thụ động, không nổi lên được chí khí Mạc Thiên Tích ký thác trong bài thơ. Có lẽ nên dịch là: “Đông Nam sóng biển đều im đứt”. Câu 5, Đông Hồ dịch là: “Rồng cá vẫy vùng trong cõi nước”, câu thơ hơi tĩnh. Có lẽ nên dịch là: “Gặp nước cá rồng tùy biến hóa”, nếu như vậy câu 6 có thể dịch: “Men bờ, cây đá mặc đua chen”, sát hơn câu “Đá xây san sát  khắp ven miền”. [69, 238]

            Trong 9 bài dịch Nôm còn lại của Đông Hồ, Hoài Anh đều đưa ra một vài câu mà ông thấy dịch chưa sát với nguyên tác lắm. Theo đó, ông cũng thử đưa ra cách dịch khác của mình. Hoài Anh không phủ nhận cách dịch của Đông Hồ, tuy nhiên “chúng tôi quan niệm rằng nếu gò gẫm dịch thành thơ mà làm sai lệch ý nguyên tác thì thà cứ dịch nghĩa còn hơn”. Đồng thời ông cũng thẳng thắn thừa nhận rằng “chúng tôi đã cố gắng dịch lại một số câu chỉ cốt đảm bảo tiêu chuẩn tín mà thôi, còn tiêu chuẩn đạt, nhã vẫn chưa vươn tới được” [69, 242]. Qua đó có thể thấy rằng, dịch những bài thơ chữ Hán súc tích của Mạc Thiên Tích ra thơ tiếng Việt là một điều hết sức khó khăn, Đông Hồ dịch vẫn còn nhiều hạn chế, Hoài Anh dịch vẫn chưa thể gọi là thành công. Như vậy, cần thiết phải có những bản dịch khác nữa để việc dịch thuật thơ ca Chiêu Anh Các và Mạc Thiên Tích được hoàn chỉnh hơn, đảm bảo ba tiêu chuẩn của dịch thơ là tín, đạt và nhã. Cho đến hôm nay, Đông Hồ vẫn được coi là người có công lớn trong việc phiên dịch, giới thiệu thơ ca Chiêu Anh Các với bạn đọc cả nước. Những bài dịch thơ của ông tuy là còn đôi chỗ hạn chế như Hoài Anh đã nhận xét, nhưng những câu thơ êm ái nhẹ nhàng đó đã đi vào lòng người yêu thơ từ mấy mươi năm nay, không dễ phai mờ. Vừa giới thiệu, chú thích, bình giảng 10 bài khúc vịnh và 10 bài Nôm, lại kiêm cả việc dịch nghĩa, dịch thơ 10 bài thơ chữ Hán ra tiếng Việt, ngần ấy công việc dường như được làm trong một lúc mà ở phần nào Đông Hồ cũng làm khá tốt chứng tỏ việc tìm hiểu thơ văn Chiêu Anh Các, giới thiệu văn chương quốc âm miền Nam là mong mỏi và niềm say mê khôn nguôi của ông. Mặt khác, những bài thơ của Mạc Thiên Tích, cả thơ Hán và thơ Nôm, đều chứa chan niềm yêu thương và đầy tự hào về cảnh đẹp của quê hương, thể hiện niềm tin và chí khí của người đã gây dựng nên nó. Đông Hồ tìm hiểu và giới thiệu thơ Mạc Thiên Tích có thể hiểu là một cách thể hiện lòng tri ân của ông đối với lớp tiền nhân đã có công khai phá nên một Hà Tiên xinh đẹp để người đời sau mãi mãi tự hào.

            Như những công trình trước, phong cách nghiên cứu của Đông Hồ trong Văn học Hà Tiên là nghiêm túc và khoa học. Trong mỗi luận điểm của mình, ông đều đưa ra những bằng chứng cụ thể từ sử liệu và văn liệu để chứng minh nội dung cần trình bày. Với cách trình bày sáng sủa, dễ hiểu, cách nghiên cứu tỉ mỉ, cẩn thận cộng với nội dung phong phú nói về văn học Chiêu Anh Các và Mạc Thiên Tích khiến cho đây là công trình đầu tiên và công phu nhất về văn học Hà Tiên. Tiếp bước Đông Hồ, lớp hậu sinh đã cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu về Chiêu Anh Các như Tao đàn Chiêu Anh Các (2003) của Lý Thị Mai, Trấn Hà Tiên và Tao đàn Chiêu Anh Các (2002) của Hà Văn Thùy, Nghiên cứu Hà Tiên (2008) của Trương Minh Đạt…cung cấp cho người đọc những vấn đề cụ thể về Chiêu Anh Các. Xung quanh Tao đàn này vẫn còn nhiều điều thú vị cần được làm sáng tỏ, mà Văn học Hà Tiên của Đông Hồ chính là một nguồn tài liệu tương đối đầy đủ cho những ai muốn tìm hiểu về một nền văn hiến xa xôi nơi biên cảnh. Vì vậy, với những người yêu văn chương nói riêng và người dân Hà Tiên, miền Nam nói chung, công của Đông Hồ thật lớn lao. Văn học Hà Tiên đã cung cấp cho họ những kiến thức quý báu về một thời kỳ rực rỡ của một nền văn học “chảy trong văn mạch phía Nam” tưởng như đã chìm vào quên lãng. Mấy dòng nhận xét ngắn gọn của Nguyễn Hiến Lê về công trình này rất xác đáng: “Ông đã trình bày cặn kẽ chẳng riêng mười bài thơ Nôm, mà trọn tập ngâm khúc Nôm và mười bài thơ Hán của Mạc Thiên Tích về mười cảnh Hà tiên. Về phần giới thiệu nhóm Chiêu Anh các, tiểu sử Mạc Thiên Tích, tài liệu cũng dồi dào, sau này khó có ai viết hơn ông được”. [65, 124]

 

MỤC LỤC

Chương 1: Đông Hồ - Thân thế và sự nghiệp

            1.1. Đôi nét về thân thế

                        1.2. Sự nghiệp của Đông Hồ

                        1.2.1. Một nhà thơ, nhà giáo tâm huyết

                        1.2.2. Một nhà báo, nhà kinh doanh văn hóa

Chương 2:  Sự nghiệp nghiên cứu văn học và dịch thuật của Đông Hồ

2.1. Sưu tầm, biên soạn

            2.2. Nghiên cứu, phê bình văn học

            2.3. Dịch thuật

Chương 3: Sự nghiệp sáng tác của Đông Hồ

            3.1. Tùy bút, ký sự

            3.2. Thơ

                  3.2.1. Thơ Đông Hồ trước Phong trào thơ Mới

                  3.2.2. Phong trào thơ Mới và thơ Đông Hồ

                  3.2.3. Nghệ thuật thơ Đông Hồ

            3.3. Những đóng góp của Đông Hồ đối với nền văn học Nam Bộ thế kỷ XX