Về khái niệm lập luận trong sách giáo khoa

1.      Vấn đề

 Tôi thường nhận được thư của giáo viên thắc mắc về SGK ngữ văn (Từ nay sẽ được viết tắt là NV). Dưới đây là một thư hỏi về những khái niệm liên quan đến lập luận mà SGK gọi lẫn là nghị luận và lập luận:

“-  Theo Ngữ văn 10 tập 2- cơ bản, “thao tác nghị luận là những động tác được thực hiện theo trình tự và yêu cầu kĩ thuật được quy định trong hoạt động nghị luận. Phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp và so sánh là những thao tác nghị luận thường gặp trong hoạt động nghị luận” (trang 134)

- Ngữ văn 10 tập 2-nâng cao thì lại cho rằng chứng minh, giải thích, diễn dịch, quy nạp là các thao tác nghị luận. (trang147)

- Ngoài những thao tác trên, sách Ngữ văn 11 cơ bản lại đưa thêm thao tác lập luận bác bỏ (trang 24,27) và thao tác lập luận bình luận (trang 71,74).

Như vậy, theo chương trình SGK Ngữ văn THPT, có tổng cộng là 9 thao tác lập luận: Phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh, chứng minh, giải thích, bác bỏ, bình luận . Theo em, hình như không có sự rõ ràng, minh bạch giữa thao tác tư duy với thao tác nghị luận và các kiểu bài văn nghị luận…” (trích từ email của một giáo viên hỏi  năm 2011)

          Những đoạn dẫn trên (mà tôi tin là chính xác)   cho thấy SGK lớp 10 và 11 đã trình bày rối  và lẫn về  khái niệm lập luận (LL). Xin nêu vài điểm cụ thể.

2.              Lập luận là chứng minh. Khi chứng minh phải lập luận nên không có “thao tác” chứng minh.

Về cơ bản, lập luận là: “Xuất phát từ tiền đề (cũng gọi là luận cứ) , dựa trên những lý lẽ chúng ta đi tới những kết luận.”  Có hai loại LL. Thứ nhất,  LL trong khoa học  để chứng minh một  chân lý; chẳng hạn  toán chứng minh trong hình học; và thứ hai, LL trong đời thường để thuyết phục, tạo niềm tin, nói (chứng minh) cốt sao  người nghe thấy “lọt lỗ tai” rồi tin  theo kết luận đưa ra hoặc từ bỏ những xác tín cũ.   

            Cấu trúc  một bài toán chứng minh là: “Cho  A (giả thiết). Hãy chứng minh rằng  B (kết luận)” . Quá trình suy luận từ A tới B là một quá trình chứng minh hay quá trình LL. Lý lẽ ở đây là những định lý, tính chất, công thức đã biết.

Một bài toán chứng minh có thể bao gồm nhiều lập luận. Ví dụ: để chứng minh hai tam giác bằng nhau chúng ta phải chứng minh rằng hai tam giác này đáp ứng một trong các điều kiện đủ để hai tam giác bằng nhau. Chẳng hạn, đó là điều kiện “cạnh, góc, cạnh” Lúc đó, chúng ta có 3 phần (ít nhất là 3 lập luận) để chứng minh rằng cạnh thứ nhất bằng nhau, cạnh thứ hai bằng nhau và góc xen giữa chúng bằng nhau.  

Chúng ta nói “Bài  này chứng minh bằng phương pháp quy nạp,  bài  kia chứng minh bằng phương pháp diễn dịch, còn bài thứ ba chứng minh bằng phương pháp so sánh”. Nhưng không thể nói “*Bài  này chứng minh bằng phương pháp chứng minh”.

Để khẳng định ý kiến A, chúng ta cần chứng minh rằng A là đúng. Như vậy cũng đồng thời là bác bỏ ý kiến  không A. Người ta nói sai ý kiến mình thì chúng ta bác bỏ.  Đôi khi chỉ cần nói “Nói vậy không đúng đâu”. Thế là  bác bỏ rồi.

Phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp và so sánh…là những phương pháp dùng trong nghiên cứu khoa học, nên nó cũng được dùng trong nghiên cứu ngữ văn, trong đó có văn nghị luận.

          Vậy có ba kết luận:

           a)  Chứng minh, bác bỏ  không phải là những “thao tác” LL (nghị luận).

           b)  Thuật ngữ “thao tác LL” dùng trong NV  chính là “phương pháp LL”.

           c)  Có bao nhiêu phương pháp chứng minh có bấy nhiêu “thao tác” LL.

3.      Thuật ngữ “thao tác” sinh rối

SGK không dùng thuật ngữ phương pháp  mà dùng thuật ngữ “thao tác” có vẻ uyên bác nên sinh rối. Đầu tiên SGK phải định nghĩa thuật ngữ “thao tác”:  “Thao tác nghị luận là những động tác được thực hiện theo trình tự và yêu cầu kĩ thuật được quy định trong hoạt động nghị luận.”  (NV 10, II, đoạn ghi nhớ, 134).  Trước đó,  không có chỗ nào trong  NV 10 giải thích hay trình bày thế nào là  “động tác được thực hiện theo trình tự và yêu cầu kĩ thuật được quy định trong hoạt động nghị luận”. Liệu có thể chấp nhận được phương pháp   lấy cái chưa biết (chưa trình bày) để định nghĩa một khái niệm mới? Học sinh đành phải nhớ vẹt một định nghĩa “thao tác nghị luận” nghe có vẻ  hàn lâm nhưng lại rất mơ hồ này.

Nghị luận là dùng lý lẽ để nhận biết đúng sai, từ đó mà đánh giá, khen chê tốt xấu.

Trong đời thường, chúng ta luôn luôn dùng tới lý lẽ, nghĩa là dùng lập luận mà không cần biết tới những “phương pháp” hay “thao tác”  nào cả. Sách Tiếng Việt  lớp 3, tập I,  đã có những ví dụ như vậy. Bài đọc Dại gì mà đổi (TV 3, I) đại ý: Có đứa con nghịch ngợm. Người mẹ dọa con:

Mẹ:  - Mẹ sẽ đổi con lấy đứa bé ngoan.

Con: - Mẹ không đổi được đâu. Chẳng ai dại gì đổi đứa bé ngoan lấy đứa con nghịch ngợm đâu.

 Qua cặp thoại trên, người mẹ nêu một ý kiến, đứa con đã lập luận (= chứng minh) rằng ý kiến đó sẽ không thực hiện được (tức là bác bỏ ý kiến người mẹ) bằng một  lý lẽ rất đúng và thông minh. Khái quát của lý lẽ  này là người ta “chỉ đổi cái của mình lấy một cái tốt hơn”. Biết lý lẽ này sinh viên thấy được cái hay và thông minh của nhiều truyện dân gian. Như: “Khi cha mẹ mất đi, hai anh em chia gia tài. Không ai chịu nhận phần của mình vì cho rằng phần kia nhiều hơn. Hai anh em kéo nhau lên quan. Quan xử: Vậy thì đổi phần cho nhau, cả hai sẽ đều được phần hơn.” Biết được lý lẽ (thường là ngầm ẩn) của một câu nói, của một đoạn văn sinh viên sẽ nhận ra được ý tứ sâu sắc của chúng.

4.             Những “thao tác” LL trình bày trong NV vừa thừa lại vừa thiếu

Nhằm thuyết phục triều đình cho mở khoa Luật,  Nguyễn Trường Tộ viết điều trần Xin lập khoa luật (trích Tế cấp bát điều – tám việc cần làm  gấp),  ông đã lập luận về sự cần thiết của luật pháp. Bình luận là nhận định, bàn rồi đánh giá về một sự kiện. Đó là  lập luận.  Có cần “thao tác”  LL bình luận (tập II, tr.71)  như    NV 11  không?

Thông thường, chúng ta   LL để khẳng định điều mình nhận định. Khi tranh luận,  phủ định nhận định của đối phương,  tức là bác bỏ ý kiến đó.  Sách NV trình bày cả một tiết về “thao tác” LL bác bỏ, nhưng lại bỏ qua  những cách  bác bỏ đặc biệt hay dùng. Trong tâm thức người Việt nổi lên hàng đầu là phạm trù lễ. Tiên học lễ, hậu học văn. Vì vậy trong giao tiếp bình thường ít khi xảy ra những bác bỏ thẳng thừng, trực tiếp động chạm tới thể diện người nghe. Người ta thường chọn hình thức bác bỏ gián tiếp theo kiểu “ý tại ngôn ngoại”. Hình thức này nhất thiết dùng khi nói với vua chúa thượng cấp. Bởi vì “Ai còn nói trái ý, ta chém!”. Hình thức hay dùng nhất là phương pháp hỏi nhằm tạo ra lời khuyên để bác bỏ ngầm ẩn[1].  Ví dụ:

 “Con ngựa quý của Tề Cảnh Công bỗng nhiên ốm chết. Vua Tề vô cùng giận dữ, hạ lệnh chặt chân tay người coi ngựa. Nhiều người  can ngăn lệnh bạo sát vô lý này. Tội để ngựa chết chưa nặng đến mức phải chặt chân tay. Vua Tề hăm đe: Ai dám xin cho nó nữa sẽ bị giết. Quần thần xanh mặt , không ai dám hé răng nữa. Để cứu người coi ngựa, Tề Án Anh  nghĩ ra một mẹo để vua bác bỏ mệnh lệnh của chính mình. Ông túm tóc người coi ngựa, giơ kiếm lên rồi “luận tội”: “Ngươi nuôi ngựa làm ngựa chết. Đấy là tội thứ nhất. Ngươi làm nhà vua vì ngựa chết mà giết người, trăm họ mà biết tất sẽ oán hận vua. Đấy là tội thứ hai. Chư hầu biết việc này tất sẽ khinh nước ta. Đấy là tội thứ ba.” Những lý lẽ này rõ ràng  không thuyết phục.  Nhưng rồi ông quay hỏi vua Tề:

“Tâu Đại vương, có một điều chưa rõ, xin Thánh thượng dạy. Thời Nghiêu Thuấn xưa, khi các bậc vua hiền minh này chặt chân tay người, không biết là chặt bên nào trước?”

Lát sau vua Tề đành khoát tay bảo: “Tướng quốc đừng nói bóng gió ta nữa. Không chặt chân tay nó nữa là được chứ gì? Vua Tề đã hiểu ra hàm ý khuyên vua trong  lời chất vấn trên qua quá trình LL sau:  Nghiêu  Thuấn là những vua hiền. Mà vua hiền thì không có hình phạt chặt chân tay. Vậy thì (có lý lẽ): Ai  dùng hình phạt chặt chân tay sẽ  không phải là vua hiền. Không vua nào muốn thành vua ác. Ông đành tự bác bỏ mệnh lệnh của mình. Thế là  câu hỏi (chất vấn) cũng là một phương pháp bác bỏ. 

5.          Dạy lập luận là dạy về lý lẽ

       5.1. Có rất nhiều loại lý lẽ

Có muôn mặt quan hệ xã hội và quy luật tự nhiên nên cũng có vô vàn lý lẽ về những quan hệ ấy.

Có những lý lẽ liên quan đến đặc điểm dân tộc. Như “Với người Pháp, ai thu hút được nữ giới, gương mặt đó đương nhiên là thành công” (TTCN, số 26, 2000). Hoặc:

“Qua vụ án tình dục với cô thư kí  Monica, người dân Mỹ vẫn tín nhiệm tổng thống B. Clinton bởi vì “điều tra dư luận , cho thấy lý lẽ của người Mỹ là như sau: Ông ta làm   tốt công việc của mình, cuộc sống tình dục riêng tư của ông ta không phải là chuyện của họ mà là của Hillary, mà bà ta không than phiền gì …thì thôi” (TT, 18.8.98)

Có những lý lẽ liên quan tới đặc điểm xã hội, tùy tầng lớp người, tùy con người, tùy phong tục, tùy xã hội, tùy quan điểm, lại có kiểu lý lẽ theo thang độ,  lý lẽ theo tướng mạo, hình dáng (trông mặt mà bắt hình dong; Đi đứng hấp tấp là tướng vất vả/ Đi đứng thong thả là tướng an nhàn/ Đi đứng vững vàng là người phúc hậu), hay lý lẽ theo tuổi tác. (Ngần này tuổi đầu tôi mà không biết cái nào lợi cái nào hại à? (Phim Đường đời, tập 22) Câu trên dựa theo lý lẽ  càng nhiều tuổi càng biết  phải trái.

Lại có lý lẽ theo số đông. Ví dụ: Buổi công diễn đầu tiên vở Vũ khí và con người  của Kêmôda rất thành công. Cuối buổi, khán giả yêu cầu ông ra sân khấu để giao lưu. Khi Kêmôda vừa bước lên sàn diễn thì có tiếng hét: 

-         Kêmôda, vở kịch dở lắm, chẳng ai thèm xem đâu.

Nghe tiếng hét đó, Kêmôda chào người đó rất lịch sự và nói:

-         Anh bạn nói đúng đó. Tôi cũng nghĩ vậy. Có điều, chỉ hai chúng ta phản đối tất cả những người ngồi đây thì đâu có được. Làm sao mà cấm diễn vở kịch này được. (Theo NTG, 105)

Cái tài ở đây là bình thản tiếp nhận, giả vờ đồng ý, rồi dùng một lý lẽ sắc bén lật ngược lại vấn đề: cái đúng thuộc về số đông.  

Lưu ý: Lập luận quy  nạp (không hoàn toàn) cũng là loại lập luận theo số lượng: Căn cứ vào số lượng quan sát bộ phận  rút ra kết luận cho tổng thể.

Ví dụ: Ở phố Bà Triệu trước kia chỉ có một hàng “lạc bà Vân” nổi tiếng. Nay có “lạc bà Vân xịn”, “lạc bà Vân chính gốc”, “lạc bà Vân thật 100%”…và có vô số quán “lạc bà Vân xịn”,  “lạc bà Vân chính gốc”, “lạc bà Vân thật 100%”… và vô số biển hiệu “phở gà thật”, “quán ông già thật”, “tẩm quất thật”… “Có phải bây giờ người ta đang nói dối nhau nhiều quá nên ở đâu cũng phải giăng ra những biển hiệu gắn liền với chữ “thật”? (Phan Đăng, TT, 02.5.2012)

Đoạn văn trên là lập luận theo phương pháp quy  nạp mà kết đề khái quát là: Khi người ta nói dối quá nhiều thì trên hình thức (lời nói, biển hiệu) phải giăng ra những  chữ “thật”. Hệ quả là trong xã hội ngày nay hình thành loại “ngôn ngữ gỗ” (langue de bois):  Vấn đề này sẽ  “xử lý nghiêm, xử lý kiên quyết, xử lý triệt để, xử lý không khoan nhượng…”. Những câu nói cửa miệng này đáng tin được mấy phần trăm?

 Có nhiều lý  lẽ cho một hiện tượng:

“Là con trai cả của Nguyên Đế Đông Tấn, Tư Mã Chiêu ngay từ nhỏ đã vô cùng thông minh, được Tấn Nguyên Đế  rất yêu quý. Năm đó, Tư Mã Chiêu mới lên 9. Một hôm cậu cùng cha dạo chơi thì thấy một viên quan từ Trường An đến kinh đô. Tấn Nguyên Đế  buột miệng hỏi:

-         Con nói xem, mặt trời và Trường An nơi nào gần chúng ta hơn?

Tư Mã Chiêu trả lời ngay:

-         Trường An gần chúng ta hơn.

-         Căn cứ vào đâu mà con nói vậy?

-         Con thường chỉ nghe nói từ Trường Anh đến kinh thành, chứ không nghe ai nói có người từ mặt trời đến, do vậy Trường An gần chúng ta hơn.

Ngày hôm sau, Tấn Nguyên Đế  mở tiệc chiêu đãi quần thần. Giữa bữa tiệc ông gọi Tư Mã Chiêu đến bên, xoa đầu con hỏi:

-         Con ngoan, con hãy nói cho mọi người biết Trường An hay mặt trời gần chúng ta hơn?

-         Tư Mã Chiêu ngẩng đầu lên nhìn các quan đang ngồi chật kín triều tiệc, dõng dạc nói:

-         Mặt trời gần chúng ta hơn.

Nghe vậy Tấn Nguyên Đế  rất thất vọng nói với con:

-         Cái thằng này, hôm qua  con chẳng nói Trường An gần chúng ta hơn đó sao! Tại sao hôm nay con lại trả lời khác đi vậy?

Tư  Mã Chiêu cười hì hì:

-         Chúng ta chỉ cần ngẩng đầu lên là thấy ngay mặt trời (Vua là “mặt trời”). Nhưng làm thế nào thấy ngay Trường An được? Cho nên con nói mặt trời gần chúng ta hơn.

Tục ngữ là lý lẽ. Lý lẽ thì muôn hình vạn trạng, có thể tìm thấy cách nói ngắn gọn tương đương ở dạng tục ngữ. Để nói “lòng dạ con người thay đổi khôn lường”, chúng ta có câu ca dao-tục ngữ “Mai mưa, trưa nắng, chiều nồm/ Trời còn thay đổi huống mồm thế gian”. Có hàng loạt tục ngữ nói về quan hệ nhân quả. Bình luận về một con người bạc ác, hay hãm hại người khác, chúng ta nói Nó hay hại người, tất có người hại nó. Câu này là lập luận dựa trên lý lẽ về thuyết nhân quả “gieo gió thì gặt bão”, “sinh sự thì sự sinh”. Một gia đình trước kia giàu có, quyền cao chức trọng nhưng ăn ở với mọi người không ra gì, hống hách, kiêu bạc… sau đó đời con cháu bị sa sút, trở nên nghèo hèn, người ta có thể bình luận Đời cha ăn mặn, đời con khát nước mà”. Có hàng loạt những lời ngợi khen chê trách, ban thưởng hay trừng phạt, khuyến khích hay can ngăn… cũng đều dùng tới lý lẽ về quan hệ nhân quả “có chí thì nên”, “có công mài sắt có ngày nên kim”, “hay đi đêm tất có ngày gặp ma”, “giậu đổ bìm leo mà !”…

Tục ngữ  phản ánh nhận thức con người về quy luật xã hội và tự nhiên, quy luật về những mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng. Chúng là lý lẽ, triết lý của một cộng đồng xã hội, của một dân tộc. Vì vậy tục ngữ là kho tàng lý lẽ về mọi phương diện của cuộc đời người sống trong trời đất.

 5.2.   Dạy kỹ năng phân tích lập luận cho học sinh, sinh viên là dạy tìm ra tiền đề, lý lẽ kết đề của một lập luận. Sách NV   ít  chú ý tới lý lẽ ,  điều không thể không nhấn mạnh  khi trình bày về lập luận. 

Tìm ra lý lẽ trong một lập luận có tầm quan trọng đặc biệt. Không tìm ra được lý lẽ trong một lập luận là chưa hiểu lập luận đó. Tìm ra lý lẽ ngầm ẩn, những lý lẽ không tường minh, của một lập luận là việc không đơn giản. Đặc biệt thú vị là những lập luận mà từ những tiền đề khác nhau lại dẫn tới cùng một kết đề hay là từ một tiền đề lại dẫn tới những kết đề khác nhau. Để xác định được tiền đề, lý lẽ kết đề của một lập luận cần có kỹ năng phân tích cấu trúc câu.

Chúng ta nêu vài ví dụ:

Ví dụ 1: Từ hai tiền đề đối lập nhau cùng dẫn tới một kết đề. Có hai ông bố khuyên con.

Ông A: (1) “Xưa nay, nhà mình ai cũng đậu đại học. Cho nên, kỳ này thằng Út phải ráng mà  đậu đại học.”

Ông B: (2) “Xưa nay, nhà mình chẳng ai  đậu đại học. Cho nên, kỳ này thằng Út phải ráng mà  đậu đại học.”

Cả hai lời khuyên trên đều là những lập luận xuất phát từ những tiền đề trái ngược nhau nhưng lại cùng đi tới một kết đề. Lời khuyên nào nghe cũng thuận tai, cũng có lý. Chúng đều có sức thuyết phục.

Lý lẽ của ông A là: Phải giữ truyền thống gia đình.

Lý lẽ của ông B là: Gia đình có người học đại học thì mới ngẩng mặt lên được với làng xóm.

Đặt  những lý lẽ này xen giữa tiền đề và kết luận trong LL của mỗi ông bố chúng ta đi tới những LL đầy đủ:

 Ông A: “Xưa nay, nhà mình ai cũng đậu đại học. Phải giữ truyền thống gia đình. Cho nên, kỳ này thằng Út phải ráng mà  đậu đại học.”

Ông B: “Xưa nay, nhà mình chẳng ai  đậu đại học. Gia đình có người học đại học thì mới ngẩng mặt lên được với làng xóm. Cho nên, kỳ này thằng Út phải ráng mà  đậu đại học.”

Ví dụ 2: Cùng một kiểu quan hệ, có hai lý lẽ ngược nhau.

           Với quan hệ “là bạn”, người này coi là có tính “bắc cầu”, nhưng người khác lại phủ định tính chất bắc cầu. Và cả hai đều có thể chấp nhận được.

Một cô gái lập luận rằng “là bạn” có tính chất “bắc cầu”, để bào chữa cho những hành vi thân mật quá mức của mình khiến bạn trai cô ta ngờ vực:

(1) Anh ấy là bạn thân của anh mà anh lại là bạn của em, cho nên em coi anh ấy cũng như là bạn của em chứ sao!

   Một cô gái khác lại phủ định tính chất bắc cầu của quan hệ “là bạn” để biểu hiện sự bực bội, ghen tuông:

(2) Anh nên nhớ anh là bạn của em, còn cô Oanh là bạn của anh, nhưng không vì thế mà cô ta thành bạn của em được đâu!

5.3. Vai trò của từ hư trong xác định lý lẽ ngầm ẩn

          Trong không ít trường hợp, lý lẽ không được nói ra một cách hiển ngôn. Lúc đó, để xác định được lý lẽ cần chú ý tới những quan hệ lô gích-ngữ nghĩa giữa các vế câu và các từ hư.  Qua các từ hư, chúng ta có thể dễ dàng tìm ra được lý lẽ ở những vế câu trực tiếp có liên quan với chúng.   Một số ví dụ:

(1) Lập luận qua một cặp thoại

“A: Anh bảo con chó này khôn lắm nhưng tôi chẳng thấy nó hiền.

 B: Nhưng tôi bảo là nó khôn chứ có bảo là nó hiền đâu.”

            Hàm ý trong lời của A là khẳng định: Con chó này không khôn như anh nói. Nó chẳng hiền. Nhờ từ nhưng mà chúng ta biết được lý lẽ của A: “Con chó chẳng hiền thì không khôn”, tức là  “con chó khôn thì hiền”.

      Từ nhưng mở đầu  lời của B là một tín hiệu bác bỏ lời A nói. Vế đầu, B nhắc lại lời đã nói (tôi bảo là nó khôn) nhằm khẳng định “đúng là tôi đã nói vậy”. Từ chứ trong vế thứ hai, là một tín hiệu B bác bỏ hàm ý của A (anh bảo nó hiền mà nó chẳng hiền). B bác bỏ theo cách chất vấn: (tôi) “có bảo là nó hiền đâu”. B xác nhận con chó của mình khôn và không hiền dẫn tới bác bỏ  lý lẽ của A coi “hiền” là một điều kiện cần của “khôn”: (Con chó chẳng hiền thì không khôn).  Trong đoạn đối đáp trên, tác tử nhưng liên kết với lượt lời thứ nhất và đóng vai trò của một kết tử biểu hiện hành vi bác bỏ để dẫn tới hành vi khẳng định.

(2) “Có lần Nguyễn Khải tâm sự: “Cha Phùng Quán ghê lắm. Hồi ấy lão có tí tuổi đầu, nghe người ta kể làm được cái  Vượt Côn Đảo hay đến như thế.” Một ngòi bút tầm cỡ như Nguyễn Khải mà còn bái phục Vượt Côn Đảo thì không thể xem thường” (Trần Đăng Khoa; Chân dung và đối thoại,270)

Câu thứ nhất của Nguyễn Khải, khen “Phùng Quán ghê lắm”. Câu thứ hai là một lý lẽ chứng minh cho lời khen này. Ở đây, từ là một tín hiệu  nghịch nhân quả. Vế sau khen “Vượt Côn Đảo hay đến như thế” nên vế đầu phản ánh một điều khiến người ta nghĩ rằng theo lẽ thường thì không thể hay đến như thế. Cái lẽ thường này liên quan đến hai cụm từ “có tí tuổi đầu” và “nghe người ta kể”. “Có tí tuổi đầu” liên quan đến lý lẽ về thang độ:

1)     Về nhận thức và kinh nghiệm sống  thì trẻ không bằng già.

Còn “nghe người ta kể” cũng liên quan đến lý lẽ về thang độ:

2)     “Trăm nghe không bằng một thấy”. Cái thấy quan trọng hơn, có giá trị hơn cái nghe rất nhiều..

Cả hai lý lẽ trên đồng hướng và bổ sung cho nhau khiến người ta nghĩ rằng (tức là dẫn tới kết đề) như thế thông thường sẽ không có tác phẩm hay được. Từ trỏ quan hệ nghịch nhân quả nên đã đảo hướng lập luận.  Kết quả là lập luận của Nguyễn Khải có thể trình bày lại như sau: Chỉ mới tí tuổi đầu và chỉ mới nghe mà đã hay vậy, nếu trưởng thành và nếu thấy thì còn viết hay hơn nhiều: cha Phùng Quán ghê lắm, giỏi lắm!

Câu thứ ba là lập luận của Trần Đăng Khoa lý lẽ theo uy tín và sắp xếp sự vật theo thang độ:  Nguyễn Khải là ngòi bút tầm cỡ trong làng văn. Ông bái phục Vượt Côn Đảo. Vậy những người khác trong làng văn xếp không hơn ông, cũng phải bái phục (không thể xem thường). Khái quát của lý lẽ theo thang độ này như sau: “A xếp trên B. A  đánh giá thế nào thì B cũng phải/nên đánh giá thế ấy”.

(3) Trong cuộc thi tài năng âm nhạc  Vietnam Idol, ca sĩ Siu Black ngồi trong ghế giám khảo.  Khi thí sinh Sơn Lâm (khuyết tật) bị loại, Siu Black  nói: Nếu trong chương trình của người khuyết tật, em muốn hát cho mọi người nghe, em sẽ thành công”

Sơn Lâm phản ứng: “Giám khảo nên nhớ, tôi đã có hai bằng đại học” (theo Vnexpress, 17.7.2010) Siu Black cho rằng cô rất cảm kích, nên ngay sau khi Sơn Lâm hát, cô có nói “chị có thể ôm em được không?” và nói tiếp một  câu động viên nhưng Sơn Lâm lại cho rằng câu nói trên đây xúc phạm tới người khuyết tật nên đã gửi đơn kiện đến các cơ quan có thẩm quyền.

Phân tích: Trong chương trình cho người bình thường (không khuyết tật) em  không thành công. Nhưng [Nếu] trong chương trình của người khuyết tật, em sẽ thành công”. Câu trên bộc lộ một lý lẽ ngầm ẩn: Sự thành công của giọng hát được xếp theo thang độ. Cùng một giọng hát, không thành công ở mức A (bình thường) nhưng thành công ở mức B (khuyết tật) thì  mức độ B thấp hơn mức độ A. Suy ra: giá trị thành công ở cấp độ người khuyết tật thì thấp hơn giá trị thành công đối với người bình thường.  Sơn Lâm phản ứng là phải.

5.4   Không có thói quen lập luận có lý lẽ thì sẽ thành thói quen lập luận quyền uy.

Trong cuộc sống chúng ta thường thấy những lập luận đưa ra những kết luận mà không có lý lẽ gì, hoặc dựa trên những lý lẽ hoàn toàn không thuyết phục. Những lập luận này được gọi là “lập luận chụp mũ”. Đây là lối lập luận của những người mà lẽ phải không  thuộc về họ, nhưng họ có quyền phán xét. Vua chúa chẳng hạn. Đây cũng là lối lập luận của người không có trình độ hoặc những người có trình độ và biết rằng không thể kết luận như vậy nhưng vì mục đích vụ lợi họ vẫn kết luận như vậy. Những quần thần trong truyện ngắn “Bộ quần áo mới của Hoàng đế” của Andersen đồng thanh khen bộ quần áo mới của nhà vua thuộc trường hợp thứ hai này. Trong một xã hội dân trí thấp và không được tự do tranh luận thì thường xảy ra những lập luận kiểu chụp mũ này. Xin nêu một ví dụ:

Đạo diễn Trần Văn Thủy kể lại đã từng bị “điêu đứng” khi làm phim “Hà Nội trong mắt ai”. Những lời bình của T.V. Thủy trong phim này khiến anh bị kết tội. Phim vừa mới ra đời đã bị bầm dập không tưởng tượng nổi. Lời bình phim như sau:

“Đến phố Hàng Bột, tạt vào chùa Huy Văn, xưa gọi là điện Huy Văn. Ta gặp lại Lê Thánh Tông, gặp lại những chuyện kể mà người đời nay còn phải nhiều ngẫm nghĩ. Bởi từng có thời thơ ấu gian nan, chịu nhiều oan trái hay bởi chữ TÂM mà xưa trên mảnh đất này, nơi vườn hoa Cửa Nam bây giờ, năm 1491, Lê Thánh Tông đã cho dựng đình Quảng Văn, trong đình đặt trống Đăng Văn để ai có điều gì oan khuất, đến nơi bày tỏ, đến đây đánh lên ba hồi trống, nội quan ra nhận đơn và nhà vua sẽ xét xử.” Luận về các thời phong kiến xưa, các sử gia góp rằng “giá như thời hậu Trần hay thời Lê mạt mà đặt trống Đăng Văn ở đây thì dân chúng quanh vùng sẽ phải đinh tai nhức óc.”

Và Trần Văn Thủy than: “Khốn nạn quá! Cái chữ xưa, sau này làm mình điêu đứng. Người ta thẩm vấn: Thế thì tại sao không phải là thời phong kiến mà lại là thời phong kiến xưa? Anh nói thế là có thời phong kiến nay à? Rồi thì “Lê mạt là Lê nào?” (TT, 26.5.2013)

           Người ta thẩm vấn như vậy vì họ không tìm ra được những lý lẽ thuyết phục để chứng minh rằng lời bình này có hàm ý xấu. Những kết luận đó dựa trên phán xét “viết như vậy là có ám chỉ  xấu”. Nhưng “Không có quy tắc ngôn từ hay lô gích để xác định lời nói A cốt ám chỉ B. Người ta hiểu ngầm lời ám chỉ đó nhưng không có cớ để bắt lỗi”. Không có cớ để bắt lỗi nhưng người có quyền thì vẫn có quyền bắt lỗi mà không cần lý lẽ. Đó là những lập luận quyền uy. Mặc dù người ta biết rằng trong lịch sử Việt Nam có 3 thời Lê, Lê sơ, Lê trung hưng Lê mạt nhưng tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam lúc đó họ Lê, nên họ “suy ra” Lê mạt mang dụng ý ám chỉ, xỏ xiên nên mới chất vấn “Lê mạt là Lê nào?”Thế là hình thành những bản án không có văn bản công khai, thậm chí chỉ là những bản án miệng.

5.5.   Cần dạy sinh viên biết phương pháp suy luận hình thức để tìm ra lý lẽ một cách chặt chẽ .

Ví dụ (1):  Chúng ta quan sát lập luận của Thúy Kiều tha hay không tha Hoạn Thư: “Tha ra thì cũng may đời /Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen” Phân tích hình thức lý lẽ của Thúy Kiều:

Trong lô gích có tam đoạn luận: Từ hai tiền đề [(a Þ b) & không  muốn a]. Chúng ta suy ra kết đề “đừng b”(cũng là không  nên b)

a = làm ra = không tha; b = mang tiếng con người nhỏ nhen;

Tiền đề 1trong lập luận trên là: Nếu không tha thì sẽ mang tiếng con người nhỏ nhen.

Tiền đề 2 là lý lẽ ngầm ẩn: Kiều không muốn mang tiếng con người nhỏ nhen.

Theo tam đoạn luận trên, kết đề sẽ là: đừng không tha  = không nên không tha = nên tha. Và Kiều đã tha Hoạn Thư.

Ví dụ (2): Quy tắc phát hiện kẻ phạm tội (thường gặp) trong truyện dân gian.

“Một anh hàng dầu mất tiền. Anh ta nghi cho một người mù. Hai bên cãi nhau náo loạn. Quan bắt tra xét rồi bảo người “mù” bỏ tiền của mình vào nước. Thấy có  váng dầu nổi lên mặt nước quan liền kết luận: người giả mù này đã ăn cắp tiền  của anh hàng dầu.”[2]

Cách xử kiện này chứng tỏ quan đã lập luận như sau:

1)     Chỉ  tiền của anh hàng dầu (thì) mới dính  dầu.

2)     Chỉ  tiền dính  dầu  (thì) khi  cho vào nước mới nổi váng dầu.

Từ chỉ trong  lý lẽ  1) và  lý lẽ  2)  cho thấy đó là lý lẽ về điều kiện đủ duy nhất[3].

Vậy 1) tương đương với: “Tiền của anh hàng dầu sẽ dính dầu còn tiền không phải của  anh hàng dầu sẽ không dính dầu”. Tức là:  

(1)    (a Þ b)

(2)    (~a Þ ~b)

ở đó: a = tiền của anh hàng dầu; b = tiền  dính  dầu.

Tương tự, 2) tương đương với:

(3)    (b  Þ c)

(4)    (~b  Þ ~c)

      ở đó:  b = tiền dính  dầu;  c =  tiền nổi váng dầu (khi  cho vào nước).

       Kết hợp (2) và 4), ta được hai tiền đề của phép suy luận HS (hypothetical Syllogism):

               (~ a Þ ~ b) Ù ( ~ b  Þ ~ c ).  Từ đây, theo suy luận  HS, tức là suy luận bắc cầu, chúng ta  suy ra: 

           (5)   (~ a Þ ~ c)

 Theo tính chất phản đảo (trong phép kéo theo), (5) tương đương với (6):

(6)   c Þ a   

      Nghĩa là: đồng tiền nào khi cho vào nước mà nổi váng dầu (thì) sẽ là tiền của anh hàng dầu.

      (7)    c       (thực tế thấy tiền nổi váng dầu)

             Tam đoạn luận modus ponens (suy luận theo điều kiện đủ) như sau:

[(c  Þ a)  Ù c] Þ a

(6) và (7) là hai tiền đề của tam đoạn luận trên. Vậy suy ra  kết đề   a (=  là tiền của anh hàng dầu).  Vậy thì: Người “mù” này đã ăn cắp tiền của anh hàng dầu

Phương pháp  phát hiện kẻ phạm tội trong hàng loạt truyện dân gian Việt Nam và thế giới đều theo khuôn này.

6.      Kết luận  

            Trong đời thường, chúng ta luôn luôn dùng lập luận. Bởi vậy, lập luận có tầm quan trọng đặc biệt trong chương trình ngữ  văn. Khi dạy lập luận, phần quan trọng nhất là tìm cho ra lý lẽ của một lập luận.  Hiện nay chúng ta muốn nâng cao trình độ tư duy, năng lực phân tích, óc phê phán của sinh viên, nên phần lập luận càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Lập luận cần được dạy xuyên suốt trong chương trình  ngữ  văn.

 

TÓM TẮT

Bài này đề cập tới một vài điều chưa chuẩn về khái niệm lập luận trình bày trong SGK ngữ  văn trung học phổ thông.

Bài này nhấn mạnh, dạy lập luận là dạy về lý lẽ. Có tìm ra được lý lẽ trong một lập luận, nhất là những lý lẽ ngầm ẩn, mới hiểu được bản chất của lập luận đó. Tìm ra được lý lẽ một cách chính xác cũng là một yêu cầu quan trọng trong phân tích lập luận.



[1] ) Có th tham kho bài tôi viết “Phương pháp hỏi – một nghệ thuật lập luận”, tạp chí Kiến thức ngày nay, số 450, ngày 10.02.2003, trang 42 – 47.

[2] Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cỏ tích Việt Nam, tập 3

[3]) Thực ra  ở 1) đã bỏ qua một ngoại lệ: người mua dầu đưa tiền quan và anh hàng dầu trả lại những đồng tiền lẻ bằng trinh  thì tiền trinh của người này cũng dính dầu.

 

 GS. TS Nguyễn Đức Dân

Bài đăng trong Kỷ yếu hội thảo NNH 2013 của ĐHSP Hà Nội.

Danh mục website