Xuân đến - Bồ tát Di Lặc ban phúc lộc

Ngày nay, người ta quá quen thuộc hình ảnh có ông già Noel xuất hiện trên mọi phố phường để phát quà và đem đến nhiều điều ước nguyện cho mọi người nhân dịp mừng lễ Giáng sinh và đón mừng Tết Dương lịch trong văn hoá của cộng đồng phương Tây. Thật ra, từ lâu lắm rồi, trong văn hoá của cộng đồng phương Đông, hầu hết các nước có người dân theo Phật giáo cũng đã có hình ảnh Bồ tát Bố Đại (tiền thân của Bồ tát Di Lặc), hằng ngày thường dùng gậy để gánh một túi vải, chứa đựng các phần quà đi phân phát cho mọi người, nhất là trẻ em. Ngài đi đến đâu trẻ em quanh quần đến đó, người lớn thì hân hoan chào mừng vui vẻ, bởi vì bao ước nguyện cầu phúc, cầu lộc, cầu bình an trong tâm linh con người được Ngài khai mở để hoá thành hiện thực. Do đó, cứ mỗi lần Ngài xuất hiện, người ta thấy Ngài chỉ đem đem đến chuyện phúc lộc dồi dào, sự an lành, hoan hỷ trước những biến động vô thường của cuộc sống thường nhật.

Chính lẽ đó, hằng năm cứ dịp xuân về tết đến, dù người có theo đạo Phật hay không theo, ai cũng nô nức kéo nhau lên chùa, nhất là từ thời khắc giao thừa cho đến những ngày về sau để được nhìn thấy hình tượng Ngài cười hoan hỷ, được hái lộc đầu năm, mở đầu cho sự an khang thịnh vượng quanh năm suốt tháng. Ngài trở thành biểu tượng cho sự hoan hỷ, phúc lộc tràn trề, lòng thương yêu vô hạn trong tín ngưỡng tâm linh của người dân theo đạo Phật ở các nước phương Đông. Đáng kể nhất là các nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, chùa nào cũng tạc tượng Ngài thật lớn với dáng người hoan hỷ, nụ cười tự tại, vai mang túi vải đựng quà, có khi còn có sáu trẻ thơ (lục tặc) đeo quay bụng Ngài và Ngài được tôn trí ngay tại tiền sảnh Chánh điện để ai khi bước chân vào chùa là đều đón nhận được cội nguồn phước thiện vốn sẵn có trong tâm linh con người mà thực thi hành trì nhằm chia bùi sẻ ngọt, trên hết là đem lại sự bình an nội tại.

Theo Cảnh Đức truyền đăng lục, quyển 27, kể từ khi Ngài thị hiện ở đời trong vai trò là vị tăng họ Thị, tự xưng là Khế Thử, hiệu Trương Đình Tứ, sống ở Phụng Hoá, thuộc Minh Châu (tỉnh Chiết Giang) Trung Quốc vào đời Lương, thời Ngũ Đại thì Ngài đã được người gọi là Bố Đại hoà thượng. Cũng dễ hiểu, vì hành trạng của Ngài, quanh năm suốt tháng chỉ đi khắp mọi nơi, trên khắp mọi nẻo đường thuyết pháp bằng thân giáo. Với dáng người béo phì, mày rậm bụng to, lời nói tự tại và ngủ nghỉ ở bất cứ nơi nào. Ai cúng gì Ngài đều cho vào túi vải rồi đi phân phát ban lộc cho mọi người. Điểm đáng nói là  ngoài sự đem lại nguồn vui cho trẻ em, người lớn được an bình thì Ngài thường “dự báo chính xác thời tiết và chỉ dạy thiết thực cho người việc tốt nên làm, việc xấu tránh xa để khỏi bị hậu hoạ”.

Cũng theo tài liệu này, tháng 3 năm 917, đời nhà Lương, khi sắp tịch Ngài ngồi ngay thẳng trên bàn thạch dưới Đông Lang ở chùa Nhạc Lâm mà nói bài kệ:

“Di Lặc thật Di Lặc

Phân thân thiên bách ức

Thời thời thị thời nhân

Thời nhân tự bất thức”

(Di Lặc thật Di Lặc

Phân thân nghìn trăm ức

Luôn luôn chỉ dạy người

Người đời không tự biết) (Đại 51, 434 trung)

Nói xong, Ngài an nhiên thị tịch. Về sau, có ngời ở châu khác gặp Ngài mang túi vải đi lại đó đây. Người đời cho là ứng thân của Bồ tát Di Lặc.

Điểm đáng nói nhất là từ khi Ngài viên tịch, hình ảnh của Ngài Bồ tát Bố Đại không chỉ trở thành biểu tượng cho sự hoan hỷ, phúc lộc, yêu thương trong sinh hoạt văn hoá tâm linh cộng đồng của người phương Đông mà nó còn được nâng lên trở thành “Tín ngưỡng Di Lặc” đối với những nước theo tín ngưỡng Phật giáo. Tín ngưỡng này được phát triển nhanh chóng, lan toả khi người ta căn cứ vào xuất xứ từ kinh điển và lòng tin bất động của người dân theo đạo Phật để thiết lập.

Theo truyện Pháp Thạnh trong Danh tăng truyện sao, sau khi Phật diệt độ 480 năm có A la hán A lợi nan đà bay lên cõi trời Đâu suất vẽ tượng Di Lặc, rồi Ngài đến phía Đông Bắc nước Ưu Trương (nước Đa Lịch trong Phật Quốc ký) tạo một tượng Di Lặc lớn bằng gỗ ngưu đầu chiên đàn. Truyện Linh Vân trong Đại Đường Tây Vực cầu pháp cao tăng truyện, quyển hạ, chùa Na lan đà và nơi cây Bồ đề Phật Thành đạo, về phía Đông có tinh xá thờ tượng Bồ tát Di Lặc bằng bạc cao hơn 10 mét.

Ở Trung Quốc, những kinh điển liên quan đến tín ngưỡng Di Lặc đã được các cao tăng phiên dịch bắt đầu từ thời Tây Tấn., trước sau có hơn 10 loại, có thể quy vào ba hệ thống: Thượng sinh, hạ sinh, bản nguyện. Chẳng hạn, ngay từ năm 303 đời Tây Tấn, ngài Trúc Pháp Hộ dịch kinh Di Lặc Bồ tát sở vấn bản nguyện. Đời Diêu Tần năm 402, ngài Cưu ma la thập dịch kinh Di Lặc hạ sinh thành Phật. Đến đời Lưu Tống Nam triều, Thư Cừ Kinh Thanh dịch kinh Di Lặc Thượng sinh. Đời Đông Tấn, dịch kinh Di Lặc lai thời. Vào năm 508 -535, đời Bắc Nguỵ, ngài Bồ đề lưu chi dịch kinh Di Lặc Bồ tát sở vấn. Đời Đường, năm 701, ngài Nghĩa Tịnh dịch kinh Di Lặc Hạ sinh thành Phật…Việc chư Tăng giáo hội tăng già chú trọng phiên dịch các tài liệu kinh điển nói trên, chứng tỏ tín ngưỡng Di Lặc hình thành và phát triển rất phổ biến và y cứ vào cơ sở chính thống.

Cũng từ việc phiên dịch và phổ biến khai thác các tài liệu kinh điển này mà tự thân nó định hình hai trường phái tín ngưỡng. Phái Tín ngưỡng Thượng sinh thì cho rằng hiện nay Bồ tát Di Lặc đang thuyết pháp độ sinh tại cõi trời Đâu suất. Phái này chỉ ảnh hưởng trong giới trí thức, nghiên cứu dịch thuật, căn trí cao. Người đề xướng và có công lớn hoằng dương truyền bá đầu tiên phải kể  đến là ngài Đạo An (315 – 385), sau đó là Đạo Kiểu, Tăng Nghiệp, Huệ Nghiêm, Đạo Uông, Đạo Pháp, Pháp Thịnh, Đàm Phó, Đàm Võ…Đến đời Đường, các ngài  Huyền Trang, Khuy Cơ cũng hoằng dương tín ngưỡng Thượng sinh Đâu suất và tín ngưỡng này trở thành truyền thống của tông Pháp Tướng. Còn phái Tín ngưỡng Hạ sinh thì chủ trương trong tương lai Bồ tát Di Lặc sẽ xuống cõi đời, thành Phật dưới cội Long Hoa và thuyết pháp ba hội để cứu độ chúng sinh. Thuyết này đã tạo ra đức tin lớn và sự kỳ vọng mạnh mẽ trong tâm thức quần chúng. Vì vậy, nó ảnh hưởng rất mạnh mẽ các tầng lớp từ vua quan cho đến nhân dân lao động trong đời sống sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo bấy giờ.

Theo Xuất Tam tạng ký, tập 12, Pháp Uyển tạp duyên nguyên thuỷ tập mục lục tự, đời Lưu Tống, ngay cả vua Minh Đế (tại vị 465 - 471) đích thân soạn Long Hoa thệ nguyện văn, Châu Ngung soạn Kinh sư Chư ấp tạo Di Lặc tam hội ký, Cánh Lăng Văn Tuyên đời Tiêu Tể soạn Long Hoa hội ký, ngài Nam Nhạc Huệ Tư soạn Lập thệ nguyện văn. Tất cả đều tuyên dương thuyết Di Lặc hạ sinh. Đến đời Ngũ Đại có Bồ tát Bố Đại hoá thân Di Lặc thị hiện thì tín ngưỡng phái càng có ảnh hưởng lớn trong đời sống tín ngưỡng tâm linh quần chúng và lan toả rộng.

Sự thể nhập tín ngưỡng hạ sinh Di Lặc vào trong đời văn hoá cộng đồng sinh hoạt Phật giáo Trung Hoa là việc xây dựng mô hình văn hoá vật thể (thế gian trú trì Tam bảo) bằng cách kiến tạo chùa chiền, dựng tượng Di Lặc thờ tự ở khắp mọi nơi để lại dấu ấn tâm linh lớn trong lòng dân chúng. Đời Nam Tề, khoảng năm 979 – 982, ngài Tăng Hộ có phát nguyện khắc tạo tượng Di Lặc cao 307 mét ở núi Thạch Thành, huyện Diệm, nhưng tâm nguyện chưa thành thì qua đời. Ngài Tăng Hựu tiếp tục hoàn thành và được người đời gọi là Tam thế thạch Phật, Đại Phật huyện Diệm. Đời Bắc Nguỵ, vua Hiến Văn Đế tạo động Di Lặc ở hang thứ 13 Vân Cương Đại Đồng và an trí pho tượng ngồi cao 16 mét. Sau khi dời đô về Lạc Dương, Hiến Văn Đế còn tạo hang động Long Môn, trong đó có hơn 100 pho tượng Phật Di Lặc lớn nhỏ. Ngoài ra, trên các sườn núi Hoàng Thạch ở Lịch Thành, Sơn Đông và ở núi Thiên Phật cũng có nhiều Di Lặc lớn được tạo dựng vào đời Bắc Triều. Đến đời Đường , dưới sự trì vị của Vũ Tắc Thiên, văn hoá tín ngưỡng Di Lặc lên cao trào, phổ cập quần chúng.

Việc Khánh thành chùa, tự viện, tôn trí đại tượng Di Lặc trở thành những Lễ hội văn hoá Phật giáo dưới sự bảo trợ của triều đình để  cầu quốc thái dân an, sự thịnh vượng của  triều đình, dân chúng được phúc lạc vô biên trong ý nghĩa mỗi người là một vị Phật sẽ thành. Vào những ngày này, các nghi lễ Phật giáo được diễn ra dưới sự chủ trì của các cao tăng đại Đường, chư tăng toàn quốc về dự lễ trai tăng cầu phước được tổ chức trang nghiêm hoành tráng, dưới sự kết hợp của Bộ Lễ, chư tăng trong ban Trú trì, Giám viện. Sau đó là lễ chẩn tế âm linh cô hồn, người sống và người khuất đều ân triêm lợi lạc. Hình ảnh chư tăng phát quà sau khi cúng thực chất là hình ảnh Bố Đại mang túi đảy em phước lộc thọ đến mọi người. Cao cả hơn trong ý nghĩa chẩn tế là sự cứu giúp người nghèo khổ. Nhân dịp này, dưới sự bảo trợ triều đình và khuyến giáo của chư tăng, từ vua quan, công hầu bá tước đã phát tâm cúng dường với ngân khoản lớn để bố thí cho đồng bào nghèo khó. Đây cũng là dịp dân chúng hát ca, hoan hỷ thoả lòng, trên hết là tạo ra sự gắn kết giữa Giáo hội, triều đình và dân chúng.

Tín ngưỡng Di Lặc thực sự thể nhập vào đời sống văn hoá con người Trung Hoa, có những lúc tưởng chừng như vượt ngưỡng ra khỏi ý thức của con người. Sử sách đã ghi vào năm 689, Vũ Tắc Thiên sắc cho ngài Pháp Lãng nguỵ tạo Đại vân kinh, cho rằng Vũ Hậu là Di Lặc hạ sinh. Sau đó, các thành phần chống đối nhà Đường, lợi dụng tín ngưỡng Di Lặc mà cử  binh làm loạn như Vương Hoài Cổ  vào năm 713-755, tự xưng Tân Phật (Phật Di Lặc)  đã bị bắt; đời Nam Tống, Bạch Liên giáo trà trộn vào Di Lặc giáo, giả mượn danh Di Lặc hạ sinh để mưu phản. Sau đời Đường tín ngưỡng này không còn thịnh hành như trước nửa dưới sự bảo  hộ triều đình, hình ảnh biểu tượng cho ngài Di Lặc ban phúc lộc như vắng đi, nhưng nó lại thâm nhập vào lòng trong quần chúng qua tín ngưỡng dân gian truyền thống một cách sâu đậm. Nó không chỉ dừng lại Trung Quốc, tín  ngưỡng này bắt đầu lan toả và thịnh hành sang Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam cho đến ngày nay.

Các chùa chiền tự viện đều tôn trí tượng Bồ tát Di Lặc thật lớn và hình tướng thật hoan hỷ, miệng nở nụ cười thể hiện lòng từ vô lượng, ban phúc lành cho chúng sinh trong ý nghĩa như tên gọi khác của Ngài là “Từ Thị”, bụng thật lớn trong tư thế ngồi chễm chệ, hoặc vai mang túi đảy thật lớn, có khi trong tư thế ngồi có sáu hài nhi lục tặc quấy phá mà Ngài vẫn cười ở giữa sân chùa, hay ở tiền sảnh Chánh Điện. Vào dịp xuân về tết đến, nhất là giờ khắc giao thừa cũng là ngày lễ vía của Ngài đầu năm, chư tăng và Phật tử làm lễ đầu năm xướng danh hiệu Ngài và đảnh lễ cầu phúc đầu năm. Sau đó là lễ hái lộc được diễn rất trang nghiêm. Chư tăng kết “cây lộc” để sau lưng Ngài với những phong bì đỏ mà trong đó chứa các câu kinh Pháp cú, Thập thiện, hay những lời Phật dạy ngắn gọn, hoặc những tờ giấy tờ giấy bạc (đơn vị tiền tệ có giá trị biểu trưng tài lộc) để Phật tử hái như khích lệ sự tu hành và khuyến giáo làm các chuyện công đức để cả năm được an khang thịnh vượng. “Hái lộc” đầu năm trở thành “hái phước”, thực thi hành lành kể từ giờ phút thiêng liêng này. Vì niềm tin lớn đối với Ngài mà người đi lễ chùa đã tự mình xoa tay lên chân dung tượng Ngài rồi xoa vào đầu mình như cầu mong Ngài ấn chứng và ban phúc lành. Tập tục lên chùa đầu năm “hái lộc đầu năm” này trở thành lễ hội văn hoá đầu năm không thể thiếu đối với người dân các nước phương Đông hiện nay.

Chưa dừng đó, ở Nhật Bản, dân chúng xem hình ảnh Ngài Di Lặc là Bố Đại được đồng hoá là một trong bảy vị thần phúc thần của dân tộc Nhật, ở Việt Nam có khi người dân còn xem ngài là thần tài, nhà nào cũng thờ, hoặc tôn trí nơi phòng khách để chime ngưỡng, để cầu mong phúc lộc, cầu mong bình an cho cả gia đình. Trên hết hình ảnh ngài Di Lặc hay Bố Đại được thể hiện vào trong nếp sống thường nhật của người dân. Tuy không có sự hoá trang thành Ngài Bố Đại, hay Di Lặc  đi trên đường phố để ban phúc lành, khuyến giáo làm thiện, nhưng hình ảnh các ngài được thể nhập và hoá hiện bằng việc Phật tử động viên nhau làm việc phước thiện và sống hoan hỷ, tuỳ thuận, tuỳ tâm mà mãn nguyện theo tinh thần mà hạnh nguyện ngài Bố Đại tiền thân ngài Di Lặc đã từng sống từng làm:

“Đại đỗ năng dung, dung thế gian nan dung chi sự

Hàm nhan vi tiếu, tiếu thế gian nan tiếu chi nhân”

(Cái bụng lớn có thể dung chứa những việc mà người đời không dung chứa được.

Miệng nở nụ cười mỉm với những điều mà người đời khó có thể mỉm cười được).

Cuối cùng, điều tôi muốn nói, cuộc sống thật nhiệm mầu, con người luôn có những khả năng vô hạn để làm hoá hiện những ước nguyện tốt lành cho mình, cho tha nhân. Tôi cũng như mọi người vẫn mong sao hàng ngày tôi vẫn gặp hình ảnh Ngài Bố Đại hay Di Lặc phân thân nghìn ức thị hiện khắp mọi phố phường. Nhất là những ngày Lễ hội đầu năm, ai cũng được Ngài phân phát quà lộc biểu trưng cho niềm tin và lẽ sống, được góp sức làm việc công đức khi con người đang còn phải đối diện những khó khăn, khổ đau. Có như vậy, xuân về tết đến mới được hạnh phúc an lạc trong Chánh pháp. 

Danh mục website