Nghệ thuật biểu tượng trong thơ thiền Lý-Trần nhìn dưới góc độ nguồn gốc văn hóa

(VH-NN) Khóa luận tốt nghiệp Biểu tượng trong thơ thiền Lý-Trần do sinh viên Trần Thị Tươi (sinh viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ, hệ Cử nhân tài năng khóa 2003-2007) thực hiện, dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Thị Thanh Tâm,  là một trong những luận văn được đánh giá xuất sắc nhất tại hội đồng Văn học Việt Nam năm 2007 với điểm số 10/10. Xin giới thiệu đoạn trích dưới đây nằm trong mục 3.3 . Nghệ thuật biểu tượng trong thơ thiền Lý Trần nhìn dưới góc độ nguồn gốc văn hóa.

Biểu tượng là một phần quan trọng không thể thiếu trong đời sống tinh thần nhân loại. Nó vừa mang những đặc trưng văn hóa chung của từng nền văn minh, tôn giáo, vừa mang những sắc màu riêng của mỗi quốc gia, dân tộc.

Ở thơ thiền Lý-Trần, biểu tượng là sự cộng hưởng giữa văn hóa Phật giáo, với những đặc điểm văn hóa phương Đông, và đặc biệt là được hun đúc trong đời sống tinh thần riêng của con người Việt Nam.Vì vậy, việc tìm hiểu nghệ thuật biểu tượng trong thơ thiền Lý-Trần nhìn dưới góc độ nguồn gốc văn hóa của chúng tôi ở đây, thực chất là để hiểu thêm con đường từ những biểu tượng Phật giáo ban đầu, khi đi vào thơ thiền Lý-Trần đã có một sự kéo dịch khoảng cách, gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân Việt Nam. Sự gần gũi đến mức, có những biểu tượng đã trở thành những lời ru, những câu hát trên môi miệng người dân đất Việt.

Trên bước đường xây dựng nền văn hiến dân tộc, đất nước ta đã biết tiếp thu, dung hợp và chuyển hóa những tinh hoa văn hóa trong khu vực và trên thế giới thành màu sắc văn hóa của riêng mình. Xuất phát từ nhiều nguồn gốc khác nhau (kinh điển Phật giáo, thiền tịch Trung Hoa), nhưng, biểu tượng trong thơ Thiền Lý – Trần không phải là sự sao chép, lặp lại một cách nhàm chán những biểu tượng vốn có trước đó. Trong bản thân mỗi hình ảnh dường như luôn tồn tại một nguồn nội lực mạnh mẽ. Đó là sức sống được chung đúc từ cái hồn thiêng văn hóa dân tộc. Thấp thoáng sau đó, như có bóng dáng ẩn hiện của con người Việt, của nếp sống Việt, và tư tưởng riêng của người dân đất Việt.

Việc tìm hiểu của chúng tôi ở đây, chỉ xin được dừng lại ở ba biểu tượng mà chúng tôi cho rằng từ đó có thể thấy được khá rõ nét đời sống vật chất, văn hóa và tín ngưỡng người dân Việt Nam, đó là: Biểu tượng Hoa sen, trâu bùn, và gương mặt mẹ (bản lai diện mục)


3.3.1. Hoa sen

Như  chúng tôi đã có dịp trình bày ở phần 2.2.4, về đặc tính của loài sen cũng như biểu tượng hoa sen trong văn hóa Phật giáo ở một số nước phương Đông. Có thể thấy, tính biểu trưng của hoa sen khá phong phú. Người dân Ấn Độ, nghiêng về nhìn hoa sen dưới cái đẹp của năng lực huyền bí. Người Trung Quốc lại nghiêng về thưởng thức vẻ đẹp thanh thoát ở sen. Trong khi đó, người dân Việt Nam lại là sự dung hợp, hoa sen vừa đẹp trong vẻ đơn sơ, gắn với cuộc sống nơi đồng quê, nhưng hoa sen cũng là cái đẹp của một tinh thần tôi luyện (vượt lên trên sự nhiễm ố của bùn lầy). Thơ thiền Lý-Trần thường nhắc về hình ảnh “đóa sen trong lò lửa” cũng là vì vậy.

Trước hết, chúng tôi muốn dạo qua nền mỹ thuật dân tộc để thấy được dấu ấn của hoa sen – như một biểu tượng của cái đẹp. Và đằng sau đó, là để thấy được vị trí của hoa sen trong mỹ cảm của người Việt Nam. Bước vào nền mỹ thật dân tộc, ta có thể bắt gặp hoa sen xuất hiện dày đặc trên các phù điêu, đá tảng kê chân cột, bệ tượng Phật trong chùa, trên các họa tiết trang trí, đặc biệt là trong kiến trúc chùa tháp. Hoa sen trở thành biểu tượng ẩn chứa chiều sâu tâm thức tín ngưỡng người dân.

Giấc mộng hoa sen, giáng sinh Thiên tử”, đã trở thành truyền thuyết thi vị về nguồn gốc xuất thân kỳ diệu của vua Lê Đại Hành. Đại Việt sử ký toàn thư, có nói đến việc một hôm mẹ vua mộng thấy hoa sen nở trong bụng mà có thai mà sinh ra vua. Đến triều Lý, hoa sen một lần nữa lại xuất hiện trong giấc mộng của vua Lý Thái Tông để rồi một một kiến tạo vô giá, là chùa Một Cột đã được ra đời.

Trở lại với biểu tượng hoa sen trong thơ thiền Lý-Trần - biểu tượng mang tính đa nghĩa (hoa sen - biểu tượng của bản thể, và hoa sen – biểu tượng quá trình tu chứng), có thể lý giải điều này dưới cái nhìn nguồn gốc văn hóa dân tộc như dưới đây.

Với nền văn minh lúa nước, con người Việt Nam vốn giữ cho mình bản tính hiền hòa, sống theo thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên. Trong con mắt của họ, thiên nhiên mang một vẻ đẹp hồn hậu, gần gũi. Ưa màu sắc thanh đạm, thanh âm hài hòa, thích cái đẹp giản dị.… đó là nét thẩm mỹ riêng của con người Việt Nam. Những tâm hồn bình dị ấy, trước vẻ đẹp đơn sơ, thanh thoát của một đóa sen thường say sưa chiêm ngưỡng hơn là thích triết lý. Là người Việt Nam, chắc hẳn, không ai lại không biết đến, hoặc ít nhất một lần ngâm ngợi những câu ca dao giản dị thế này:

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn

Hoa sen thường gắn với khung cảnh sinh hoạt nơi bến nước, sân đình-một trong những nét văn hóa làng –xã Việt Nam. Với cái nhìn trong trẻo, đôi khi đầy dí dỏm của người dân, hoa sen còn là nhịp cầu nối duyên đôi lứa:

Hôm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen

Âm hưởng truyền thống ấy không hề mất đi theo thời gian, mà một lần nữa, chúng được tái hiện lại trong cái nhìn của các thiền sư - thi sĩ Lý - Trần. Đó là vẻ đẹp của “sen đỏ mùa hoa nghe nước thơm” trong thơ Trần Thái Tông, là “Nhị sen đỏ thơm, chẳng nhuốm bùn” trong lời ngợi ca của Tuệ Trung, hay cái đẹp toàn chân của đóa sen Bát Nhã hiện lên trong thơ Lý Thái Tông “Sen Bát Nhã ngát hương thơm”. Dù để ngụ ý triết lý bản thể, nhưng trong cái nhìn của các tác giả trên vẫn vang vọng hơi thở của những lời ca dao, dân ca.

Bên cạnh vẻ đẹp bản thể, hoa sen trong thơ thiền Lý – Trần còn được nhìn trong quá trình tu chứng, viên thành. Sen ẩn chứa vẻ đẹp của nghị lực, vừa mang niềm vui của sự vượt thoát. Đây chính là nét độc đáo riêng của thơ thiền thời Lý-Trần khi cảm nghiệm vẻ đẹp của sen. Có thể lấy cách lý giải dưới đây để hé mở một phần nào đó nguồn cội sâu xa trong việc hình thành biểu tượng nghệ thuật này chẳng?

Con người phương Đông nói chung, đặc biệt là người Việt Nam nói riêng, từ xưa, rất đề cao đạo đức và việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức. Dân gian thường lấy ca dao là một hình thức để qua đó nhắn nhủ mọi người:

Lênh đênh qua cửa Thần Phù

Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm

Thần Phù (tên của con sông Chính Đại) được lấy làm biểu tượng của cửa sinh tử. Đứng trước lẽ sinh tử, con người muốn có cuộc sống an lạc, giải thoát (theo cách nói của Phật giáo ), phải luôn đặt vấn đề tu tập, làm lành, tránh dữ làm trọng.

Bên cạnh đó, Lý-Trần được coi là thời đại cực thịnh của Phật giáo Việt Nam, các tác giả thời kỳ này đều thấm nhuần tư tưởng, triết lý Phật giáo. Là loại thơ chức năng, thơ thiền Lý-Trần hướng đến hai mục đích: “giác nhi”, “giác tha”. Con đường tu đạo trở thành một vấn đề tất yếu, nếu muốn đạt thành tựu. Hình ảnh sen trong lò lửa có thể coi là kết quả của sự dung hợp giữa quan niệm tu dưỡng của dân gian ta và quan niệm thực hành đạo của nhà Phật.

Trong cảm nghiệm của các nhà thơ thiền Lý-Trần, hình ảnh hoa sen thường nghiêng về vẻ đẹp kín đáo, vẻ đẹp được rèn giũa trong thử thách. Ở hoa sen, ta bắt gặp một nguồn nội lực bất diệt, rất gần với con người Việt và dân tộc Việt luôn phải đấu tranh cho sự tồn tại và khẳng định chính mình.

3.3.2  Trâu bùn

Cùng với hoa sen, trâu bùn cũng là một hình ảnh rất thân thuộc, gần gũi với đời sống cư dân nông nghiệp trồng lúa nướcViệt Nam. Con trâu gợi nhắc ta về một cuộc sống lao động chốn đồng quê, nội cỏ từ ngàn xưa. “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, một mặt, trâu là con vật đắc lực của người dân cày, mặt khác, nó cũng gắn liền với sinh hoạt lễ hội dân gian... đặc biệt là ở những vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta.

Từ hình tượng con trâu trong dân gian, đến hình tượng con trâu trong thơ thiền Lý – Trần là cả một quá trình dung hợp và cách tân giữa nét văn hóa Phật giáo và văn hóa dân gian. Có thể so sánh biểu tượng này với biểu tượng con trâu trong Thiền tịch Trung Hoa để thấy được nét đặc trưng của hình ảnh.

Hình ảnh con trâu xuất hiện nhiều trong các công án Thiền tông Trung Quốc. Với tính chất của một công án: đánh mạnh vào trực giác của người tiếp nhận, bỏ qua những luận lý logic thông thường, nên biểu tượng trâu ở đây không khỏi mang màu sắc siêu hình. Người đọc không thể dùng cái lý thông thường để cắt nghĩa tại sao trâu đen lại hóa thành trâu trắng trong công án của ngài Quy Sơn. Tại sao Con trâu đi qua khung cửa, đầu, sừng, bốn chân đã lọt, mà đuôi lại không lọt của Ngũ Tổ. Rồi: cái bí mật chỉ được tiết lộ khi “trâu nghé sinh con” là gì? Đó chính là những nghịch lý trong ngôn ngữ Thiền.

Từ biểu tượng ban đầu, khi vào thơ thiền Lý- Trần, con trâu như được thổi vào đó một chút phong vị dân gian, một chút hồn văn hóa dân tộc. Thử tìm về thơ Tuệ Trung để cảm nghiệm điều đó:

Kim tiên đả sấn nê ngưu tẩu

Thiết sách khiên trừu thạch hổ hồi

[84; 247]

(Trâu bùn chạy tuốt, roi vàng đuổi,

Cọp đá lôi về, gậy sắt giong)

Hay:

Nhất thân độc thủ nhất nê ngưu

Đằng tỵ khiên lai vị khẳng hưu

 [84; 227]

(Một mình riêng giữ con trâu đất

Xỏ mũi dắt về chưa từng chịu nghỉ)

Tất nhiên, không phải chỉ đến thơ Tuệ Trung mới xuất hiện hình ảnh “trâu bùn” (nê ngưu), trước đó nó đã xuất hiện như một nghi án trong công án của Long Sơn: hai con trâu bùn húc nhau, chạy xuống biển và mất hút. Nhưng, biểu tượng con trâu trong thiền tịch Trung Hoa thường thiên về tính chất siêu hình, nhấn mạnh ở tính nghịch lý. Trong khi đó, Tuệ Trung lại đưa đến cho ta hình ảnh một con trâu cụ thể: “trâu bùn” – một con trâu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Có thể coi đây là một biến thể của sự kết hợp giữa con trâu trong lao động và con trâu – ẩn dụ, trong giáo lý Phật giáo. Bởi vậy, dù mượn hình ảnh con trâu để ngụ về quá trình điều phục nhân tâm, nhưng thơ Tuệ Trung vẫn ẩn chứa hơi thở nhọc nhằn của đời sống lao động. Từ phát hiện, đến luôn phải đuổi theo, rồi một mình chăn giữ, và xỏ mũi dắt về... là cả một quá trình đầy gian lao. Nó khác với cái phong thái ung dung như kiểu chăn của Thạch Củng, cũng không nhàn dật như kiểu chăn của ngài Bách Trượng....

Bên cạnh hình ảnh con trâu trong quá trình điều phục, là biểu tượng con trâu trong vẻ đẹp của kết quả tu chứng, viên thành:

Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên

Bán vô bán hữu tịch dương biên

Mục đồng địch lý quy ngưu tận

Bạch lộ song song phi hạ điền

(Trần Nhân Tông)

(Trước thôn, sau thôn, đều mờ mờ như khói phủ

Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có, nửa như không

Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết

Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng)

[84, 464]

Có thể coi đây là một thi họa tiêu biểu cho bức tranh phong cảnh làng xã Việt Nam. Trong không gian yên bình đó, có sự hòa quyện của khói mây với một chút nắng chiều rơi rớt, một chút thanh âm vang vọng. Cái trong trẻo của hồn người và tạo vật đưa ta đến với cuộc sống yên bình, vốn có của người dân từ ngàn xưa. Hình ảnh trâu bùn với âm hưởng của cuộc sống lao động nhọc nhằn từng đi vào thơ Tuệ Trung, đến đây đã thay bằng không khí nhẹ nhàng, êm trôi nơi làng quê. Người và vật đều đạt đến trạng thái “vật câu bất đồng”, ung dung dạo bước trong niềm an lạc.

Từ việc tiếp thu tư tưởng Phật giáo Ấn Độ, cùng với Thiền tịch Trung Hoa, thơ thiền Lý-Trần đã tạo nên cho mình một biểu tượng mang màu sắc riêng. Ở đó, con trâu vừa mang hơi thở nhọc nhằn của cuộc sống lao động chốn làng quê, đồng thời cũng mang theo dáng vẻ thong dong trên bước đường về với nguồn cội....

3.3.3 Từ “bản lai diện mục” đến “gương mặt mẹ” – một nét văn hóa Việt Nam

Ở phần 2.3.2, chúng tôi đã có dịp đi vào tìm hiểu biểu tượng “bản lai diện mục” với những biến thể của nó trong thơ thiền Lý-Trần. Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy rằng, hình ảnh “gương mặt” dường như luôn ẩn chứa một điều gì đó bí ẩn, trở đi, trở lại trong thơ. Điều đặc biệt hơn, đó không phải một gương mặt chung chung, vô hình, mà là gương mặt mẹ. Có thể coi đây là cảm hứng trong dòng chảy văn hóa chung về hình ảnh người mẹ nơi tâm thức người Việt chăng? Tìm về với bản sắc văn hóa dân tộc sẽ là dịp giúp ta cắt nghĩa kiến giải trên.

Một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, cũng là đặc trưng nổi bật nhất của Phật giáo Việt Nam đó là tính tổng hợp. Từ khi mới vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc và, có sự kết hợp chặt chẽ với chúng. Đây cũng chính là một trong những lý do đưa đến một đặc trưng khác của Phật giáo Việt Nam, đó là “xu hướng hài hòa âm dương có phần thiên về nữ tính” (Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB.Tp.Hồ Chí Minh, 1996, tr.490). Đây cũng chính là đặc tính bản chất của văn hóa nông nghiệp.

Cuộc sống nhà nông, với sự phụ thuộc vào tự nhiên khiến cho người dân thường sống trong trạng thái bất an. Bởi vậy, việc tìm đến một chỗ dựa tinh thần trở thành một nhu cầu tất yếu. Một trong những chỗ dựa đó, theo họ là “cha trời, mẹ đất”. Nếu trời là một người cha đầy quyền uy, thì đất gắn với mẹ, đất là những gì thân thương và gần gũi. Có lẽ cũng từ cái nhìn đó, mà trong tâm thức dân gian luôn có sự hướng về hình ảnh nữ thần: Từ Bà Thủy, Bà Hỏa, đến các nữ thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp, rồi, đạo thờ Tam Phủ, Tứ Phủ.... Đối với những cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, tìm đến tín ngưỡng ấy, cũng chính là tìm đến một khát vọng, nhằm cầu cho mùa màng tươi tốt, cuộc sống no đủ... Cứ thế, hình ảnh người mẹ dần trở thành biểu tượng của tình thương, của sự trợ giúp, và là nơi những người con trên bước đường tha hương muốn tìm về. Tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành một dòng chảy tiềm ẩn trong tâm thức con người Việt Nam.

Đây cũng là một trong những lý do quan trọng giải thích cho việc Phật giáo Việt Nam thiên về nữ  tính. Một trong những ví dụ tiêu biểu mà ta có thể thấy, đó là, hình ảnh những “Phật ông” ở Ấn Độ, khi sang Việt Nam đã biến thành “Phật Bà”, như: Phật Bà Quan Âm chính là biến thể của Quán Thế Âm Bồ – tát . Ngoài ra, ta còn có thể thấy rất nhiều Phật Bà khác như: Đứa con gái của nàng Man, được xem là Phật tổ Việt Nam, bản thân nàng Man, trở thành Phật Mẫu. Bên cạnh đó, còn nhiều Phật Bà khác, như: Quan Âm Thị Kính, Phật Bà Chùa Hương, Bà Trắng ở chùa Dâu....

Bên cạnh đặc trưng tín ngưỡng trên, một lý do khác, có thể thấy ở đây, đó là: văn hóa người Việt là văn hóa trọng tình, coi trọng việc sống phúc đức, báo đền công ơn cha mẹ hơn là đi chùa: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha, kính mẹ mới là đi tu” (Ca dao). Có khi, cha mẹ còn được đồng nhất với Phật: “Phật trong nhà không thờ, đi thờ Thích ca ngoài đường”.

Xuất phát từ một vài đặc trưng tín ngưỡng, văn hóa trên, trở lại với biểu tượng “gương mặt mẹ” trong thơ thiền Lý-Trần, có thể coi đây là sự tiếp tục của một dòng chảy vốn nuôi dưỡng từ bao thế hệ người dân đất Việt. Nhưng phải thấy rằng, từ hình ảnh người mẹ trong tín ngưỡng dân gian, đến hình ảnh người mẹ trong thơ thiền Lý- Trần có một sự cách điệu khá rõ. Thơ thiền Lý-Trần nhắc đến người mẹ, nhưng không phải để kiếm tìm một sự chở che, mà đó là người mẹ của “bản thể”, của “nguồn cội”. Thấu hiểu hết được gương mặt mẹ, cũng chính là nhìn thấy bản thể tuyệt đối, hay bản lai diện mục. Đó chính là con đường đưa con người trở về cõi Sơ Tâm, cõi Chân Như trong triết lý Phật giáo.

Với việc soi chiếu biểu tượng trong đặc trưng tín ngưỡng, văn hóa dân tộc nói trên, chúng tôi hi vọng rằng, đây cũng là cách giúp ta có thể đọc biểu tượng trong thơ thiền Lý-Trần như một sự giải mã văn hóa


MỤC LỤC

 

1. Lý do chọn đề tài 3

2. Lịch sử nghiên cứu. 3

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nguồn tài liệu. 11

4. Phương pháp nghiên cứu. 12

5. Cấu trúc khóa luận. 12

 

CHƯƠNG 1:KHÁI QUÁT VỀ BIỂU TƯỢNG  TRONG VĂN HỌC PHẬT GIÁO.. 14

1.1 Khái niệm biểu tượng, biểu tượng nhìn từ góc độ văn hóa. 14

1.2 Biểu tượng nhìn dưới góc độ văn học. 18

1.3 Biểu tượng trong Kinh điển Phật giáo (qua một số bộ kinh quan trọng) 19

1.3.1 Biểu tượng trong Kinh điển Phật giáo Nguyên thủy (Kinh Pháp Cú)  21

1.3.2 Biểu tượng trong Kinh điển Phật giáo Đại thừa  22

1.4 Quan hệ giữa biểu tượng và ngôn ngữ trong văn học Phật giáo. 31

1.4.1 Tính chất ngôn ngữ văn học Phật giáo  31

1.4.2 Về quan hệ giữa biểu tượng và ngôn ngữ trong văn học Phật giáo  36

 

CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG CÁC BIỂU TƯỢNG CHÍNH TRONG THƠ THIỀN LÝ - TRẦN.. 40

2.1 Một vài nét chung về biểu tượng trong thơ Thiền Lý – Trần. 40

2.2 Biểu tượng có nguồn gốc từ Kinh điển Phật giáo trong thơ thiền Lý-Trần. 43

2.2.1 Biểu tượng dục vọng  44

2.2.2 Biểu tượng về sự vô thường  47

2.2.3 Biểu tượng bản thể  51

2.2.4 Biểu tượng tu chứng  57

2.2.5 Biểu tượng giải thoát 60

2.3 Biểu tượng có nguồn gốc từ Thiền tịch Trung Hoa. 62

2.4 Biểu tượng từ ẩn dụ có tần số xuất hiện cao. 71

 

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ THIỀN LÝ – TRẦN.. 94

3.1 Nghệ thuật biểu tượng qua ngôn ngữ thơ thiền Lý – Trần. 94

3.2 Biểu tượng và sự hình thành “tứ thơ” trong thơ thiền Lý – Trần. 99

3.3 Nghệ thuật biểu tượng trong thơ thiền Lý-Trần nhìn dưới góc độ nguồn gốc văn hóa. 103

3.4 Nghệ thuật biểu tượng trong thơ thiền Lý – Trần và thơ thiền Trung Quốc, Nhật Bản – một vài nét so sánh, đối chiếu. 109

 

KẾT LUẬN.. 117

THƯ MỤC THAM KHẢO.. 120

PHỤ LỤC.. 130