Ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo và Đạo giáo trong việc sử dụng điển cố Việt Nam

In bài này
TS. Đoàn Ánh Loan

Khoa Văn học và Ngôn ngữ

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

 Đại học Quốc gia TPHCM

Ở Trung Hoa thời Trung đại, các trường phái triết học thường đề cập đến vũ trụ quan, nhân sinh quan, tuy có khác nhau ít nhiều, nhưng chung quy đều nói đến con người với những quan hệ xung quanh, đều đi đến công nhận thế giới này là nhất thể. Trong số các quan niệm triết học cổ đại Trung Hoa, nổi bật hơn cả có lẽ là Nho giáo và Đạo giáo. Ảnh hưởng của Nho và Đạo giáo khá sâu rộng, từ tư tưởng xã hội, văn hóa, phong tục tập quán cho đến văn học... Văn học thể hiện tư tưởng của thời đại, vì thế, quan niệm triết học Nho và Đạo thấm nhuần trong sáng tác. Trong văn học trung đại, người ta thường thể hiện cái chung của trời đất, trong đó tâm lý cá nhân được bao bọc bởi sự to lớn của tâm trạng chung trước cảnh, nỗi lòng hay tình yêu trước mối lo lớn của dân tộc. Quan niệm của Nho và Đạo ảnh hưởng sâu đến một số nguyên tắc sáng tác, cụ thể là những thủ pháp thể hiện. Nghiên cứu sâu hơn một chút ở lĩnh vực này, thật bất ngờ và thú vị, nghệ thuật sử dụng điển cố-một thủ pháp sáng tác thông dụng trong văn học thời Trung đại lại có mức độ ảnh hưởng khá đậm đặc hai quan niệm triết học này.

1. Nho giáo lấy cái lý về thái cực làm căn bản cho triết lý của mình, rồi xét cái thể động của cái lý ấy, biết rõ sự biến hóa của vạn vật, lấy điều chí thiện để làm mục đích cho đạo luân lý của con người. Theo mục đích ấy, sáng tác thơ ca không phải là công việc của người nghệ sĩ mà là việc của thánh nhân để nói về đạo lý. Vì vậy, từ hiện tượng trong tự nhiên, người sáng tác tìm đến ý nghĩa đạo lý. Trong văn chương, xã hội không phải là hiện thực khách quan sinh động mà là một thứ trật tự trên dưới. Con người trong đó là đối tượng dùng để tượng trưng cho mẫu mực của đạo đức. Điển cố thực sự phù hợp với loại sáng tác này. Điển cố là một câu chuyện, là hình ảnh mà tác giả mượn của người trước để so sánh hoặc ám chỉ đến điều muốn nói. Nhưng nguyên tắc của điển cố không đơn thuần là sự so sánh, mà đằng sau sự so sánh ấy là hình tượng mang ý nghĩa giáo huấn sâu sắc hơn gấp nhiều lần hình ảnh ban đầu. Điển cố giúp nâng câu thơ thành tư tưởng với ý nghĩa phong phú hơn.

Án kia nưng ở ngang mày

Sạch trong một tiết, thảo ngay một bề.

Bởi chàng đèn sách mỏi mê.

Gối Ôn Công, thuở giấc hòe thiu thiu

 (Quan Âm Thị Kính)

 

“Nưng ở ngang mày” là dâng lên ngang mày, do điển nàng Mạnh Quang mỗi lần dọn cơm cho chồng, thường nâng mâm cơm lên ngang mày. Ý nói thương yêu, kính trọng chồng.  “Gối Ôn Công” là chiếc gối của Ông Công, tức Tư Mã Quang đời Tống rất chăm học, thường thức khuya đọc sách. Ý nói người chăm học. Từ hai điển cố ngắn gọn, tác giả đã cho người đọc những bài học sinh động về đạo làm vợ, về gương hiếu học.

 

Việc mượn ý, lời của người trước mặc nhiên được chấp nhận và nên làm, vì đó là khuôn mẫu, là quy phạm. Nếu muốn miêu tả tâm lý hay phẩm chất một con người thì tác giả văn học thời kỳ này thường dùng nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, tượng trưng dựa trên nguyên lý Tượng và Từ mà kinh Dịch nói đến (tức so sánh phẩm chất của con người với sự vật rồi sau mới nói ra ý tưởng). Từ một hiện tượng thiên nhiên (Tượng), người ta có những ý tưởng tượng trưng và đặt tên cho nó (Từ). Không chỉ là mọi “chế độ khí vật, phong tục, lễ nghi, đạo đức, nhân sinh cũng từ ý tượng mà ra” [1]. Tượng và Từ cho người ta một khuôn mẫu để so sánh, để theo, để đi đến mục đích thể hiện đạo.

 

Vì chú ý đến mục đích sáng tác là nói về đạo lý, nên nội dung được quan tâm hơn là hình thức. Từ hình thức một sự vật, người ta nhìn thấy và nói tới ngụ ý bên trong. Điển cố chứng minh rất rõ điều này. Với câu thơ có điển cố, người đọc không thể lướt qua theo lối hiểu thông thường. Bởi vì điển cố luôn luôn là thành phần mang hai nghĩa, nghĩa đen và nghĩa bóng, như cấu tạo hai mặt âm dương của vũ trụ. Xuyên qua lớp nghĩa đen, đến lớp nghĩa bên trong mới thực sự tìm thấy bản chất của vấn đề. Nguyễn Du khi mô tả tâm trạng Kiều nhớ nhà đã dùng nhiều điển cố. Nếu hiểu rõ nội dung và ý nghĩa của những điển cố trong đoạn thơ ấy, người đọc chắc chắn sẽ cảm nhận sâu sắc hơn nỗi nhớ thương gia đình luôn dằn vặt trong tim Kiều, và qua đó thấy được tấm lòng hiếu thảo, thủy chung của nàng:

 

Bên trời góc bể bơ vơ.

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Xót người tựa cửa hôm mai.

Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa.

Có khi gốc tử đã vừa người ôm (c. 1041-1046)

 

2. Dựa trên nguyên lý hình thành vạn vật của thái cực hay của đạo, Kinh Dịch cho rằng đạo khởi đầu rất giản dị. Từ giản dị mà thành phức tạp như quá trình trời đất biến thiên : thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến thành sáu mươi bốn quái... từ đó sinh ra vạn vật, con người. Đó là công thức cho biết vạn vật do cái cực đơn giản biến thành phức tạp. Hiểu được điều đó sẽ hiểu được lẽ âm dương, “biết được lẽ giản dị, tức là biết được cái lý của thiên hạ” (Dịch giản nhi thiên hạ chi lý đắc hỉ) (Dịch, Hệ từ thượng)[2]. Trong Luận ngữ, chương Vi chính, Tử Trương hỏi Khổng Tử có thể biết trước được việc làm của các vua trong mười đời sau không. Khổng Tử đáp: “Nhà Ân theo lễ nhà Hạ, có thêm bớt, ta có thể (dò theo sử) mà biết được. Nhà Chu theo lễ nhà Ân, có thêm bớt, ta có thể (dò theo sử) mà biết được. Sau này, có triều đại nào tiếp nối nhà Chu theo lễ nhà Chu, nhưng có thêm bớt. Suy theo đó, dù có trăm đời sau ta cũng có thể biết trước được”. Đó là do Khổng Tử thấu triệt được cái lẽ đơn giản của sự biến hóa trong trời đất. Từ việc xảy ra trước có thể suy đoán để biết việc sau, có thể rõ cái đã qua để biết cái sắp tới. Từ đó hình thành nguyên lý ôn cố tri tân, một đặc tính tượng trưng của điển cố trong văn học. Dựa theo nguyên tắc của điển cố, có thể nhận thấy rằng nguyên tắc “giản đơn là nguồn gốc của mọi biến hóa” được ứng dụng từ việc vay mượn một nội dung tích chuyện, lời thơ, câu văn của người trước, sau đó diễn lại thật ngắn gọn, đơn giản để so sánh hay ngụ ý đến nội dung có liên quan. Từ hình tượng điển cố, tư tưởng người đọc cũng sinh sinh hóa hóa theo diễn tiến của điển để đến cái đích cuối cùng, tìm đến ý nghĩa thâm diệu nhất cho câu văn. Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều, thế kỷ 17) cĩ cu:

 

Sênh ca mấy khúc vang lừng.

Cái thân Tây tử lên chừng điện Tô

“Tây tử” tức nàng Tây Thi. “Điện Tô” tức là điện Cô Tô, tên một tòa cung điện do vua Ngô Phù Sai dựng lên cho Tây Thi ở. Đoạn này mô tả lúc nàng cung phi được ân sủng của nhà vua. Nàng vui sướng tựa như Tây Thi khi mới vào điện Cô Tô của vua Ngô Phù Sai. Trước khi hiểu ý nghĩa cu thơ, người đọc trở về thưởng thức câu chuyện tình yu sinh động lịch sử của thời Xuân thu với hai nhân vật nổi tiếng nói trên.

 

3. Tương tự như trên, điển cố còn ảnh hưởng nguyên lý “nhất dĩ quán chi” mà Khổng Tử đã nhiều lần đề cập đến trong Luận ngữ, chương Lý NhânVệ Linh Công. Khổng Tử nói sở dĩ ông thông hiểu được cái lẽ trời đất, vạn vật là do biết được lẽ “do một mối mà thông suốt tất cả” (nhất dĩ quán chi). Đó là nguyên tắc từ chỗ gần mà xét tới chỗ xa, từ chỗ rõ ràng đạt tới chỗ sâu kín. Từ một mối mà suy luận ra, từ ngọn mà đi đến gốc. Theo chiều hướng ấy, sự hiểu biết sẽ bắt đầu từ nguyên do đi đến bản chất ý nghĩa của mỗi hành vi, hiện tượng. Điển cố hoàn toàn đáp ứng được nguyên tắc sáng tác văn chương dựa trên lý lẽ ấy. Nó đồng thời đòi hỏi người đọc phải suy niệm thật sâu sắc mới thông hiểu ý nghĩa của điển và cả câu thơ. Nguyên tắc này cũng giống như lối giáo dục đòi hỏi học trò sự độc lập tư duy của Khổng Tử: thầy dạy chỉ thúc đẩy, chỉ mở lối soi đường, nhưng sự bức bách, không dẫn dắt đến cùng ấy lại làm cho học trò thư thái và biết nghĩ, biết suy (Lễ ký, chương Học ký). Khổng Tử cũng quan niệm đạo là lý lẽ tự suy gẫm mà biết nên đôi khi, ông “muốn không nói nữa”. Nguyễn Huy Lượng bày tỏ tâm sự của mình khi nhn rỗi ngắm trăng qua bài Tụng Tây Hồ phú với người bạn tm giao:

 

Chạnh nhớ khúc “Liên ngâm thưởng nguyệt”

Lúc tiếu đàm thường thỏa ý giao phù.

“Giao phù” lấy chữ trong kinh Dịch, nghĩa là những người cùng chí hướng tương đắc mà không nghi kị nhau. Từ “giao phù” nếu được hiểu rõ sẽ tô thêm nét trang trọng cho câu thơ cũng như ý tưởng, phong độ lịch thiệp của người viết.

 

Trong Đạo đức kinh, Lão Tử khi phát biểu luận điểm học thuyết của mình cũng nói về sự bất lực của ngôn ngữ : “Đạo khả đạo phi thường đạo” (Đạo mà có thể nói ra được không phải là đạo vĩnh cữu). Có thể nhận thức được đạo bằng sự cảm nhận và quan sát cái thể hiện bên trong, cái bản chất của vấn đề. Trong văn chương, có những điều không thể diễn tả một cách thẳng thừng, rõ ràng, hay không thể diễn tả một cách ngắn gọn, đầy đủ ý, mà chỉ nên gợi ra một từ ngữ để người đọc từ đó có thể tự suy luận, người viết phải nhờ đến điển cố. Cách nói của điển cố là cách nói có vẻ thu hẹp, nhưng đằng sau cái bề mặt ấy là cả thế giới hình tượng sinh động, phong phú về ý tưởng, sâu sắc về ý nghĩa, được diễn đạt theo lối ẩn dụ, nguyên tắc gợi ý để người đọc tự liên tưởng, cảm nhận và tìm đến ý nghĩa đúng đắn nhất, xác thực nhất. Điển cố với khả năng khơi dậy óc liên tưởng, sự suy gẫm của người đọc sẽ tạo một sức mạnh và sự thú vị đưa họ đến ngọn nguồn chân lý của vấn đề.

 

Truyện Kiều của  Nguyễn Du có câu:

Trước sau nào thấy bóng người.

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông

 

“Hoa đào năm ngoái” mượn ý bài thơ Đề đô thành nam trang của Thôi Hộ đời Đường:

 

Khứ niên kim nhật thử môn trung.

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.

Nhân diện bất tri hà xứ khứ.

Đào hoa y cựu tiếu đông phong”

(Ngày này năm ngoái ở cửa đây. Mặt người và hoa đào cùng ánh màu hồng. Mặt người chẳng biết ở nơi đâu. Hoa đào vẫn cười với gió đông như xưa).

 

Ý nói người xưa tìm đến mà vật đổi sao dời, không thấy được cố nhân. Điển cố này thể hiện tâm trạng bồi hồi, tiếc nhớ của người đi xa trước sự biến đổi của cuộc đời.

 

4. Tinh thần “Phản giả đạo chi động” (quay lại cái động của đạo) của Lão Tử (Đạo đức kinh, chương 40) thích hợp cho sự vận dụng điển cố. “Phản giả đạo chi động” trước hết chỉ sự biến đổi tuần hoàn của sự vật. Khi sự vận động biến chuyển đến cực điểm rồi cũng trở về trạng thái cũ như trăng tròn rồi lại khuyết. Lý thuyết này còn chỉ sự trở về cái gốc, hiểu rõ nguồn gốc, nguyên nhân biến đổi của vạn vật, làm cho hành vi của ta hợp với đạo tự nhiên. Từ điển cố, tác giả đưa tâm thức đi đến chân trời rộng mở, trong đó có biết bao con người, hình ảnh cùng những diễn biến lịch sử ở quá khứ diễn ra trước mắt. Sau khi đã chọn một hình tượng thích hợp nhất để rồi cuối cùng trở lại điểm xuất phát (điển cố), kết hợp ý nghĩa của nó với văn cảnh, nhằm tìm đến ý nghĩa thích hợp, đúng đắn nhất.

 

Theo quan niệm này, điển cố là lối sáng tác đúng đắn, thích hợp với sự vận động, biến chuyển của đạo. Thứ  nhất, câu thơ có điển sẽ đạt một mức độ nhất định về sự vận hành theo hướng thông mở, không bị cùng, không bị tắc, hư hư thực thực, huyền ảo khôn lường. Thứ hai, sự quay trở lại điểm xuất phát (điển cố) đồng thời với sự nâng cao nội dung thành hình tượng tiêu biểu nhất, khái quát nhất hợp với qui luật tự nhiên. Sự quay trở lại còn được hiểu theo quan niệm đạo của Nho giáo là, bản thân điển cố giúp người đọc trở về và học tập những bài học của người xưa, học cổ nhân cốt để hiểu nghĩa lý, tránh điều trái, sửa mình theo điều phải cho hợp với đạo.    

 

Vở hát bội San hậu, hồi thứ 2 có đoạn:

Ôn Đình nói: Non Nam vầy phượng gáy. Biển Bắc bặt kình ba.

 

“Phượng gáy” do chữ “minh phụng”. Người xưa cho phụng là loài chim linh, trên đời ít có. Vì vậy, thường cho phụng gáy là điều quý hiếm. Thiên Quyển a, phần Đại nhã trong kinh Thi có câu : “Phụng hoàng minh hỉ. Vu bỉ cao cương” (Chim phụng hoàng kêu ở trên sống núi cao kia). Lời tiên chú rằng phụng hoàng kêu trên sống núi (cũng như) đứng trên cao nhìn xuống, xem và có thể tập hợp lại, ý nói người hiền đợi lễ mới hành động, bay lượn rồi mới tập hợp lại. Phụng gáy chỉ người hiền giúp đời. Ý của Ôn Đình là nơi núi Nam nhiều người tài ra giúp chúa. Người đọc sau khi đọc câu đầu, phải dừng lại ở hình ảnh “phượng gáy” để suy ngẫm, liên tưởng, hình dung. Sau khi cĩ được ý nghĩa của hình ảnh ny rồi, liền quay trở lại với cu thơ, nối kết với câu thơ để có được ý nghĩa hồn chỉnh nhất. Sự lin tưởng này dẫn người đọc đi vào thế giới sinh động, lạ lẫm khác nữa, rồi mới trở về với ngữ cảnh hiện tại. Quá trình ny khiến độc giả phải trải qua nhiều giai đoạn tư duy và kết nối tư duy. Sự kết nối diễn ra nhanh chóng, liên tục, khiến người đọc càng thú vị, vì họ cần cĩ thời gian, kiến thức v phương thức kết nối tư duy mới có thể chạm chân đến nghĩa đen, bước lên bờ nghĩa bĩng, nghĩa mở rộng của ý thơ. 

 

Tóm lại, Nho giáo và Đạo giáo từ phương diện to lớn, dễ thấy như tư tưởng, văn hóa, x hội, văn học... cho đến những mặt nhỏ nhiệm, tinh tế như thủ pháp điển cố đều thể hiện khá tinh vi và sâu sắc. Vì vậy, điển cố không chỉ một thủ pháp văn học mà là cả một thế giới quan, nhân sinh quan sâu xa.

                                                                                               

                                                                                                            TS. Đoàn Ánh Loan

                                                                                                                        7/2011

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Quảng Hàm, Việc dùng điển trong văn thơ, Văn học tạp chí, số 2, tháng 6.1932, tr. 19-25.

2. Hoàng Ngọc Hiến, Triết lý Truyện Kiều, Văn học, 2/1996, tr. 91-94.

3. Nguyễn Thúy Hồng, Thi liệu Hán học trong các văn bản thơ Nôm, Hán Nôm, 2/1995, tr. 33-36.

4. Bùi Công Hùng, Liên tưởng thơ ca, Văn học, 4/1987, tr. 86-93.

5. Bùi Công Hùng, Vai trò của tưởng tượng trong thơ, Văn học, 1/1984, tr. 120-129 và 147.

6. Nguyễn Văn Huyên, Cấu trúc của hình tượng nghệ thuật và khả năng gợi mở của nó đối với tiềm năng sáng tạo, Triết học, 4/1987, tr. 116-131.

7. Trần Đình Hượu, Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn hóa thông tin, 1995.

8. Bửu Kế, Tầm nguyên từ điển, Nhà sách Khai Trí, 1968.

9. Đinh Gia Khánh..., Điển cố Văn học, Nxb Khoa học xã hội, H., 1977.

10. Khâu Chấn Thanh, Lý luận Văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Mai Xuân Hải dịch, Nxb Giáo dục, 1994.

11. Nguyễn Khắc Khoan, Cổ điển học Trung Hoa ở Việt Nam xưa. Cuộc tiếp xúc quá khứ du nhập vào tư tưởng và Văn học Việt Nam, Việt Nam khảo cổ tập san, 1/1971, tr. 108-168.

12. Khổng Tử, Kinh Thi, Nxb Văn học, H., 1991.

13. Khổng Tử, Tứ thơ Luận ngữ, Phật học thơ xã, 1950.

14. Trần Trọng Kim, Đại cương triết học Trung Quốc, Nho giáo, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1992.

15. Lê Đình Kỵ, Từ trong di sản văn học, nghĩ về tư tưởng sáng tác của cha ông, Văn học, 1/1984, tr. 104-119.

16. Đinh Trọng Lạc, Về một  phương tiện tu từ, Ngôn ngữ, 1/1994.

17. Nguyễn Lai, Tìm hiểu sự chuyển hóa từ mã ngôn ngữ sang mã hình tượng, Ngôn ngữ, 3/1996, tr. 20-21. 39.

18. Nguyễn Hiến Lê, Kinh Dịch, đạo của người quân tử, Nxb Văn học,1992.

19. Nguyễn Thế Lịch, Từ so sánh đến ẩn dụ, Ngôn ngữ, 3/1991.

20. I.S. Lisevich, Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, Gs. PTS. Trần Đình Sử dịch, Trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh, 1993.

21. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H., 1978.

22. Đặng Văn Lung, Truyện Nôm, Văn học, 3/1998, tr. 36-37.

23. Phương Lựu, Tinh hoa lý luận Văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục, H.,1989.

24. Phương Lựu, Văn hóa, Văn học Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt Nam, H., Nxb Hà Nội, 1996.

25. Phương Lựu, Vài nét về lý luận Văn học, mỹ học cổ điển Trung Quốc, Văn học,  6/1971, tr. 81-94.

26. Phương Lựu, Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, H., 1985.

27. Phạm Thế Ngũ, Khảo luận về thơ cũ Trung Hoa, Phạm Thế xuất bản,1968.

28. Trần Đình Sử, Ý nghĩa của Văn học Trung Quốc đối với tiến trình phát triển Văn học Việt Nam, Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn, 1996.

29. Trần Đình Sử, Truyện Kiều và văn hóa Trung Quốc, Hán Nôm, 3/1998, tr. 27-33.

30. Hà Công Tài, Cấu trúc ẩn dụ hóa trong thơ, Văn học, 5/1993, tr. 44-47.

31. Hồ Thích, Trung Quốc triết học sử, bản dịch của Huỳnh Minh Đức, Khai Trí, Sài Gòn xuất bản, 1969.

32. Lã Nhâm Thìn, Tính lặp lại trong văn học dân gian và vấn đề tập cổ trong văn học viết, Văn học, 1/1991, tr. 38-43.

33. Nguyễn Đức Tiếu, Quan niệm Dịch hóa trong cổ học phương đông, Văn hóa, 68, 69/ 1965, tr. 285-291.

34. Fung Yu Lan, A Short History of Chinese Philosophy, New York, The MacMiUan Company, 1948.

35. Harvard-Yenching Institute Studies XXI, Studies in Chinese Literature, Harvard University Press, Cambridge, Massachusetts, 1965.

36. James J.Y.Liu, The Art of Chinese Poetry, The University of Chicago Press, 1962.

37. 周蔭同,古詩文典故,陝西人民教育出版社,陝西 1987 Chu Ấm Đồng, Cổ thi văn điển cố, Thiểm Tây Nhân dân Giáo dục xuất bản xã, Thiểm Tây.

38.周紅興,簡明中國古代文學(上下),作家出版社,北京 1990 Chu Hồng Hưng, Giản minh Trung Quốc cổ đại văn học (thượng, hạ), Tác gia xuất bản xã, Bắc Kinh.

39.周心慧...,中外典故大詞典,科學出版社,北京 1989 Chu Tâm Tuệ…, Trung ngoại điển cố đại từ điển, Khoa học xuất bản xã, Bắc Kinh.

40.祝鼎民,典故知識查檢,知識出版社,北京 1992 Chúc Đỉnh Dân, Điển cố tri thức tra kiểm, Tri thức xuất bản xã, Bắc Kinh.

41.楊高才,典故詞典,甘肅人民出版社,甘肅 1986 Dương Cao Tài, Điển cố từ điển, Cam Túc Nhân dân xuất bản xã, Cam Túc.

42.楊立義,中國成語故事一百篇,中國對外翻譯出版公司商務印書館(香限公司),北京 1991 Dương Lập Nghĩa, Trung Quốc thành ngữ cố sự nhất bách thiên, Trung Quốc Đối ngoại Phiên dịch xuất bản công ty Thương vụ ấn thư quán (Hương Hạn công ty), Bắc Kinh.

43.楊榮春,中國封建社會教育史,廣東人民出版社,廣東 1985 Dương Vinh Xuân, Trung Quốc phong kiến xã hội giáo dục sử, Quảng Đông Nhân dân xuất bản xã, Quảng Đông.

44.唐君毅,中國哲學源論,新亞研究所印行,臺北 1964 Đường Quân Nghị, Trung Quốc triết học nguyên luận, Tân Á nghiên cứu sở ấn hành, Đài Bắc.

45.黃侃,文心雕龍札記,華東師范大學出版社,上海 1996 Hoàng Khản, Văn tâm điêu long trát ký, Hoa Đông Sư phạm Đại học xuất bản xã, Thượng Hải.

46.清平,成語故事,香港偉青書店出版,香港 1957 Thanh Bình, Thành ngữ cố sự, Hương Cảng Vĩ Thanh thư điếm xuất bản, Hương Cảng.

47. 張中行,文言律例,福建教育出版社,福建 1984 Trương Trung Hành, Văn ngôn luật lệ, Phúc Kiến Giáo dục xuất bản xã, Phúc Kiến.

48. 辭源,商務印書印書,北京 1997 Từ nguyên, Thương vụ ấn thư ấn thư, Bắc Kinh.

49.王力,古代漢語,中華書局,北京 1981 Vương Lực, Cổ đại Hán ngữ, Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh.

50.王國榮...,世界誠語典故詞典,文匯出版 1989  Vương Quốc Vinh…, Thế giới thành ngữ điển cố từ điển, Văn hối xuất bản.



[1] Trần Trọng Kim, Đại cương triết học Trung Quốc, Nho giáo, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1992.

 

[2] Trần Trọng Kim, sách đã dẫn.