1. Lược sử vấn đề*

Đề tài gươm thần bảo vệ nước, bảo vệ giống nòi với hình tượng lưỡi gươm, cán gươm và vỏ gươm vốn đang rời rạc, khi ráp lại với nhau bỗng biến thành sức mạnh vô địch, sức mạnh đoàn kết chống ngoại xâm vốn được lưu hành từ xa xưa ở nhiều dân tộc. Nhiều tộc người ở Tây Nguyên, trong đó có các dân tộc chính thuộc hai nhóm ngữ hệ Nam Đảo và Môn-Khơ me như Ê Đê, Gia Rai, Chăm (Nam Đảo), Ba Na, Xơ Đăng (Môn-Khơ me) đều có truyện gươm thần riêng của dân tộc mình và có phần trùng hợp nhau về cốt truyện và hình tượng thanh gươm. Câu chuyện về gươm thần mà mỗi tộc người giữ một bộ phận, có hợp nhau lại mới chống được quân thù được các tộc người Trường Sơn - Tây Nguyên truyền lại có ít nhiều thay đổi, được xem là những dị bản của một cốt kể.

      (Chu Xuân DiênIn trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa Văn học và Ngôn ngữ)

           So sánh (hoặc so sánh đôi chiếu) là một thao tác nghiên cứu được dùng trong nhiều ngành khoa học khác nhau. Vai trò quan trọng ít hay nhiều của thao tác nghiên cứu này là tùy thuộc vào đặc điểm bản chất của đối tượng nghiên cứu, và do đó vào nhiệm vụ của ngành khoa học nghiên cứu đối tượng ấy. Có những ngành khoa học nếu không vận dụng phương pháp nghiên cứu so sánh thì không thể giải quyết nổi những vấn đề cơ bản phát sinh trong quá trình nghiên cứu đối tượng.

 

GS. Đinh Gia Khánh

Sự nghiệp giáo dục và nghiên cứu khoa học của Giáo sư Đinh Gia Khánh bao trùm lên cả ba lĩnh vực: văn học dân gian, văn hóa dân gian và văn học trung đại Việt Nam. Cuốn Đinh Gia Khánh, Tuyển tập, tập 1 này tập hợp những công trình khoa học của ông trong lĩnh vực văn học dân gian.

1. Lịch sử phát triển của con người thời tiền sử chia làm ba thời kỳ: thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt. Thời đại đồ sắt là thời kỳ cuối cùng trong hệ thống ba thời đại để kết thúc thời tiền sử. Thời kỳ đồ đá diễn ra vào thời con người vẫn còn là vượn người, chưa phát triển hoàn thiện; lúc đó con người sử dụng đá để làm công cụ cắt, gọt, đào bới, săn bắt thú; cùng lúc những công cụ lao động bằng xương thú, cành cây, vỏ sò đã ngày càng không phổ biến bằng công cụ bằng đá. Việc tìm ra lửa bằng cách cọ hai hòn đá vào nhau được xem là phát minh quan trọng nhất của con người trong thời đại này. Lửa đã làm thay đổi to lớn trong đời sống con người vốn mang “tính thú” trước đó; lửa là sự chuyển tiếp quan trọng từ giai đoạn mông muội sang giai đoạn văn minh với một ý nghĩa rất lớn như: nấu chín thức ăn, sưởi ấm khi trời lạnh, soi đường trong đêm tối, xua thú dữ, phát rừng làm rẫy,…- một biểu tượng vĩ đại và quyền uy tối thượng. Con người nguyên thủy tiếp xúc với lửa nhưng chỉ dựa vào cảm giác chứ chưa có một căn cứ khoa học cụ thể nào. Họ chỉ có thể tin rằng nó huyền bí chứ không thể giải thích nó. Họ đã thần bí hóa nó, điều này làm giảm tư duy lý tính của con người, cũng chính vì vậy mà lửa là một biểu tượng rất thiêng, một sức mạnh vô biên. Con người nguyên thủy không thể giải thích được lý do vì sao có sấm sét, có cháy rừng… khi những sự việc đó làm ảnh hưởng (xấu hoặc tốt) đến cuộc sống của họ. Họ tin rằng trong lửa mang một sức mạnh thần thánh, từ đó họ đâm ra tôn sùng và thờ phụng nó. Khái niệm thần lửa có lẽ cũng từ đó mà ra đời. Khi con người mang theo lửa bên mình, họ tin rằng mình sẽ được bảo vệ, sẽ được bình an. Ví như lúc trong rừng sâu chẳng hạn, lửa có thể xua thú dữ. Họ cũng tin  rằng lửa có thể xua đuổi tà ma, làm cho chúng không dám đến gần họ. Người Tây Nguyên không thể không có lửa về đêm; chỉ cần thiếu lửa ít lâu, là họ sẽ ngã bệnh. Nếu, do ngủ say họ để lửa tắt, thì bị cái lạnh của buổi bình minh đánh thức, họ sẽ trở dậy ngay để thổi cho than bùng lên hay đi xin lửa ở nhà sàn bên cạnh. Khi đi làm việc, họ mang theo mẩu củi cháy dở của mình: trong kỳ dọn rẫy, họ dùng nó để đốt cháy đám cây đã đốn ngã (trong loại đất trồng lúa này, việc dọn đất chủ yếu là bằng lửa), ngày nào cũng vậy, họ dùng lửa để đốt ống điếu của mình. Họ yêu và sợ lửa. Đấy là phương tiện duy nhất của họ để sưởi ấm và chiếu sáng và là công cụ chính để trồng trọt. Nhưng họ sợ sức mạnh quá lớn của kẻ đầy tớ nồng nhiệt này và cố làm chủ nó. Dầu tất cả các vật liệu trong nhà sàn đều hết sức dễ bắt lửa, nhưng ít khi thấy xảy ra nạn cháy vì sơ ý. Khi cần đốt rừng, ngay cả bọn trẻ con cũng có bản năng ngăn lửa và thực hiện việc đó rất hiệu quả[i].

2. Nối tiếp thời đại đồ đá là thời đại đồ đồng. Phát hiện ra đồng là một bước tiến mới trong sự phát triển của con người bởi họ đã bắt đầu bước vào thời đại của kim khí. Đồng có lịch sử sử dụng ít nhất 10.000 năm trước. Ở thời kỳ này, hình thái kinh tế xã hội nguyên thủy bắt đầu tan rã (thật ra nó đã bắt đầu tan rã từ cuối thời đại đá mới và tiếp tục tan rã khi giai đoạn đồng thau phát triển). Người ta đúc đồng trong các bể đúc bằng đá, những vật dụng, vũ khí bằng đồng được con người ngày nay phát hiện gồm dao găm đồng, mũi tên đồng, lưỡi cày đồng… Đồng với tính chất mềm dẻo, dễ dát mỏng, dễ uốn nên không thể sử dụng nhiều cho cuộc sống nông nghiệp. Ngày nay chúng ta thường thấy đồng được sử dụng để làm vật dụng truyền tải điện, que hàn, thành phần của hợp kim…Nhiều dẫn chứng cho thấy rằng đồng xuất hiện chỉ là một thành tựu trong quá trình khai phá của con người chứ chưa thể gọi là sự đột biến trong quá trình lao động sản xuất và làm thay đổi kinh tế, xã hội. Kế đến là thời kỳ đồ sắt. Loài người biết đến sắt rất sớm, quặng sắt phân bố rộng rãi khắp mọi nơi trên quả đất nhưng loài người phát hiện được tính chất rẻ và thông dụng của sắt chậm hơn đồng có đến 3000 năm.

3. Phát hiện ra nghề luyện sắt là một phát minh lớn, một kỳ công rực rỡ, một thành tựu vĩ đại của loài người nói chung và của các dân tộc Việt Nam nói riêng trong đó có các dân tộc ít người ở Trường Sơn-Tây Nguyên. Quặng sắt ở khắp mọi nơi, trữ lượng lại nhiều, nhưng sắt không hề xuất hiện dưới dạng nguyên chất mà là một kim loại ẩn. Riêng ở một số khu vực trong tiểu vùng Bắc Tây Nguyên, quặng sắt lại ở dạng lộ thiên (ví dụ địa bàn cư trú của nhóm Xơ Đăng Tơ-Đrăh thuộc hai huyện Kon Rẫy và Đăk Hà tỉnh Kon Tum). Trong thiên nhiên, sắt luôn hòa hợp với ôxy, thường ở dưới dạng xù xì, xấu xí, màu nâu xám, ít được chú ý đến. Mặt khác, sắt là một kim loại khó nấu chảy. Đồng nóng chảy ở khoảng 1084ᵒC, đồng thau khoảng 700-900ᵒC, nhưng với độ nóng chảy ở 1530ᵒC của sắt, nếu không có sự hoàn thiện của kỹ thuật luyện kim thì không thể nào đạt được. Thời đại đồ sắt được bắt đầu tính đến trong lịch sử khi mà loài người đã biết rèn sắt để chế tạo các loại công cụ, vũ khí. Không phải ngay từ đầu người xưa đã biết nấu chảy sắt mà họ lấy sắt từ trạng thái bột xốp và dùng nó để làm nguyên liệu chế tạo hiện vật thông qua quá trình rèn. Phương pháp này được gọi là phương pháp thổi sống. Sắt là một kim loại mềm; muốn có được những công cụ sắc, bén, cứng như dao, kiếm, gươm, phải biết tiến hành hỗn hợp sắt và than trong quá trình luyện sắt và rèn sắt. Với phương pháp thổi sống, người xưa chỉ cần khoảng 900ᵒC là đủ. Lúc đầu tiên, khi mới phát sinh thuật luyện sắt, lò còn rất nhỏ, cấu tạo vô cùng đơn giản. Nói chung, lò thổi sống thường được xây bằng đá, trát hoặc đấp bằng bùn, có lỗ thông gió và thổi gió vào. Quặng sắt sau khi được sàng lọc, đập nhỏ, rửa sạch, sẽ được đem trộn với than củi, xếp theo từng lớp. Dụng cụ để thổi gió mỗi nơi một khác, nhưng nói chung gió được đưa vào lò theo những ống bằng đất sét. Cũng có nơi người xưa không thổi gió vào, mà cứ để cho nó cháy tự nhiên, chầm chậm, dần dần. Kỹ thuật luyện ở buổi ban đầu rất thô sơ và dựa trên nguyên tắc là khử cho hết ôxy ở trong quặng sắt để làm cho sắt hoàn nguyên. Lò nhỏ, hơi ít, nhiệt độ không cao, kỹ thuật đơn giản cho nên sắt được hoàn nguyên chỉ là sắt ở trạng thái bột xốp, lỗ trỗ như tổ ong, lẫn lộn với cứt sắt và các loại tạp chất khác đọng lại dưới đáy lò. Tuy vậy, người ta vẫn gọi chúng là những cục sắt tinh chất. Sau mỗi lần luyện sắt, phải đợi cho lò nguội hẳn mới phá lò lấy sắt ra. Những cục sắt tinh này cần phải được nung đỏ, đập rèn nhiều lần để thành ra những thỏi sắt chín có hình dáng nhất định. Sắt chín mềm hơn sắt sống nhưng có tính co giãn lớn hơn nên rất dễ rèn. Đó là nguyên liệu cơ bản để chế tạo công cụ, vũ khí. Những người thợ rèn sẽ tiếp tục gia công thêm công đoạn tôi thép như sau: nông cụ hay vũ khí được nung nóng lên nhiệt độ cao (khoảng trên 730 độ C – 800 độ C với đa số thép làm dao), ở nhiệt độ cao này, sẽ có biến đổi về cấu trúc bên trong khối thép, toàn bộ khối vật liệu được nung nóng sẽ có cấu trúc đồng nhất và mềm dẻo mang tên là Austenite (gọi theo tên nhà khoa học Austen), người thợ rèn sẽ giữ khối thép trong lò than một lúc đủ lâu để toàn bộ khối thép chuyển biến hết về cấu trúc bên trong, khi nhúng cả khối thép đang nóng đỏ như vậy vào nước lạnh, do nhiệt độ giảm đột ngột, bên trong khối thép sẽ chuyển sang cấu trúc có tên Martensite, là cấu trúc gồm các hình kim, có độ cứng rất cao; vì lý do đó, dao thép sau khi “nung đỏ – bỏ nướcsẽ có độ cứng cao hơn rất nhiều so với bình thường và dĩ nhiên là sắc bén hơn. Đến đây, quá trình luyện sắt xem như kết thúc. Kỹ thuật luyện sắt như thế thật là thô sơ, nhưng lúc đó đã là một thành tựu kiệt xuất trên con đường phát minh sáng tạo của nhân loại. Như vậy, biết sử dụng sắt để phục vụ cho mình, loài người có thể tạo ra những công cụ, vũ khí có công hiệu lớn. Engels từng cho rằng: “Cung tên đối với thời mông muội, cũng giống như thanh kiếm sắt đối với thời đại dã man và khẩu súng đối với thời đại văn minh”, ông cũng từng gọi thời đại cây kiếm sắt là “thời đại anh hùng” của các dân tộc văn minh. Việc thần thánh hóa sắt, qua truyện Thánh Gióng với việc ngài sai dân gian đúc ngựa sắt, roi sắt không phải là một hiện tượng cá biệt chỉ xảy ra ở tộc người Việt. Truyền thuyết Thánh Gióng cùng nhóm truyện kể có môtíp thanh gươm thần ở các dân tộc Tây Nguyên đã bọc lộ rõ khát vọng của người đương thời đối với một loại nguyên liệu mới và nói lên ước mơ của nhân dân các dân tộc thời ấy với việc sử dụng sắt. Nó phản ánh những nhận thức của người đương thời đối với những ưu điểm của sắt.    

4. Trong các nghề chế luyện kim loại, nghề thợ rèn giàu ý nghĩa hơn cả, vừa do tầm quan trọng của nghề này, vừa do những biểu tượng đối nghịch mà nó chứa đựng. Nghề rèn có khía cạnh sáng tạo vũ trụ và sáng tạo nói chung; khía cạnh ma quỷ, hiểm độc và cuối cùng khía cạnh khai tâm thụ pháp… Trong một số nền văn minh, người thợ rèn đóng vai trò quan trọng: là người nắm được những bí mật của trời, họ có thể gọi được mưa, chữa được bệnh[ii]. Và trong nhiều trường hợp, có thể ghi nhận rằng quyền năng của thợ rèn đến từ công cụ của anh ta, đến từ những tư tưởng ẩn trong ống thổi lò rèn, đến từ lửa, đến từ sức mạnh linh thiêng của sắt, đến từ những đồ trang sức mà anh ta rèn cho các thầy cúng; hoặc từ nguồn gốc linh thiêng của kỹ thuật rèn, từ sự mới mẻ của nghể này vì kỹ thuật bí ẩn của anh ta là do truyền từ đời này sang đời khác, hay đơn giản hơn là sự thụ đắc những kỹ thuật này. Còn với Dambo Jacques Dournes, ông cho rằng: Trong các kỹ thuật, có một ngành cao quý hơn cả, dành riêng cho một lớp người ưu tú được tách riêng ra, đó là người thợ rèn. Lửa và sắt là các nguyên tố mà sức mạnh của chúng làm nên sự cao quý. Trong hầu hết các nền văn minh, người thợ rèn là người anh hùng khai sáng, nếu anh ta không phải là người sáng tạo ra mọi vật và toàn thể. Các truyền thuyết Tây Nguyên liên quan đến nguồn gốc của lửa và của lò rèn rất nhiều và giàu ý nghĩa… Truyền thuyết về sắt, trong nguyên gốc của nó, gắn chặt với các truyền thuyết về những người thợ rèn đầu tiên[iii]. Xưa kia, trong huyền thoại Tây Nguyên, từ rèn đồng nghĩa với từ sáng tạo. Các vị á thần buổi khởi nguyên, những người tổ chức nên thế giới, đã rèn ra mọi thứ: “Bung cầm một chiếc búa nhỏ (bằng đá) và rèn ra quả đất; ông cầm một chiếc búa ngắn và rèn ra trời[iv]. Trong xã hội truyền thống của tộc người Xơ Đăng, ở nhóm Xơ Đăng Tơ-đrăh hiện đang sinh sống tại các xã Đăk Ui, Ngok Réo, Đăk Kôi, Đăk Tơ Lung, Ngok Wang trên địa bàn các huyện Kon Rẫy và Đăk Hà tỉnh Kon Tum - nơi có nhiều quặng sắt lộ thiên với hàm lượng sắt rất cao, những người thợ rèn đã chế tạo ra một loại lò rèn bễ hơi bằng da rất độc đáo, sử dụng rất có hiệu quả, có thể rèn nung nóng từ quặng ra thép, đánh các công cụ lao động và dụng cụ phục vụ gia đình. Để nung được quặng và rèn sản phẩm, người Tơ Đrăh dựng lò rèn có bễ hơi được làm từ da con mang (người dân gọi là Tơ Niam Pi Pu), ống bễ bằng gỗ (tê tê), ống dẫn hơi bằng nứa (rơ vang), ống dẫn hơi chịu lửa dẫn ra lò (rơ chông) và lò nung (kloh tơ niam). Để đun được quặng sắt, người Tơ Đrăh phải lên rừng tìm cây loăng rlinh để làm than. Theo cụ A Xe ở làng Wang Tố, xã Đăk Ui, huyện Đăk Hà, chỉ loại than từ cây này, lửa lò rèn Tơ Niam Pi Pu mới đủ độ nóng để nung chảy quặng sắt tự nhiên. Khi nung quặng, tài năng của người thợ rèn chính (bơ ngai tha) được thể hiện chứng minh qua việc kết hợp hai loại quặng cát và quặng cục làm ra sắt thỏi chất lượng cao, chắc bền và không bị mẻ, gãy khi sử dụng. Khi đã có những thỏi sắt ưng ý, theo truyền thống thợ rèn nhóm Tơ Đrăh không được phép sử dụng than loăng rlinh nữa mà chỉ sử dụng những loại cây khác để đốt cho nhiệt độ thấp hơn.

Quá trình rèn sắt thành gươm (thần) là một chuỗi nối tiếp: 

đá/quặng sắt → thanh sắt → lò rèn → thanh gươm → hiến sinh→ quyền năng ma thuật

Có thể nói thanh gươm là đỉnh cao của quá trình rèn sắt, thể hiện sự tài hoa, tinh tế của người thợ, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Việc xuất hiện thanh gươm là một bước tiến vĩ đại và tất yếu trong lịch sử phát triển của loài người. Gươm hay kiếm[v] (tiếng Khơ-Me gọi là khan, tiếng Gia Rai gọi là ddau) là một loại vũ khí được cấu tạo từ một thanh kim loại được mài bén dùng để đâm, chém trong việc tác chiến. Gươm có cán để cầm, có vỏ để bao bọc, có quai để đeo. Gươm dài hơn dao, cũng mỏng hơn và dẹp hơn dao. Gươm được sử dụng rộng rãi trong các cuộc chiến tranh thời tiền sử cho đến tận thời kỳ cận hiện đại ở Việt Nam. Ngày nay, việc sử dụng gươm không còn phổ biến như xưa nhưng nó vẫn là một biểu tượng của quyền lực, sự uy nghiêm và linh thiêng.   

Rèn gươm kiếm không chỉ đơn thuần là một công việc, việc rèn phải làm sao cho thân, tâm hợp nhất làm một. Người thợ phải có tâm với nghề, không chỉ rèn kiếm gươm tốt mà phải rèn cho đẹp, như vậy mới đúng nghĩa của thanh kiếm, thanh gươm. Rèn kiếm không như rèn các dụng cụ lao động thông thường, nó không được cẩu thả, phải đảm bảo đủ độ sắc và độ đẹp. Lưỡi kiếm là phần quan trọng nhất của thanh kiếm, tượng trưng cho sự hùng dũng, cứng cỏi, khí tiết, quý phái nên nó phải được chăm chút nhiều nhất. Quy trình chọn vật liệu, quy trình rèn là không thể chia sẻ cho bất kỳ ai cả, đó là thước đo sự khéo léo, tài hoa, danh vọng của người thợ rèn. Như vậy, mặc nhiên rằng thép (vật liệu) có tốt thì mới có thể rèn được gươm tốt. Những “vật liệu” trong các truyền thuyết về gươm thần đều là tốt cả, nó có nguồn gốc thần kỳ, là vật mà “thần” đã ban cho con người để rèn kiếm. Trong truyện Lưỡi gươm chàng Y Thí, thỏi sắt do cô gái uống nước gốc cây sinh ra một lượt với Y Thí, Y Thí đem thỏi sắt ấy rèn gươm giết vua Lào, vua Chàm. Trong truyện Đăm Thí, Đăm Thí giậm chân lên tảng đá trắng biến thành hồ nơi tận đáy có thỏi thép quý, chàng đem luyện thành gươm quý rồi giết sạch số Mơtao gian ác. Hay trong truyện Gươm ông Tú cũng có chi tiết tương tự: Cụ bà Hbia Dat đi làm rẫy khát nước uống nước hốc cây sinh con trai chóng lớn có sức khỏe lạ thường. Trên núi có trận động đất, đất sập tạo hồ nước sâu, chàng trai lặn xuống nhặt thanh sắt nhờ thợ rèn rèn hết cả núi than mới được gươm tốt, thợ mộc làm bao gươm và cán gươm. Motif dân tộc học gươm đâm vào bụng cô gái, phụ nữ mang thai hay máu một người nhỏ xuống thanh gươm rồi người đó chết bị hút hồn vào thanh gươm là một chi tiết mang tính chất thần kỳ của nghi lễ hiến sinh (linh thiêng hóa / thần thánh hóa sắt quí) biến dạng đã đi vào type truyện thần bí này. Có gươm thiêng được trời ban tặng rồi người anh hùng, chàng trai khỏe sẽ mang gươm đi diệt sạch giặc khắp nơi cứu nguy cho cộng đồng dân làng … Ở một khía cạnh khác, có thể ghi nhận một kỳ công thật vất vả và kiên nhẫn của người thợ rèn đúc nên một thanh bảo kiếm, đó là việc anh ta phải nấu loãng kim loại và đổ vào khuôn, chờ nó nguội lại thành thanh thép; thanh thép này sẽ được nung nóng đỏ cho mềm ra và được đập bằng búa cho mỏng xuống, rồi gấp lại thành hai và đập cho mỏng xuống; xong rồi lại được nung cháy đỏ, đập mỏng ra, gấp lại làm đôi, đập mỏng; rổi lại được nung đỏ, đập mỏng, gấp làm đôi; cứ như thế khoảng 30 lần; lúc này thanh kiếm không phải chỉ là một khối thép mà là 2-lũy-thừa-30 lớp thép mỏng vô cùng.

 

Tóm lại, thanh gươm là biểu tượng thể hiện sự kỳ công của con người, là đỉnh điểm của sự sáng tạo trong thời đại đồ sắt. Nó thể hiện một nấc thang / giai đoạn của sự văn minh trong lịch sử phát triển của loài người, giúp con người thoát khỏi thời sơ sử còn mông muội, thơ ngây, là bằng chứng của sự phân hóa và tiến bộ xã hội. Và nếu ta bóc tách được những màn hư cấu thần kỳ bao trùm nhiều câu chuyện truyền thuyết về thanh gươm thần ta sẽ có được phần nội dung lịch sử chân thật của các thể chế xã hội tiền giai cấp, tiền quốc gia của các tộc người man dã sơ khai.



[i] Dambo (Jacques Dournes) (2003), Miền đất huyền ảo, mục “Lửa, sắt và người thợ rèn”, Nxb. Hội Nhà văn, H, tr. 127-128.

[ii] Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Phạm Vĩnh Cư… dịch, Nxb. Đà Nẵng, tr. 903.

[iii] Dambo (Jacques Dournes) (2003), sđd, tr. 124-125.

[iv] Dambo (Jacques Dournes) (2003), sđd, tr. 130-131.

[v] Quyền lực của thanh kiếm có hai mặt: nó tiêu hủy, nhưng có thể tiêu hủy cả sự bất công, sự độc ác, sự ngu dốt và vì vậy, có tác dụng tích cực; và nó xây dựng, nó kiến lập và duy trì hòa bình và công lý. Tất cả các biểu tượng đó đều thích hợp với thanh kiếm khi đó là biểu hiện của vua chúa. (Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), sđd, tr. 489).

TÓM TẮT

Chúng tôi nhận thấy Nàng Ốc sên của Hàn Quốc và Người lấy cóc của Việt Nam thuộc cùng một kiểu truyện Người mang lốt hay kiểu truyện Người lấy thú, giữa chúng có sự tương đồng về những motif tạo ra cốt truyện tuy có sự khác nhau về vị trí và chức năng của các motif  được sắp xếp để tạo nên nội dung truyện. Các motif này được chúng tôi tiếp cận khảo sát với vị trí là một đơn vị cấu tạo nên truyện kể dân gian theo phương pháp phân tích cấu trúc – chức năng. Nghĩa là dựa theo lý thuyết cấu trúc - chức năng chúng tôi sẽ xem xét những motif này như là những chức năng hoạt động của nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ. Cách tiếp cận nghiên cứu motif truyện kể dân gian theo hướng này có thể chỉ ra được vai trò và giá trị của các motif có mặt trong cốt truyện với tư cách là một đơn vị, là một thành phần cấu tạo nên cái toàn thể. Đồng thời còn có thể chỉ ra được các motif ấy với tư cách là một yếu tố truyền thống đã vận hành và biến đổi như thế nào trong cơ chế tạo dựng nội dung của hai cốt truyện nêu trên

Tóm tắt:

Tình yêu thiên nhiên, trong đó có tình yêu cái đẹp của thiên nhiên, phong cảnh là một nét nổi bật trong tính cách người Việt. Qua ca dao chúng ta thấy đối với người dân quê, cảnh đẹp là cảnh có núi có sông, có sơn có thủy , sơn thủy hài hòa, núi sông uốn lượn mềm mại, cảnh vật luân chuyển, hoạt động, tràn đầy sinh khí và sức sống nhưng cũng đầy tình tứ, gắn bó tương thông với con người. Cảnh đẹp ấy bên cạnh hình dáng uyển chuyển và tươi tắn, hữu tình, còn là tượng trưng của ấm no, hạnh phúc. Trong thẩm mỹ của người dân quê, cái đẹp và cái có ích không loại bỏ nhau mà gắn chặt với nhau.

Rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên là một bộ phận trong kinh nghiệm thẩm mỹ của con người. Tìm hiểu những rung động ấy qua ca dao truyền thống cũng là một cách tiếp cận bản sắc văn hóa của người Việt.

I. Đặt vấn đề

Theo nhận định của Đinh Gia Khánh: “Văn học dân gian yêu cầu chúng ta phải “quay trở lại” cái thời đại đã sản sinh ra và nuôi dưỡng nó, “sống lại” cuộc sống của bản thân những người đã sáng tạo và nuôi dưỡng nó, “cùng” lao động,  chiến đấu, sinh hoạt, mở hội, kết bạn,…với họ, vui những niềm vui và buồn những nỗi buồn của chính họ, nói tóm lại là “thể nghiệm lại” toàn bộ cuộc sống với tất cả những hoạt động sản xuất, hoạt động thực tiễn và hoạt động tinh thần muôn  màu muôn vẻ của nhân dân lao động. Chỉ có lúc đó chúng ta mới thấy hết được cái hay cái đẹp của văn học dân gian, mới thấy hết được y nghĩa và vị trí của loại hoạt động nghệ thuật đó trong đời sống hoạt động thực tiễn và đời sống tinh thần của nhân dân”[1]. Vì vậy, muốn tìm hiểu đặc điểm văn học dân gian của một địa phương, vùng miền nào đó nhất thiết phải đặt trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, kinh tế, xã  hội và văn hóa của nơi ấy. Văn học dân gian của cộng đồng ngư dân vùng ven ven biển Bến Tre cũng không ngoại lệ. Nó là sản phẩm tinh thần của bao thế hệ ngư dân trong quá trình vươn mình ra biển khơi, chứa đựng nhiều khát vọng, niềm tự hào của họ và đồng thời có nhiều nội dung liên quan đến đặc điểm về tự nhiên, văn hóa, xã hội của bản thân cộng đồng. Nhưng nổi bật nhất, theo quan điểm của chúng tôi, điều kiện tự nhiên vùng ven biển chính là nhân tố quan trọng nhất trong việc hình thành nên môi trường sinh hoạt cũng như diện mạo văn học dân gian của cộng đồng ngư dân ở đây.

Thị hiếu thẩm mỹ là một hình thức phán đoán thẩm mỹ mang đậm tính chất cá nhân. Thị hiếu là sự ưa thích, thiên về cảm giác nhưng cũng mang tính chất đánh giá rất rõ. Sự tương đồng giữa thị hiếu cá nhân của nhiều người sống trong cộng đồng, một thời đại tạo nên những đặc điểm về cách cảm nhận cái đẹp, cái xấu của một dân tộc trong thời đại nhất định. Tìm hiểu thị hiếu thẩm mỹ dân gian qua ca dao cũng là một cách tiếp cận thị hiếu thẩm mỹ của người Việt và từ đó hiểu thêm tính cách người Việt, bản sắc văn hóa Việt nói chung (1).             

(Thánh Gióng trong hội hoạ)

Sự tích Thánh Gióng – Phù Đổng thiên vương ra đời trong khoảng thế kỷ 3-2 trước Công nguyên, thoạt đầu là vị thần khổng lồ có nguồn gốc từ thần đá và thần tre trúc sau đó phát triển lên thành anh hùng dân tộc chống ngoại xâm; gắn với sự hình thành liên minh Âu Lạc bởi nó ẩn chứa trong mình cả hai thành tố Âu, Lạc.

Mai là loại hoa không thể thiếu được trong nhà người dân ở Nam bộ vào dịp tết. Hoa mai không chỉ tôn vinh vẻ đẹp rạng ngời cho ngày xuân mà còn là văn hóa, phản ánh nhân sinh quan của người dân vùng đất phương Nam qua hàng trăm năm nay. Bên bình hay chậu hoa mai ngày tết, người ta được ngắm nhìn, chiêm nghiệm nét đẹp giản dị của tự nhiên, một cơ hội để họ gần gũi nhau, chia sẻ và tâm tình sau một năm dài bận rộn, là dịp để nối kết con người với các giá trị truyền thống và tâm linh của một dân tộc có bề dày văn hiến.

 

I. VỀ KHÁI NIỆM “HUYỀN THOẠI” VÀ “THI PHÁP HUYỀN THOẠI”

Theo cách nói thông thường, từ “huyền thoại” (myth trong thiếng Anh, mythe trong thiếng Pháp,  миф trong tiếng Nga…) thường được dùng như một từ đồng nghĩa với từ “sai lầm”, “sai lạc” hoặc “ảo tưởng” (niềm tin sai lạc). Nhà triết học Hi Lạp cổ đại Platon cũng đã từng có thái độ phủ nhận huyền thoại vì cho rằng huyền thoại làm cho con người lạc lối, lầm đường. Theo cách hiểu như thế về huyền thoại thì để mô tả, để chỉ rõ một nhận định, một điều hiểu biết, một sự khẳng định nào đó là sai, là không đúng như sự thật, người ta thường phát biểu: “Đó chỉ là một huyền thoại!”. Cũng theo cách hiểu như thế, để diễn tả việc xoá bỏ, việc hoá giải điều sai lầm để tìm ra sự thật đích thực, người ta cũng thường dùng một khái niệm phát sinh từ khái niệm “huyền thoại” là “giải huyền thoại”.

Đặt vấn đề:

Motif là một trong những thuật ngữ văn học dân gian được sử dụng nhiều nhất hiện nay trong các công trình nghiên cứu về các thể loại tự sự dân gian. Những năm gần đây, nhu cầu nghiên cứu truyện kể dân gian theo hướng phân tích kết cấu và nội dung của motif, tìm kiếm nguồn gốc và ý nghĩa lịch sử xã hội của motif cũng như tìm hiểu bản chất mối quan hệ giữa motif và cốt truyện ngày càng gia tăng mạnh mẽ - đây thực ra là một công việc liên tục của truyền thống nghiên cứu văn học dân gian bao giờ cũng liên quan mật thiết đến đề tài. Người ta phân tích motif để tìm kiếm tầng nghĩa sâu xa được dấu kín trong đó, những biểu tượng văn hóa, dân tộc của mỗi quốc gia. Phân tích motif để tìm ra “con đường ngắn nhất” cho sự liên kết của các văn bản truyện kể dân gian trên toàn thế giới.

Hò giã gạo, một loại hình dân ca, một biểu hiện văn hoá dân gian phổ biến ở nhiều địa phương trong nước. Sở dĩ có tên gọi hò giã gạo vì điệu hò này sản sinh từ nhịp điệu lao động giã gạo và quan hệ hình thức của công việc này. Hò giã gạo có thể ra đời khá lâu, muộn nhất là vào thời văn hoá Đông Sơn mà dấu vết là hình người chèo thuyền, giã gạo, thổi kèn được khắc hoạ trên mặt trống đồng.

Tóm tắt:

Bài viết xác định được 04 tiêu chí để nhận diện thể loại truyền thuyết dân gian vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL): Xét về mặt nội dung, truyền thuyết dân gian ở vùng ĐBSCL phải chứa đựng nội dung dân tộc – lịch sử; Trong thể loại truyền thuyết, tác giả dân gian bao giờ cũng thể hiện những quan điểm, thái độ, tình cảm của mình đối với các nhân vật lịch sử, các vấn đề, các sự kiện lịch sử trong quá khứ; Ở thể loại truyện này, bao giờ cũng phải chứa đựng các yếu tố thuộc về niềm tin; Nội dung dân tộc - lịch sử của truyền thuyết phải được thể hiện cụ thể bằng những vấn đề có liên quan đến lịch sử cộng đồng vùng ĐBSCL.

Chu Xuan Dien1. VẤN ĐỀ

Truyện Tấm Cám nằm trong một kiểu truyện thuộc loại phổ biến nhất trên thế giới. Cô Tấm trong truyện của nhiều nước phương tây có tên là cô Tro Bếp (Cendrillon ở Pháp, Cinderella ở Anh, Cenerentola ở Ý, Cenusotca ở Rumani, Cernuska hay Doluska ở Nga...), vì vậy kiểu truyện này có tên là kiểu truyện cô Tro Bếp. Kiểu truyện cô Tro bếp trên thế giới đã được nghiên cứu nhiều, các vấn đề về nguồn gốc và sự di chuyển của cốt truyện được chú ý tới nhiều hơn cả.

Tóm tắt

        Nghiên cứu motif truyện kể dân gian trên bình diện cấu tạo là phương pháp miêu tả hình thái học về motif như là một đơn vị trần thuật truyền thống của cốt truyện dân gian. Tuy nhiên việc miêu tả không phải được thực hiện với tất cả mọi motif mà những motif được chọn để miêu tả cấu tạo hình thái phải là những motif có ý nghĩa truyền thống quan trọng nhất, chứa đựng nhiều chủ đề cả về mặt phong tục lẫn sinh hoạt xã hội, đồng thời phải là motif đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được trong việc tìm hiểu nội dung cốt truyện.

  1. Vẻ hoang vu của thiên nhiên- một dấu ấn trong những bài ca của thiên nhiên đất nước.

  Vùng Nam Bộ giàu đẹp đáng tự hào ngày nay lại là vùng đất bỏ hoang hàng ngàn năm từ sau khi đế quốc Phù Nam tan rã vào thế kỷ thứ VI. Bao nhiêu thế kỷ trôi qua, mảnh đất màu mỡ này vẫn ngủ yên vì người bản địa vốn quá thưa thớt lại lạc hậu về kỹ thuật nông nghiệp. Cũng có thể một phần do thiên nhiên sẵn giàu có, ưu đãi nên họ không cần khai thác thêm. Những vùng đất cao đủ trồng tỉa, những con rạch thừa cá tôm, những cánh rừng thừa hương liệu, gỗ,.. đã đảm bảo cho đời sống. Mãi đến thế kỷ thứ XVII, những người Việt đầu tiên”đi mở cõi” đến vùng đất mới, nhận ra ngay vẻ hoang sơ của nó:
“Muỗi kêu như sáo thổi
Đỉa lội như bánh canh
Cỏ mọc thành tinh
Rắn đồng biết gáy”

Tóm tắt:

         Nhân vật con vật tinh ranh là những con vật mà trong quan niệm dân gian được xem là thông minh, tinh quái, mưu trí. Song song với đặc trưng là biết vận dụng lý trí để hành động, nhân vật con vật tinh ranh còn thể hiện một đặc trưng khác, đó là tính hai mặt. Bởi bên cạnh việc sử dụng mưu mẹo để giúp đỡ các nhân vật khác vượt qua thử thách, đôi khi, nhân vật con vật tinh ranh lại lạm dụng mưu kế để chơi khăm, gây hại cho kẻ khác. Tính hai mặt này được thể hiện nhất quán từ mở đầu đến diễn tiến truyện và kết thúc truyện. Tính hai mặt góp phần giúp cho nội dung truyện kể thêm kịch tính, hấp dẫn.

V. Ia. Propp khi đặt ra vấn đề “nghiên cứu truyện cổ tích một cách cụ thể bắt đầu từ đâu?” đã cho rằng cần phải mở rộng truyện cổ tích thần kỳ về với cuộc sống, tức là về với những cội rễ hình thành nên truyện cổ tích thần kỳ. Theo ông, nghiên cứu nguồn gốc của một hiện tượng còn chưa phải là nghiên cứu lịch sử của hiện tượng đó. Nghiên cứu lịch sử có thể còn chưa được tiến hành ngay – đó là công việc của nhiều năm tháng, không phải là công việc của một người mà là của nhiều thế hệ [1;181,182]. Và nghiên cứu nguồn gốc của môtíp truyện kể dân gian cũng chỉ là bước đầu tiên trong xu hướng này.

Ngày 23.4.2014, luận án tiến sĩ Motif trong nghiên cứu truyện kể dân gian: Lý thuyết và ứng dụng - trường hợp motif tái sinh của nghiên cứu sinh La Mai Thi Gia do PSG. Chu Xuân Diên hướng dẫn đã được 100% thành viên Hội đồng chấm luận án tiến sĩ nhất trí đánh giá đạt loại xuất sắc. Điểm thành công của luận án theo hội đồng là đã tổng thuật được lý thuyết motif truyện kể dân gian của các trường phái nghiên cứu folklore và đã ứng dụng vào một trường hợp cụ thể, đó là nghiên cứu motif tái sinh trong truyện cổ tích Việt Nam. VH-NN xin giới thiệu phần Dẫn nhập, Mục lục và Kết luận của Luận án. 

Dựa trên nền tảng lý thuyết về phê bình sinh thái, bài viết tìm kiếm sự liên hệ giữa phê bình sinh thái và văn học thiếu nhi, qua đó, gửi thông điệp về bảo vệ môi trường; khẳng định vai trò của văn học thiếu nhi trong việc thúc đẩy những chương trình hành động nhằm bảo vệ môi sinh.

20240419 5

Sự tương đồng về mặt chức năng giữa phê bình sinh thái và văn học thiếu nhi nằm ở việc cả hai phương pháp tiếp cận này đều hướng đến việc nâng cao ý thức của độc giả đối với các vấn đề môi sinh cấp bách đang diễn ra hiện nay như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, sa mạc hoá và các vấn đề khác. Vai trò của văn học thiếu nhi đã được Greta Gaard, chuyên gia về nữ quyền sinh thái, nhấn mạnh khi cho rằng văn học thiếu nhi chuẩn bị cho trẻ em khả năng kháng cự lại sự phát triển mang tính huỷ diệt về văn hoá, kinh tế và môi trường1. Đứng trước một tương lai bất định, văn học thiếu nhi trở thành một không gian thuận lợi để nuôi dưỡng nhận thức về phê bình sinh thái cho trẻ em và cả người trưởng thành. Thông điệp về việc hãy quan tâm và chăm sóc Mẹ thiên nhiên được truyền tải và lĩnh hội ở nơi đâu, nếu như không phải trong văn học thiếu nhi, nơi vốn được nhiều học giả coi là mảnh đất màu mỡ để ươm mầm nhận thức về sinh thái trong trái tim và khối óc trẻ thơ2.

    Trong bài viết này, bắt đầu bằng việc giới thiệu về phê bình sinh thái, chúng tôi nỗ lực tìm kiếm sự liên hệ giữa phê bình sinh thái và văn học thiếu nhi; nói cách khác, văn học thiếu nhi đóng vai trò gì trong việc nâng cao nhận thức về môi sinh cũng như sự tương tác giữa các loài. Chúng tôi cũng giới thiệu sơ lược một số tác phẩm văn học thiếu nhi khu vực châu Á, được lược dịch từ nghiên cứu People and Nature in Asian Stories: Reading and Writing Materials for Eco Education của Novita Dewi, nhằm đưa đến cái nhìn toàn cảnh về cách thức môi trường được tái hiện trong văn học thiếu nhi. Chúng tôi lập luận rằng bất chấp những thông điệp về bảo vệ môi trường thể hiện qua các tác phẩm này, vai trò của văn học thiếu nhi trong việc thúc đẩy các chương trình hành động nhằm bảo vệ môi sinh vẫn chưa được giải quyết triệt để.

    1. Từ phê bình sinh thái đến phê bình sinh thái trong văn học thiếu nhi

    Thuật ngữ phê bình sinh thái xuất hiện lần đầu tiên trong tiểu luận Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism của William Rueckert vào năm 1978 và trở nên phổ biến trong cuộc họp của Hiệp hội Văn học phương Tây vào năm 1989, khi Cheryll Glotfelty sử dụng thuật ngữ này để tiếp cận những văn bản tự nhiên. Trong tuyển tập Ecocriticism Reader, Cheryll Glotfelty định nghĩa: “Phê bình sinh thái nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học và môi trường vật chất. Giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ ý thức về giới, và phê bình Marxist áp dụng nhận thức về phương thức sản xuất và giai cấp kinh tế trong việc đọc văn bản, phê bình sinh thái áp dụng cách tiếp cận lấy trái đất làm trung tâm để nghiên cứu văn học”3.

    Việc thành lập Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (ASLE) vào năm 1992, sự ra đời của tạp chí chuyên về môi trường ISLE: Interdisciplinary Studies in Literature and Environment vào năm 1993 và việc xuất bản tuyển tập The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology vào năm 1996 có thể coi là những cột mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời của phê bình sinh thái. Những mục tiêu ra đời của phê bình sinh thái ban đầu dường như khá đơn giản: tạo một diễn đàn về mặt học thuật cho giới học giả nghiên cứu, thảo luận các tác phẩm văn học về môi trường; nghiên cứu sự trình hiện của thiên nhiên và môi trường trong văn chương, qua đó nhìn thấy sự tương tác giữa thiên nhiên và văn hoá; tiến hành các hoạt động học thuật như một cách ứng phó với các vấn đề về môi trường và môi sinh4.

    Ở giai đoạn phát triển ban đầu, phê bình sinh thái dường như là cuộc chơi của tầng lớp học giả da trắng trung lưu, những người đồng thời cũng là những nhà hoạt động vì môi trường mà phê bình sinh thái trở thành một hình mẫu tiêu biểu của tinh thần bảo vệ môi trường trong bối cảnh học thuật và tri thức. Các giai đoạn phát triển sau này của phê bình sinh thái cho thấy có một sự chuyển hướng trong đội ngũ nghiên cứu và cách thức tiếp cận. Các văn bản về môi trường dần bộc lộ ý thức sâu sắc về sự khác biệt giới và giai cấp. Giới học giả không chỉ xoay quanh nam giới trung lưu da trắng, tức những đối tượng lợi thế trong xã hội, mà đa dạng về tầng lớp và giới, chẳng hạn như sinh viên, người da màu và đặc biệt là sự tham dự của phụ nữ. Một số công trình nghiên cứu nổi bật trong giai đoạn này có thể kể đến như Ecocomposition: Theoretical and Pedagogical Practices (2001) của Christian R. Weisser và Sid Dobrin, Natural Discourse: Toward Ecocomposition (2002) của Dobrin and Weisser, Literature and the Environment: A Reader on Nature and Culture (1999) của Anderson, Slovic và O’Grady.

    Hiệp hội Diversity Caucus được thành lập tại hội nghị ASLE tại Kalamazoo vào năm 1999 có thể xem là động thái tích cực nhằm khuyến khích sự hiện diện và tham dự của tầng lớp học giả nghiên cứu về môi trường từng thuộc vào những nhóm thiểu số. Tuy những thành viên sáng lập của Hiệp hội xuất thân từ những nhóm đặc quyền trong xã hội, họ dù sao vẫn là thành phần tích cực chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và cam kết đa dạng hoá lĩnh vực học thuật này5. Điều này không chỉ giúp đa dạng hoá lực lượng sáng tác mà còn dẫn đến những thay đổi căn bản về mặt thể loại trong nghiên cứu về phê bình sinh thái, cụ thể là việc chuyển hướng từ tiểu luận sang thơ ca, tiểu thuyết, khoa học viễn tưởng, thậm chí là các hình thức truyền thông khác như phỏng vấn hay xã luận.

    Dẫu tất cả nỗ lực nhằm giới thiệu và đa dạng hoá nghiên cứu về phê bình sinh thái, đại đa số các văn bản viết về môi trường đều hướng đến độc giả trưởng thành. Số chuyên đề “Green Worlds: Nature and Ecology” trên Tạp chí The Lion and The Unicorn (Suzanne Rahn chủ biên) vào năm 1995 và một số chuyên đề khác là “Ecology and the Child” trên Tạp chí Children’s Literature Association Quarterly (Winter 1994-1995) có thể xem là những động thái đầu tiên đánh dấu sự chuyển hướng về đối tượng độc giả. Đồng thời, một loạt tiểu luận của ISLE vào năm 1996 thảo luận về cuốn sách thiếu nhi The Lorax6 của Dr. Seuss cũng dấy lên những bận tâm về tự sự môi trường trong văn học thiếu nhi. Mười năm cuối thế kỷ XX đến những năm đầu của thế kỷ XXI, các chương sách và tiểu luận tập trung vào vấn đề sinh thái trong văn học thiếu nhi, đặc biệt là sự ra đời của ấn phẩm Wild Things: Children’s Culture and Ecocriticism của Sid I. Dobrin and Kenneth B. Kidd, đánh dấu sự ra mắt chính thức của lĩnh vực nghiên cứu này.

    Cốt lõi của hướng tiếp cận phê bình sinh thái đối với văn học là ý tưởng về ảnh hưởng của văn học và những tạo tác văn hoá đối với cách chúng ta tưởng tượng về tự nhiên, điều góp phần hình thành nên những công dân sinh thái7. Những ý tưởng mà chúng ta có được hình thành bởi mối quan hệ của chúng ta với môi trường tự nhiên8. Hiểu biết này đồng thời giúp chúng ta nhận ra rằng bên cạnh lý trí thì cảm xúc và trực giác cũng quan trọng trong việc đưa ra quyết định9.

    Trước ý thức về vai trò quan trọng của môi trường đối với sự hình thành nhân cách, câu hỏi được đặt ra là liệu một tác phẩm văn học có thể tác động đến cách thức trẻ em hình dung và suy tưởng về thiên nhiên, qua đó là góp phần hình thành nên công dân sinh thái hay không. Quan điểm lấy sinh thái làm trung tâm (ecocentric) bác bỏ ý kiến cho rằng thiên nhiên “tồn tại để phục vụ nhu cầu và lợi ích của con người”10. Ngược lại, nó ngụ ý rằng tất cả các sinh thể đều được kết nối với nhau, do đó những gì ảnh hưởng đến vật nào đó sẽ ảnh hưởng đến tất cả. Việc trở thành một công dân sinh thái ngụ ý nhận thức về sự kết nối lẫn nhau này, cùng với “ý chí làm sáng tỏ dấu ấn của chúng ta trong một thế giới nơi tất cả thiên nhiên đều có ý nghĩa sống còn”11.

    Tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển khả năng cảm thụ của trẻ em, đặc biệt là giai đoạn niên thiếu. Lovlie (2013) cho rằng “tất cả các hình mẫu thực sự về vị giác đều có trong thiên nhiên” (trích trong Goga, Nina et al.). Những trải nghiệm về cảnh quan cũng giúp trẻ em phát triển sự nhạy cảm, bởi nếu một đứa trẻ “không lang thang trên những đồng bằng khô cằn, nếu cát cháy không làm nó bỏng chân, nếu cái sột soạt thô ráp của những viên đá phơi dưới ánh mặt trời không khiến nó bức bối, thì làm sao nó có thể tận hưởng không khí mát mẻ của một buổi sớm mai?”12. Cách hiểu này đồng thời cũng đặt lại vấn đề về việc nên tuân theo tình cảm hay lý trí. Lựa chọn đúng lẽ ra là con người nên vận dụng ý thức và sự nhạy cảm trước khi dùng lý trí để suy xét mọi việc.

    Vai trò định hình nhân cách được Massey và Bradford (2011) khẳng định trong cách thức các tác giả nhìn nhận giá trị của văn học thiếu nhi viết về đề tài môi trường. Các tác giả định nghĩa bộ phận văn học này là “những văn bản hệ thống hóa các vấn đề sinh thái đương đại-phản ánh những chương trình nghị sự toàn cầu đang thay đổi và dự đoán các khả năng trong tương lai. Một trong những chức năng chính của văn học là xã hội hóa giới trẻ để biến chúng trở thành những người trưởng thành có trách nhiệm và khả năng thấu cảm trong tương lai bằng cách định vị độc giả là những công dân sinh thái”13. Dựa vào định nghĩa này, các tác giả đã phân tích những tác phẩm văn học dành cho trẻ em gần đây (bao gồm cả phim ảnh và phi hư cấu) xoay quanh “cách thức văn bản về môi trường tìm cách định vị trẻ em”14. Quan điểm của họ là “nếu độc giả chấp nhận các vị trí chủ thể được đặt ra trong các văn bản môi trường, họ có thể thừa nhận thế giới quan mà các văn bản đó đề xuất; nghĩa là, những hiểu biết của độc giả về công dân sinh thái có thể được xây dựng khi họ tương tác với các văn bản”15.

    Sư phạm sinh thái, một nhánh của phê bình sinh thái, được xem là có mối quan hệ gần gũi và phần nào lý giải mối liên hệ giữa phê bình sinh thái và văn học thiếu nhi. Về cơ bản, sư phạm sinh thái (ecopedagogy) nhấn mạnh tầm quan trọng về sự hợp lưu giữa công bằng xã hội, công bằng sinh thái và công bằng giữa các loài như là trọng tâm của việc thực hành toàn diện và khai phóng (inclusive and liberatory praxis). Richard Kahn chỉ ra ba mục tiêu của sư phạm sinh thái, bao gồm: “(1) nâng cao hiểu biết về vùng sinh học, sự tương tác giữa các hệ sinh thái địa phương, khu vực và toàn cầu; (2) nghiên cứu sinh thái văn hoá, cụ thể là tìm hiểu các nền văn hoá bền vững lẫn không bền vững, các chiến lược chống lại sự đồng hoá, củng cố cộng đồng, phát triển các công nghệ phù hợp và tổ chức tri thức tập thể; (3) phê phán các tác động phản sinh thái của chủ nghĩa tư bản công nghiệp, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc và văn hoá thống trị, đi cùng với đó là tổ chức và vận động mọi người tham gia vào các hình thức chính trị sinh thái phù hợp và xây dựng phong trào”16. Mục tiêu thứ ba của sư phạm sinh thái về cơ bản chia sẻ động lực được những nhà phê bình sinh thái xem xét khi nghiên cứu về văn học thiếu nhi. Kamala Platt định nghĩa văn học thiếu nhi về công bằng môi trường như “những câu chuyện dành cho thiếu nhi xem xét mối tương quan giữa các vấn đề về quyền con người và công bằng xã hội với các vấn đề sinh thái, làm thế nào suy thoái môi trường ảnh hưởng đến các cộng đồng người, và làm thế nào các cộng đồng người duy trì mối quan hệ cộng sinh với môi trường sống trên trái đất của họ”17.

    Văn học nói chung phải được xem như tác nhân mang tính biểu cảm (expressive agent) cho sự thay đổi xã hội. Bởi văn bản được nhìn nhận là nhân tố góp phần thúc đẩy sự thịnh vượng của môi trường và công bằng xã hội, văn học thiếu nhi, đặc biệt nhánh văn học thiếu nhi về công bằng môi trường, trong chừng mực nào đó có thể cung cấp những liều thuốc giải độc cho logic của sự thống trị. Những câu chuyện về kết nối và tương trợ lẫn nhau giữa các loài, giữa con người, tự nhiên và toàn nhân loại có thể giải huyền thoại về cái tôi riêng biệt và lạ hoá mà logic thống trị thường nhấn mạnh. Tương tự, nếu logic thống trị nhấn mạnh đến hệ thống phân cấp thì những câu chuyện kể lại đề cao tình trạng vô chính phủ, sự hiện diện đa dạng của con người-loài vật-tự nhiên trong một xã hội dân chủ, tự do. Giải được hai logic thống trị này về cơ bản sẽ giải quyết tình trạng bị áp bức, tức trạng thái thứ ba của logic thống trị18.

    Việc nhìn nhận văn học trẻ em như một thành tố quan trọng giữa sự hợp lưu của sư phạm sinh thái, nữ quyền sinh thái và phê bình sinh thái cho thấy triển vọng của văn học thiếu nhi trong việc cung cấp một liều thuốc giải cho tình trạng xa lạ hoá và khuyến khích độc giả dấn thân, hướng đến dân chủ sinh thái và công bằng xã hội. Cụ thể, văn học thiếu nhi được kỳ vọng giải quyết ba vấn đề cơ bản về môi trường và sinh thái.

    Thứ nhất, văn bản giải quyết câu hỏi bản thể luận “tôi là ai” như thế nào? Bản sắc con người được xây dựng tương hỗ hay đối lập với thiên nhiên, động vật và các nền văn hóa/ bản sắc đa dạng của con người? Nói cách khác, làm thế nào để văn bản cung cấp liều thuốc giải độc cho bước đầu tiên trong logic thống trị?19.

    Như Clare Bradford đã lập luận, vì nhiều cuốn sách về môi trường dành cho trẻ em tuy rất mạnh trong việc chỉ ra các cuộc khủng hoảng về môi sinh nhưng lại không thúc đẩy các chương trình chính trị hoặc hành động tập thể để giải quyết các khủng hoảng được đặt ra20, các nhà nghiên cứu đặt ra vấn đề thứ hai khi tiếp cận văn học thiếu nhi. Cụ thể, câu chuyện đó giới thiệu vấn đề công bằng sinh thái như thế nào? Kết truyện có đưa ra một chiến lược thích hợp để giải quyết vấn đề đặt ra trong truyện, bác bỏ hệ thống phân cấp để ủng hộ cộng đồng và dân chủ tham gia (participatory democracy) hay không? Nhân vật trẻ em có bị bỏ lại để một mình giải quyết các vấn đề công bằng sinh thái do người lớn tạo ra lúc ban đầu hay không?21.

    Thứ ba, văn bản thừa nhận bản chất của những trung gian nào? Thiên nhiên có phải là đối tượng được cứu bởi nhân vật trẻ em anh hùng? Có phải thiên nhiên đóng vai như một thiếu nữ bị gặp nạn, một người mẹ hi sinh hết mình, hay thiên nhiên mang tính chủ thể và có quyền tự quyết của nó?22

    Viết, đọc và nghiên cứu văn học thiếu nhi dưới lăng kính của phê bình sinh thái mở ra nhiều triển vọng cho bộ phận văn học này thay vì đóng khung nó như một thể loại chỉ dành cho độc giả nhỏ tuổi. Ba câu hỏi lớn trên đây cho thấy vai trò quan trọng của văn học thiếu nhi trong việc góp phần giải quyết các vấn đề sinh thái xã hội, khắc phục ô nhiễm môi trường, xác lập lý tưởng sống lành mạnh, dung hoà với tự nhiên và duy trì ổn định xã hội. Những câu hỏi này đồng thời có thể xem như những định hướng trong nghiên cứu văn học trẻ em dưới góc nhìn sinh thái nhằm cho thấy mối quan hệ tương tác giữa môi trường văn hoá tinh thần và sáng tạo văn chương. Khảo sát sơ lược dưới đây về một số truyện viết cho thiếu nhi ở khu vực châu Á một mặt giới thiệu cách thức thiên nhiên được thể hiện trong văn học thiếu nhi, mặt khác lại bộc lộ những vấn đề trong cách thức con người đối diện và định vị bản thân giữa môi trường xung quanh.

    2. Khảo sát bước đầu một số truyện viết về thiếu nhi của châu Á

    Nghiên cứu của Novita Dewi, People and Nature in Asian Stories: Reading and Writing Materials for Eco Education, về một số tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi có thể cung cấp một cái nhìn sơ lược về tình hình văn học thiếu nhi tại một số nước châu Á23. Sử dụng lăng kính của phê bình sinh thái và hậu thuộc địa, Dewi cho thấy những chủ đề xuất hiện phổ biến trong văn học thiếu nhi bao gồm sự cạn kiệt của trái đất và tài nguyên thiên nhiên, lòng tham của con người và sự bảo tồn và lưu giữ trí khôn của nhân loại. Dù không thể phủ nhận vai trò của những tác phẩm này trong việc duy trì và nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, những chủ đề được tìm thấy trong những tác phẩm đồng thời cũng cho thấy vai trò trung tâm của con người trong mối quan hệ với thiên nhiên và muôn loài. Cụ thể, văn học thiếu nhi vẫn bộc lộ cung cách trịch thượng mà con người định vị về chính mình trong mối tương quan với sinh thái.

    Là một phần của một dự án lớn hơn, bài báo của Dewi chọn lọc một số truyện ngắn, truyện ngụ ngôn, truyện dân gian, bài hát hay bài thơ miêu tả về thiên nhiên và con người làm đối tượng nghiên cứu. Các tác phẩm này được trích ra từ tuyển tập CeritaCerita Pelestarian Lingkungan: Cerita Rakyat dari Berbagai Penjuru Dunia (2003). Cuốn sách là bản dịch tiếng Indonesia từ tác phẩm Earth Care-World Folktales to Take About của MacDonald, được xuất bản lần đầu vào năm 1992 và thường được sử dụng trong giáo trình giáo dục sinh thái trên thế giới (Dewi, 41). Nghiên cứu của Dewi tập trung vào 13 câu chuyện, bao gồm The Farmer and His Crops (Hmong), Hold Tight and Stick Tight (Japan), The New Lake (China), Fox Rulesthe Stream (Thailand), The Mosquito Extermination Project (India); Gecko Cannot Sleep (Bali), Avvaiyar’s Rest (Tamil Nadu), Hidden Divinity (India), Love the Weeds (Iran), The Useless Tree (China), Sharing the Wine (China), In Your Hands (India), The Tamarind Tree (Thailand) và Don’t Throw Stones from Not Yours to Yours (Israel). Năm chủ đề chính được Dewi tổng kết qua khảo sát bao gồm chăm sóc môi trường, tác động của hành vi con người đối với thiên nhiên, mối liên hê tương hỗ của đời sống tự nhiên, giá trị của vạn vật trên trái đất và lòng tham của con người.

    Chủ đề đầu tiên, việc quan tâm và nuôi dưỡng môi trường tự nhiên, được tìm thấy trong hai câu chuyện The Farmer and His Crops”  In Your Hands. Cả hai câu chuyện này đều chứa đựng những bài học đạo đức, mặc dù câu chuyện thứ hai mang màu sắc tôn giáo rõ ràng hơn. The Farmer and His Crops lý giải vì sao thời gian thu hoạch vụ mùa ngắn thông qua việc chỉ trích thói lười biếng của một người nông dân. Nhân vật chính được cho là lười biếng đến nỗi anh ta thậm chí không muốn thu hoạch mùa vụ trên cánh đồng của mình. Ngô và lúa đành tự nguyện tìm đến nhà người nông dân và thất vọng nhận ra chẳng có kho thóc nào đang chờ đợi chúng cả. Thất vọng, ngô và lúa đành quay ngược lên đồi và kể từ đó, người nông dân phải vất vả lên đồi mới có thể thu hoạch được mùa vụ. Ở câu chuyện thứ hai, một thanh niên láu cá tìm cách lừa một nhà thông thái bằng cách hỏi xem con chim trên tay ông còn sống hay đã chết. Nhìn thấy mưu mẹo của gã thanh niên kia, nhà thông thái trả lời nếu ta bảo con chim ấy còn sống, người sẽ giết chúng đi trong khi chỉ thả ra nếu ta bảo rằng con chim ấy đã chết. Tính chất ngụ ngôn phản ánh qua câu chuyện, ta gặt hái những gì ta bắt gặp, đồng thời cũng cho thấy cách thức con người đối xử với môi trường xung quanh. Dưới góc nhìn của phê bình sinh thái, nhân vật con người trong hai câu chuyện trên luôn cho thấy vị trí chủ đạo, nắm quyền và kiểm soát môi trường. Thiên nhiên chỉ được xem là nguồn dự trữ thực phẩm và phục vụ cho lợi ích con người.

    Hai câu chuyện ngụ ngôn Sharing the Wine và Don’t Throw Stonesfrom Not Yoursto Yours mang đến những bài học về hậu quả của thói ích kỷ và keo kiệt. Trong Sharing the Wine, môt bữa tiệc rượu đã kết thúc bằng một bữa tiệc nước lã dưới ánh trăng bởi mỗi một vị khách tham dự đã lén lút đổ một vò nước lã vào thùng, chắc mẩm sẽ không ai phát hiện nếu chỉ một chút nước bị hoà tan với rượu. Tương tự, Don’t Throw Stonesfrom Not Yours to Yours chỉ trích thói ích kỷ của nhân vật nam chính. Một người đàn ông giàu có liên tục ném những viên đá xấu xí trong sân nhà mình ra ngoài đường và tảng lờ tất cả những phàn nàn của hàng xóm xung quanh. Đến một ngày, nhân vật chính bị phá sản và cay đắng nếm trải những phiền toái từ đống đất đá mà ông đã thải ra trước đây. Bài học nhãn tiền từ hai câu chuyện này cho thấy hành vi của cá nhân có thể ảnh hưởng đến cộng đồng xung quanh như thế nào. Thêm vào đó, con người một lần nữa thể hiện sự thống trị và đô hộ thiên nhiên thông qua cách thức câu chuyện kể chỉ xoay quanh nhân vật là con người.

    Ngược với câu chuyện được kể lại bên trên, hai câu chuyện thiếu nhi Gecko Cannot Sleep và Mosquito Extermination Project lại truyền tải thông điệp về cuộc sống thuận hoà giữa muôn loài. Điều đáng chú ý là muôn loài ở đây không bao gồm con người. Cảm thấy bị phiền toái bởi đom đóm cứ nhấp nháy suốt đêm, một con tắc kè bèn đến gặp trưởng thôn để phàn nàn. Bất ngờ là tại đây Tắc Kè đã được các loài vật khác khuyên bảo về vai trò của các loài vật khác nhau trong cuộc sống, hiểu ra và về nhà. Đom đóm nhấp nháy soi đường để dân làng không dẫm phải hố Trâu. Trâu lấy đất lấp đường rồi nước Mưa rửa sạch. Nhưng Mưa vẫn sẽ đến để Ao không cạn khô. Bởi nếu Ao cạn khô thì Muỗi không sinh sôi nảy nở và Tắc Kè không còn gì để ăn. Thông qua việc mô tả sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các sinh thể, hai câu chuyện trên truyền tải thông điệp về sự kết nối giữa vạn vật, và sự vắng mặt của bất kỳ một sinh vật nào cũng có thể làm xáo trộn chuỗi sự sống trên trái đất. Những giá trị phổ quát này phần nào cho thấy những câu chuyện thiếu nhi có thể chia sẻ những thông điệp chung với những câu chuyện sinh thái toàn cầu.

    Ba câu chuyện Love the Weeds, The Useless Tree, và The New Lake lại mang đến thông điệp nhẹ nhàng hơn,rằng trên thế gian này, không có vật gì là không có giá trị. Thoạt nhìn, hai câu chuyện đầu tiên tưởng chừng chỉ xoay quanh thế giới loài người bởi trong cả hai truyện, con người chủ động vứt bỏ những thứ bị cho là vô dụng. Những thứ được cho là vô dụng ấy có thể là cây cỏ hay đồ vật không còn giá trị sử dụng. Tương tự, The New Lake kể về một hoạch định sai lầm của Thủ tướng Trung Quốc trong quá trình xây dựng thành phố. Dự định lấp hồ để có đất xây dựng nhà cửa, ông trao đổi với vị phó thủ tướng và ngỡ ngàng nhận ra người này có dự định đào một cái hố tương tự chính xác bằng cái hồ mà thủ tướng muốn lấp. Trong khi đó, hai câu chuyện Avvaiyar’s Rest và Hidden Divinity đều nói về sự thiêng liêng của thiên nhiên được Chúa tạo ra cũng như sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Câu chuyện Laudato si còn nhấn mạnh những người không yêu quý thiên nhiên thì không thể yêu thương đồng loại, cũng như yêu mến Chúa.

    Lòng tham có sức mạnh huỷ diệt là thông điệp cuối cùng mà hai câu chuyện dân gian từ Nhật Bản và Thái Lan muốn truyền tải. Truyện dân gian Nhật Bản Hold Tight and Stick Tight, gửi gắm một bài học muôn thuở rằng người lương thiện sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng còn những kẻ tham lam rồi sẽ bị trừng trị. Nhân vật người lương thiện được mách là hãy giữ chặt cây thông thần kỳ mà từ đó nhựa của nó biến thành vàng. Ngược lại, nhân vật kẻ tham lam ôm cùng một cái cây nhưng chỉ nhận lại toàn nhựa thông lan tràn khắp cơ thể. Trong hai câu chuyện dân gian của Thái Lan, lòng tham trở thành một thói xấu cố hữu của cả loài vật lẫn con người, thúc đẩy các nhân vật lao vào những cuộc cạnh tranh không lành mạnh. Câu chuyện đầu tiên Fox Rules the Stream, kể về cuộc chiến giữa các loài động vật lớn nhỏ. Bởi tính háu ăn, một con cáo ranh mãnh đã sử dụng sức mạnh của mình huy động những con vật lớn hơn như trăn và voi bắt nạt những con vật nhỏ hơn nhằm chiếm hữu dòng suối mà cáo đang sinh sống. Cuối cùng, nhờ khả năng của thỏ mà những con vật nhỏ hơn cùng nhau đoàn kết lại và chiến thắng những con vật lớn hơn. Trong câu chuyện thứ hai The Tanmadrin Tree, hai người bạn lên đường nhằm tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn và hẹn ngày gặp lại sau 5 năm. Người thứ nhất thành công nhờ đức tính kiên trì và tiết kiệm. Người thứ hai, ngược lại, lại thất bại vì chỉ biết tiêu xài hoang phí. Sau 5 năm gặp lại, người thứ nhất nhường cho người thứ hai một căn nhà nhỏ với cây me sau vườn. Vẫn chứng nào tật nấy, người thứ hai không chịu làm lụng mà tiếp tục nuông chiều bản thân bằng cách bứt lá me để cho vào bữa ăn khiến cây me mỗi lúc một cằn cỗi. Cuối cùng, người thứ nhất một lần nữa giúp đỡ và giảng giải khiến cho người thứ hai hiểu ra lòng tham của bản thân khi luôn muốn được thêm một chút nữa.

    Dewi chuyển chủ đề của cuộc thảo luận sang một số truyện thiếu nhi được đăng trên Sunday Kompas, những truyện được cho là góp phần gia tăng nhận thức về môi trường sinh thái đối với độc giả. Hai truyện ngắn Growing Mangrove và Warisan Mbah Amat nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cứu trái đất cho thế hệ mai sau bởi thiên nhiên không trường tồn mãi mãi. Trong câu chuyện Putri Alor, nhân vật nữ chính, một cô gái nhỏ, thường xuyên chơi đùa với loài rùa xanh trên đảo Alor và ý thức rõ ràng tầm quan trọng của việc bảo tồn chúng. Hành động này ban đầu không được những người lớn hưởng ứng nhưng họ dần nhận ra kho báu nằm trong chính những sinh vật thông thường hiện diện trong cuộc sống của họ.

    Nói chung, những chủ đề của văn học thiếu nhi được tìm thấy trong nghiên cứu của Dewi không phải là những chủ đề xa lạ. Tuy những câu chuyện này không giải quyếtrốtráo ba câu hỏi quan trọng về chức năng của văn học thiếu nhi đối với tiến bộ xã hội, chúng dù sao cũng góp phần minh hoạ mối quan hệ tương hỗ thay vì mang tính thứ bậc giữa con người, loài vật và tự nhiên xung quanh. Hơn thế nữa, việc thể hiện những nội dung phổ quát trong văn học thiếu nhi không quan trọng bằng cách thức những đề tài ấy được thể hiện như thế nào. Những nghiên cứu trường hợp về văn học thiếu nhi dưới góc nhìn phê bình sinh thái thậm chí được McDowell xem là khởi đầu quan trọng để nghiên cứu về tính đa thanh và tính đối thoại trong văn chương, hai khái niệm được mượn từ cách hiểu của Bakhtin. Việc tập trung vào cách thức nhà văn thể hiện sự tương tác giữa những “tiếng nói” của con người và phi con người trong tự nhiên giúp chúng ta “nhận ra rằng tất cả các yếu tố trong mạng lưới khổng lồ của tự nhiên đều có giá trị và cái mà chúng ta có thể gọi là “những tiếng nói” không có nghĩa là chúng ta có thể dịch tiếng nói đó sang ngôn ngữ của con người. Thách thức là làm thế nào ý thức được các giá trị đạo đức và thái độ mà ngôn ngữ văn học phản ánh, vì thứ ngôn ngữ này cũng “mang những bằng chứng về các giá trị xã hội” (chữ dùng của McDowell 1996, tr. 373) ở vào thời của nó”24. Việc phân tích sự tương tác giữa những “tiếng nói” khác nhau qua những cuộc hội ngộ văn chương giữa con người, động vật và môi trường xung quanh có thể giúp khám phá những quan điểm đạo đức khác nhau liên quan đến giá trị của mỗi loài bởi mỗi cuộc “gặp gỡ”, theo khái niệm “không-thời gian” (chronotope) của Bakhtin, là “nơi những nút thắt tự sự được buộc lại và cởi ra”25.

    3. Kết luận

    Bằng cách truy vấn về tính chủ thể hay khách thể của đối tượng loài vật trong văn học thiếu nhi, nhánh nghiên cứu về phê bình sinh thái trong văn học thiếu nhi cho thấy sự tương đồng và kề cận trong mối quan hệ giữa trẻ em và loài vật. Hướng nghiên cứu này cũng đặt nền tảng quan trọng để “khám phá những giao điểm về mối quan hệ giữa các loài hay nghiên cứu về loài vật, văn học môi trường (và công bằng môi trường) dành cho trẻ em, chủ nghĩa nữ quyền sinh thái và sư phạm sinh thái”26. Trong bài viết này, chúng tôi cố gắng tìm hiểu sự giao thoa giữa văn học thiếu nhi và phê bình sinh thái, đồng thời giới thiệu một số các tác phẩm văn học thiếu nhi ở khu vực châu Á nhằm hình dung sự tương tác giữa các loài và cách thức con người định vị cá nhân trong mạng lưới đa loài ấy. Các lý thuyết về văn học thiếu nhi dưới góc nhìn phê bình sinh thái đồng thời cũng cho thấy vai trò của văn học thiếu nhi với tư cách là hoạt động sáng tạo trong việc thúc đẩy ý thức về tính tương tác giữa các loài, tinh thần hoà hợp với thiên nhiên, thừa nhận hậu quả của việc thay đổi môi sinh và tham gia tích cực vào việc thay đổi môi trường sống.

Trần Tịnh Vy

Nguồn: Tạp chí Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật, ngày 28.02.2024.

Tài liệu tham khảo:
* Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 602.04-2021.08
1. Bakhtin,M.M.(1981),The Dialogic Imagination. Four Essays, University of Texas Press, Austin.
2. Bradford, Clare (2003), “The sky is falling: Children as environmental subjects in contemporary picture books”, trong Roderick McGillis,Children’s Literature and the Fin de Sie’cle, Greenwood Publishing Group, Inc, Westport, 111-120.
3. Dewi, Novita (2017), “People and Nature in Asian Stories: Reading and Writing Materials for Eco Education”, K@ta, vol. 19, no. 1, Jun. 2017, 39-46, doi:10.9744/kata.19.1.39-46.
4. Elnady, Abdulgawad (2018), “The Intersection between Ecocriticism and Chilren’s Literature: The Case of AbdelTawad Youssef”, HERMS, Vol.7, Issue No.2, 9-44.
5. Gaard, Greta (2009), “Children’s environmental literature: from ecocriticism to ecopedagogy”, Neohelicon 36, 321-334, https://doi.org/10.1007/s11059-009-0003-7).
6. Glotfelty, Cheryll, and Fromm, Harold (1996), The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia Press, Chicago.
7. Goga, Nina et al. (2018), Ecocritical Prespectives on Children’s Texts and Cultures: Nordic Dialogues, Palgrave Macmillan, Basingstoke.
8. Khaneman, D. (2011), Thinking, Fast and Slow, Farrar, Strous and Ferroux, New York.
9. Lidström, S., & Garrard, G.(2014), “Images Adequate to Our Predicament. Ecology, EnvironmentandEcopoetics”,Environmental Humanities, 5, 35-53.
10. Løvlie, L. (2013), “Rousseau i våre hjerter”, Studier i Pedagogisk Filoso . Årgang 2. Nr. 1, 1-20.
11. Massey, G., & Bradford, C. (2011), “Children as Ecocitizens: Ecocriticism and Environmental Texts”,trong K.Mallan & C. Bradford, Contemporary Children’s Literature and Film: Engaging with Theory, PalgraveMacmillan, Basingstoke, 109-126.
12. McDowell, M. J. (1996), “The Bakhtinian Road to Ecological Insight”, trong C. Glotfelty& H. Frommeds.,The Ecocriticism Reader. Landmarksin Literary Ecology, The University of Georgia Press, Athens and London, 371-391.
13. Nyrnes, Aslaug (2018), “The Nordic Winter Pastoral: A Heritage of Romanticism”, trong Nina Goga et all, Ecocritical Prespectives on Children’s Texts and Cultures: Nordic Dialogues, Palgrave Macmillan, Basingstoke, 75-90.
14. Platt, Kamala (2004), “Environmental justice children’s literature: Depicting, defending, and celebrating trees and birds, colors and people”, trong S. I. Dobrin & K. Kidd, Wild things: Children’s culture and ecocriticism, Wayne State University Press, Detroit, 183-184.

Chú thích:
1, 4, 5, 16, 18, 19, 21, 22, 26 Gaard, Greta (2009), “Children’s environmental literature: from ecocriticism to ecopedagogy”, Neohelicon 36, tr. 334, 322, 324, 326, 327, 327, 328, 330, 325, https://doi.org/10.1007/s11059-009-0003-7).
2 Elnady, Abdulgawad (2018), “The Intersection between Ecocriticism and Chilren’s Literature: The Case of Abdel-Tawad Youssef”, HERMS, Vol.7, Issue No.2, 9-44, tr. 11.
3 Glotfelty, Cheryll, and Fromm, Harold (1996), The Ecocriticism Reader: Landmarksin Literary Ecology, University of Georgia Press, Chicago, tr. xviii.
6 The Lorax là tác phẩm văn học thiếu nhi do Dr. Seuss viết và xuất bản vào năm 1971. Câu chuyện xoay quanh lòng tham của con người dẫn đến nguy cơ huỷ hoại môi trường tự nhiên và nỗ lực bảo vệ môi trường của nhân vật chính The Lorax. Truyện độc đáo không chỉ thông điệp mà nó mang đến mà còn bởi cách thức nhà văn sử dụng nhân cách hoá để tạo nên các nhân vật đại diện cho các thành phần liên quan, bao gồm ngành công nghiệp (Once-ler), môi trường (cây Truffula) và nhà hoạt động môi trường (Lorax).
7, 10, 13, 14, 15 Massey, G., & Bradford, C. (2011), “Children as Ecocitizens: Ecocriticism and Environmental Texts”, trong K. Mallan & C. Bradford, Contemporary Children’s Literature and Film: Engaging with Theory, Palgrave Macmillan, Basingstoke, 109-126, tr. 110, 109, 109, 110.
8, 11 Lidström, S., & Garrard, G. (2014), “Images Adequate to Our Predicament. Ecology, Environment and Ecopoetics”, Environmental Humanities, 5, 35-53, tr. 43, 42.
9 Khaneman, D. (2011), Thinking, Fast and Slow, Farrar, Strous and Ferroux, New York.
12 Nyrnes, Aslaug (2018), “The Nordic Winter Pastoral: A Heritage of Romanticism”, trong Nina Goga et all, Ecocritical Prespectives on Children’s Texts and CulturesNordic Dialogues, Palgrave Macmillan, Basingstoke, 75-90, tr. 79.
17 Platt, Kamala (2004), “Environmental justice children’s literature: Depicting, defending, and celebrating trees and birds, colors and people”, trong S. I. Dobrin & K. Kidd, Wild things: Children’s culture and ecocriticism, Wayne State University Press, Detroit, 183-184, tr. 186.
20 Bradford, Clare (2003), “The sky is falling: Children as environmental subjects in contemporary picture books”, trong Roderick McGillis, Children’s Literature and the Fin de Sie’cle, Greenwood Publishing Group, Inc, Westport, 111-120, tr. 116.
23 Dewi, Novita. “People and Nature in Asian Stories: Reading and Writing Materials for Eco Education.” K@ta, vol. 19, no. 1, Jun. 2017, pp. 39-46, doi:10.9744/kata.19.1.39-46.
24 Goga, Nina et al. (2018), Ecocritical Prespectives on Children’s Texts and Cultures: Nordic Dialogues, Palgrave Macmillan, Basingstoke, tr. 62.
25 Bakhtin, M. M. (1981), The Dialogic Imagination. Four Essays, University of Texas Press,Austin, tr. 250.

Thông tin truy cập

60797674
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
17175
24669
60797674

Thành viên trực tuyến

Đang có 345 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website