Hình tượng người phụ nữ trong tuồng bản Đào Tấn

In bài này

1.Mở đầu

Viết về người phụ nữ là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam. Từ trước thế kỉ XVI, hình tượng người phụ nữ đã xuất hiện trong các tác phẩm văn xuôi tự sự cũng như thơ ca. Đó là hình ảnh các nhân vật truyền thuyết như bà mẹ Âu Cơ mang trăm trứng nở trăm con hay những vị anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, sống đánh giặc, chết hóa thành phúc thần giúp dân, giúp nước; hoặc các nhân vật khác như Mị Châu, vì “tình yêu lầm lỡ” mà bị kẻ thù lợi dụng đến mất nước tan nhà; công chúa Tiên Dung thích ngao du sơn thủy, từ bỏ cuộc sống phú quý trong cung điện, kết duyên cùng chàng đánh cá Chử Đồng Tử sống cuộc đời hạnh phúc bên bến sông; hay nàng quận chúa A Kim yêu say đắm Hà Ô Lôi- một người vừa xấu vừa đen nhưng có giọng ca mê hồn (Lĩnh Nam chích quái)… Trong lĩnh vực thơ ca, ta cũng thấy có một số bài ngâm vịnh về người phụ nữ như các bài Vịnh nàng Điêu Thuyền, Vịnh Mị Ê , Vịnh Chiêu Quân (Hồng Đức Quốc âm thi tập) hoặc các bài nói về nỗi buồn thương của các thiếu phụ bị tình duyên dang dở như bài Chức Nữ nhớ Ngưu Lang, Tiên Tử mong Lưu Nguyễn, Hoàng Giang điếu Vũ Nương (Lê Thánh Tông)…Tuy nhiên ở giai đoạn này, hình tượng phụ nữ chưa thực sự được phản ánh một cách có chủ ý trong văn học mà chỉ mới xuất hiện lẻ tẻ trong văn xuôi lịch sử, trong thần phả, trong truyện dân gian hoặc trong các bài thơ điếu vịnh…

Sau thế kỉ XVI, đặc biệt là từ thế kỉ XVIII, người phụ nữ đã trở thành một trong những đề tài lớn của văn học. Các thể loại văn học dường như đều xoay quanh việc phản ánh số phận người phụ nữ. Vì vậy, trong văn học giai đoạn này, hình tượng người phụ nữ hiện lên một cách khá đầy đủ và toàn diện trên nhiều bình diện. Về văn xuôi, các tác phẩm nổi tiếng viết về đề tài người phụ nữ có Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (nửa đầu thế kỉ XVI), Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748), Lan trì kiến văn lụccủa Vũ Trinh (1759 – 1828)… Truyện Nôm cũng có rất nhiều tác phẩm viết về đề tài này, nhưng tiêu biểu hơn cả là các truyện Tống Trân – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Quan Âm Thị Kính…và các truyện Song tinh bất dạ của Nguyễn Hữu Hào, Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Sơ kính tân trang của Phạm Thái…Thơ ca viết về phụ nữ, nổi bật là thơ của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Chinh phụ ngân khúc của Đặng Trần Côn và bản diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngân khúc của Nguyễn Gia Thiều… Nói tóm lại, từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX, trong các thể loại văn học, thơ ca cũng như văn xuôi tự sự, tác phẩm viết bằng chữ Hán cũng như viết bằng chữ Nôm dường như nở rộ về đề tài người phụ nữ và hình tượng người phụ nữ nổi bật lên với hai nét cơ bản: phụ nữ là hiện thân của cái đẹp và phụ nữ là hiện thân của số phận bi thương.

Là thể loại nằm trong phạm trù văn học trung đại, tuồng cổ cũng mang những đặc trưng chung của phạm trù văn học này, đặc biệt là tư tưởng đề cao người phụ nữ. Người phụ nữ trong tuồng cổ giữ một vị trí quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng tác phẩm. Đào Tấn là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của thể loại văn học tuồng, ông không chỉ kế thừa và phát huy những giá trị tinh hoa trong tuồng truyền thống mà còn không ngừng cách tân thi pháp tuồng cho phù hợp với xu thế thời đại. Một trong những cách tân đáng ghi nhận của Đào Tấn là xây dựng hình tượng người phụ nữ theo một quan niệm mới. Trong nghiên cứu này, chúng tôi khái quát đặc trưng hình tượng người phụ nữ trong tuồng bản của Đào Tấn ở ba phương diện: người phụ nữ - hiện thân của sự hy sinh; người phụ nữ - khát vọng hạnh phúc, người phụ nữ - tự chủ.

Đào Tấn

2.Nội dung nghiên cứu

2.1. Người phụ nữ - hiện thân của sự hy sinh

Các tuồng bản của Đào Tấn đều được viết lại từ những câu truyện của Trung Quốc nên hệ thống nhân vật đa phần là các nhân vật lịch sử của Trung Hoa nhưng người xem vẫn thấy gần gũi vì họ có những phẩm chất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam như anh hùng, bất khuất, đảm đang. Ở họ luôn toát lên cái cốt cách quật cường, cứng rắn được kế thừa từ thời Bà Trưng, Bà Triệu cùng đức tính hy sinh không chỉ vì gia đình, chồng con mà còn vì đất nước, dân tộc.

Trước hết, họ là những nhân vật hiện thân của sự hy sinh, sự lựa chọn theo những tình cảm thông thường nhất, nhân bản nhất của người phụ nữ với tư cách là người công dân, người con, người vợ, người mẹ, người đầy tớ trung thành,…

Trong các tuồng bản được Đào Tấn nhuận sắc, sự hy sinh của các nhân vật nữ không thuần túy chỉ vì đạo “Trung quân” như trong tuồng cổ mà còn gắn liền với ý thức về trách nhiệm công dân. Tuồng bản Khuê các anh hùng (được Đào Tấn viết lại từ tuồngTam nữ đồ vương) nói về ba người phụ nữ anh hùng tham gia sự nghiệp “phò vua diệt nịnh”, có Phương Cơ (con gái Tạ Ngọc Lân), Xuân Hương (con gái lão quan Lý Khắc Minh), Bích Hà (người thị tì của Xuân Hương). Để cứu Chánh hậu cùng hoàng tử, Xuân Hương cùng Bích Hà quyết xin đổi áo, giả làm Chánh hậu để chết thay cho bà. Đứng trước cái chết, cả Xuân Hương và Bích Hà đều tự nguyện hy sinh thân mình. Điều khiến chúng ta cảm động là bên cạnh nghĩa vụ với đất nước, tình nghĩa con người cũng được đề cao. Đối với Đào Tấn, phàm là con người khi đứng trước cái chết thì đều bình đẳng, không phân biệt thân phận:

Xuân Hương: Liều một thác để cứu Hoàng phi thoát nạn

     Đắc tử sở, danh con đà tỏ rạng

Bích Hà:         Dốc lòng trả nghĩa quân vương

     Thời con sẵn dạ đáp tình chủ bộc.

Cuối cùng, Bích Hà được nhận trọng trách vinh quang này, còn Xuân Hương thì được giao nhiệm vụ đưa Chánh hậu đi lánh nạn. Với nhân vật Phương Cơ, nàng chính là hiện thân của trung hiếu vẹn toàn. Biết cha mình (Tạ Ngọc Lân) lo lắng cho vận nước, không biết tính mạng của Chánh hậu ra sao khi quân phản loạn tiếm ngôi, mong có người về kinh thám thính tình hình thì nàng tình nguyện xin đi để giải tỏa lo phiền cho cha, giúp cha tận trung báo quốc. Ở đây, sự hy sinh của Phương Cơ xét cho đến cùng là vì hiếu, trước khi lên đường làm nhiệm vụ, nàng vẫn canh cánh trong lòng nỗi lo cho cha:

 Đường sương tuyết chi nài thân liễu yếu

 Việc nắng mưa riêng sợ nỗi thung già.

Trong nội tâm nàng đã có cuộc đấu tranh tư tưởng giữa nghĩa vụ của một công dân và tình cảm đối với người cha già vò võ một mình ở nhà đợi con. Sự đấu tranh đó chính là những đụng độ của những tình cảm nhân bản, mà ở đây là những tình cảm rất tự nhiên, rất con người, rất phụ nữ. Cuối cùng, nàng suy nghĩ tận trung cũng là báo hiếu, gạt bỏ những tình cảm riêng tư lên kinh thành cứu mẹ con Chánh hậu...

Trong tuồng Sơn Hậu còn có một nhân vật nữ khiến cho ta kính phục vì tấm lòng trung hậu hiếm có, đó là Tạ Nguyệt Hạo luôn hết lòng vì sự nghiệp Tề triều cho dù đó là kẻ thù “bất cộng đới thiên” của anh em họ Tạ nhà bà:

Thuở loạn Tề còn giúp cho yên

 Nay hoạn nạn lòng ta dễ khuất.

Điều đó được minh chứng qua những hành động như giả vờ đau ốm, dùng tình cảm ruột thịt để cản đường em trai mình (Tạ Ôn Đình) trên đường truy đuổi Thứ Hậu, sẵn sàng làm con tin để Đổng Kim Lân thực hiện kế “bắt chị, đổi mẹ” cứu Đổng mẫu do em trai mình bắt, tạo cơ hội cho quan Phàn Diệm đánh tan đội quân phản loạn, khôi phục lại cơ nghiệp nhà Tề. Đó cũng là một tấm gương hy sinh tình thân vì nghiệp lớn. Ngoài ra còn có hình ảnh người mẹ vĩ đại như Đổng mẫu (mẹ Đổng Kim Lân), sẵn sàng từ bỏ cuộc sống vương giả để về quê nương náu nhằm giúp con mình làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Ấu Chúa, đưa mẹ con Thứ phi đi lánh nạn. Khi bị quân phản loạn (Tạ Ôn Đình) bắt, treo bà lên trên cổng thành và dùng lửa đốt để buộc Đổng Kim Lân mềm lòng mà đầu hàng chúng, bà đã khẳng khái khuyên con:

Thẳng hai tay nâng đỡ âu vàng

 Mài ba tấc mà băm vầm lòai bạc.

Đó quả là khí chất của “bà mẹ anh hùng” ngấm trong huyết quản của mỗi bà mẹ Việt Nam. Đó cũng là sự hy sinh thầm lặng của người phụ nữ khi vận mệnh đất nước lâm nguy phải lựa chọn giữa “nước” và “nhà”, giữa nghĩa vụ với tổ quốc và tình thân. Chính vì có những người phụ nữ hy sinh thầm lặng như thế, dân tộc Việt Nam có thể đánh bại những đế quốc sừng sỏ nhất thế giới trong lịch sử như nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh và sau này là nước Mỹ, nước Pháp, quân Tưởng, quân Tàu... Hóa ra, trong bất kỳ thời đại nào, người phụ nữ cũng luôn là hiện thân của sự hy sinh.

Nếu sự hy sinh của các nhân vật nữ trong những tuồng bản do Đào Tấn nhuận sắc thường gắn với ý thức công dân và đạo đức Nho giáo thì ở những tuồng bản do ông sáng tác, vấn đề “trung quân ái quốc” nhường chỗ cho tình cảm cá nhân, gia đình, cụ thể là tình yêu đôi lứa. Người phụ nữ dường như dồn hết sự quan tâm cho chồng, con và những người thân yêu của họ. Họ “sống” trong tác phẩm rất chân thực như giữa đời thường, nội tâm của họ được miêu tả tinh tế và phong phú ở mọi phương diện cảm xúc. Đó là nỗi đau vô tận của Giả Thị (Hoàng Phi Hổ quá giới bài quan) khi bất ngờ phải sinh ly tử biệt với chồng con. Vào cung thăm Thứ phi (em gái Hoàng Phi Hổ), Giả Thị bị vua Trụ cưỡng bức, nàng kiên quyết chống cự và bị hắn đá chết. Yêu và chung thủy với chồng, nàng thà hy sinh bản thân để giữ tiết hạnh chứ nhất định không chịu bị làm nhục. Linh hồn Giả Thị vẫn vương vấn trần gian đau đáu lo cho chồng, cho con. Khi Hoàng Phi Hổ bị Trần Ngô lập mưu thiêu chết ở miếu thần, Giả Thị đã hiện hồn báo mộng cứu chồng và bày tỏ sự lo lắng cho chồng con ở cõi trần:

Giả Thị: Phu quân ôi!

Chàng lao lục thanh sơn bích hải là cũng vì em ngọc nát hương phai

Ôi con con ôi!

Con tiêu diêu tử phủ kim đài con có hay nỗi mẹ trăng khuya gió sớm

Sự hy sinh của người vợ, người mẹ cho chồng cho con mình là sự hy sinh vô điều kiện, là bản năng của mỗi người phụ nữ. Cho dù ngọc nát xương tàn, hồn phách tiêu tan, mỗi người một thế giới, Giả Thị vẫn dõi theo và bảo vệ những người thân yêu của mình, lời thán của nàng thể hiện sự bất lực trước số phận, thật ai oán, thê lương:

Giả Thị: Phu quân ôi! Như em chừ chừ...

Hồn lai phong lâm thanh phiêu phiêu hề di thế

Còn như phu quân! Nhất thân khứ quốc lữ dạ hoài nhân

Giang tâm thu nguyệt bạch diếu diếu hề tương vong

(Hồn về rừng thông xanh, chơi vơi trong cõi thế

Trăng rọi lòng sông buốt, hai cuộc đời tiêu tan)

Nếu hình tượng nhân vật Giả Thị gắn liền với sự cam chịu và bi kịch gia đình tan vỡ, với nỗi đau sinh ly tử biệt thì Trần Thị Lan Anh (Hộ sinh đàn) và Vương Kiều Quang (Diễn võ đình) lại đại diện cho những người phụ nữ dám đứng lên đấu tranh chống lại số phận, vượt lên hoàn cảnh để kiếm tìm hạnh phúc. Là chủ Long Sơn trại, Lan Anh lấy Tiết Cương và lui về làm phu nhân trại chủ, nhường hết quyền lực cho chồng. Đó là một sự hy sinh lớn khi nàng tình nguyện từ bỏ sự nghiệp gây dựng bao lâu về đứng sau Tiết Cương chăm lo gia đình. Nàng chăm sóc Tiết Giao (cháu Tiết Cương), lo chu toàn bổn phận làm dâu họ Tiết. Khi chồng bị truy đuổi, nàng không màng tính mạng xuất binh đi cứu chồng, vượt qua muôn ngàn khó khăn khi bụng mang dạ chửa lạc giữa núi rừng, một mình sinh nở, nàng kiên cường vượt qua để đem sự sống đến cho đứa con của mình. Ở Lan Anh, ta thấy một sức mạnh phi thường mà mỗi khi nàng bị vùi dập lại khiến nàng trở lên mạnh mẽ hơn. Chính vì vậy, nàng vượt qua tất cả các thử thách để đến được với hạnh phúc viên mãn, được đoàn tụ với chồng, con của mình. Vương Kiều Quang khi vừa kết hôn với Triệu Khánh Sanh đã phải xa chồng. Nỗi đau này mấy người phụ nữ thấu hiểu. Vì sự an toàn của Khánh Sanh, Kiều Quang hy sinh sự ích kỷ nữ nhi thường tình, chấp nhận sự xa cách và có thể cả sự sinh ly tử biệt. Dù Tiết Cương, Khánh Sanh đều là tội phạm bị triều đình truy đuổi nhưng Lan Anh, Kiều Quang vẫn tự nguyện lấy làm chồng, tự nguyện hy sinh để bảo vệ người mình yêu và không ngừng đấu tranh để kiếm tìm hạnh phúc cho dù đó chỉ là những hy vọng mong manh. Người phụ nữ tuy mềm mại, yếu đuối như nước nhưng tiềm ẩn sức mạnh vô cùng, bình thường thì phẳng lặng yên bình như mặt hồ, khi đối mặt với thử thách thì họ như sóng thần cuồn cuộn sẵn sàng cuốn phăng tất cả. Đặc biệt là để bảo vệ gia đình và những người thân yêu, người phụ nữ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thì ra, hy sinh cũng là một bản năng của người phụ nữ, trong văn học nói chung và trong tuồng của Đào Tấn nói riêng, người phụ nữ luôn là hiện thân của sự hy sinh.

2.2.Người phụ nữ - khát vọng hạnh phúc

Hạnh phúc là ước mơ chính đáng của mọi người phụ nữ, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Trong bộ ba tác phẩm của ĐàoTấn: Diễn võ đình, Hộ sinh đàn và Hoàng Phi hổ quá giới bài quan, ta đều bắt gặp mô típ trốn chạy và bi kịch của sự chia ly trong tình yêu.

Ở Diễn võ đình, Triệu Khánh Sanh trốn chạy sự truy bắt của Bàng Hồng nên giả gái làm thị nữ Bích Đào sống trong phủ họ Vương ngày ngày làm bạn với Kiều Quang. Hai người vốn có hôn ước nên khi phát hiện ra Bích Đào là do Khánh Sanh đóng giả, Vương Quý cùng Triệu phu nhân đã đứng ra tác thành cho Kiều Quang và Khánh Sanh. Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang, Bàng Hồng nghi ngờ Khánh Sanh trốn trong phủ họ Vương đưa quân đến bắt và yêu cầu Bích Đào thoát y xem là nam hay nữ. May nhờ có Bao Công giải cứu kịp thời nên Khánh Sanh tạm thời thoát khỏi kiếp nạn và phải trốn đi nơi khác, sống cuộc đời tha hương với một tương lai vô định:

Chút thân liều gửi cung dâu

Đố con lương mã biết đâu là nhà

Cuộc chia ly giữa Khánh Sanh và Kiều Quang chứa đựng đầy sự nuối tiếc những tháng ngày ở bên nhau trong thân phận Bích Đào, sự lo lắng hiểm nguy trên đường lưu lạc, sự nhớ mong khôn nguôi và khát khao hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt:

Khánh Sanh: Dễ ngại nỗi cao phi viễn tẩu

Chút thương vì hậu nghĩa thâm tình

Phận nước bèo trôi nổi đã đành

Duyên tơ tóc cắt lìa sao nỡ

Kiều Quang: Thưa phu quân

Sợ là sợ lưới hồng khó gỡ

Lo là lo cánh chấu khôn bay

Nỗi hiệp tan đành nhắm mắt với vần xoay

Bề mang mểnh phải ôm lòng cùng ngày tháng...

Khánh Sanh: Hà... gượng gạo bước khôn dời bước

Em ơi! Sụt sùi lòng thấy cắt lòng...

(Nam) Lộ thượng thoát vòng hoạn nạn

 Gan anh hùng cát đoạn khuê ly

Kiều Quang: (Nam) Dứt tình kẻ ở người đi

Phu quân ơi!

E khi mưa nắng, ngại bề chông gai..

Cuộc chia ly dùng dằng không dứt, người đi thì không muốn đi, người ở lại thì muốn níu giữ, đến nỗi Vương Quý phải lựa lời khuyên can hai con người đang đắm say trong men tình không thể rời xa: “Khánh Sanh, trai đứa sao mà..; Kiều Quang! Con không cho chồng con đi hay sao?”. Kiều Quang vẫn không nỡ buông tay chồng, muốn kéo dài thêm từng giây từng phút được ở bên nhau: “Con nhớ lắm cha ơi”. Đau lòng thay cho con trẻ khi hạnh phúc lứa đôi đang nồng nàn mà phải chia ly, Vương ông cũng phải cảm thán:

Thôi đừng thở ngắn than dài

Khuyên con lui gót, khuyên người lên yêng

Kỳ mãn địa, pháo huyên thuyên

Dứt tình ân ái tách miền sơn khê

Là một nữ nhi thường tình, Kiều Quang cũng có ước mơ muốn được hạnh phúc ái ân. Khi gặp phải bi kịch chia ly, khát khao hạnh phúc lại càng trở lên mãnh liệt. Đào Tấn đã khá tinh tế khi nắm bắt được những cảm xúc này và thể hiện nó một cách sâu sắc trên sân khấu tuồng. Có lẽ vì thế mà các tuồng bản của ông luôn gần gũi và sống trong lòng mỗi người dân.

Trong Hộ sinh đàn, Tiết Cương bị Võ Tam Tư truy đuổi, ngay từ đầu tác phẩm, Lan Anh đã phải sống trong sự chia ly và thấp thỏm với nỗi nhớ mong, lo lắng cho sự an nguy của chồng. Mượn tứ thơ trong bài Khuê oán của Vương Xương Linh, Đào Tấn đã khéo léo miêu tả cảnh ngộ và tâm trạng của Lan Anh ngay từ màn giáo đầu:

Lan Anh: Như tôi Dữ Tiết gia công tử đề duyên

Từ phu tướng Trường An tế tảo

Luống thâm khuê vĩnh dạ ưu sầu

Hà! Khéo loi thoi dương liễu mạnh đầu

Càng thanh thót hoàng oanh chi thượng

Khát vọng lớn nhất của nàng là được sống bình yên ở Long Sơn trại với Tiết Cương, nuôi nấng Tiết Giao khôn lớn và sinh Tiết Quỳ được mẹ tròn con vuông. Không đề cập đến vấn đề quốc gia đại sự, Hộ sinh đàn hướng tới đề tài thế sự với nhân vật trung tâm là người phụ nữ Trần Thị Lan Anh. Ngay từ tên của vở tuồng cũng thể hiện điều đó, Đào Tấn đã dùng một cái tên dân dã nhất để đặt cho tác phẩm: đàn đỡ đẻ với thiên chức thiêng liêng nhất của người phụ nữ là sinh con làm tình tiết trung tâm. Lan Anh trên con đường kiếm tìm hạnh phúc đã trải qua bao khó khăn thử thách, băng rừng, lội suối, đối mặt với thú dữ, với quân thù; hai lần lạc chồng giữa rừng sâu, hai lần trốn chạy đứng trước bờ sinh tử và đặc biệt là trong hoàn cảnh vượt cạn một mình, nàng vẫn luôn lạc quan, kiên cường đấu tranh cho khát vọng hạnh phúc của mình. Hãy nghe tiếng hát Lan Anh động viên con trong giây phút thót tim bị Võ Tam Tư truy đuổi:

Lan Anh: Ngại ngùng một bước một xa

Gắng lấy ớ con

Sơn khê lướt dặm, can qua thoát vòng

Hình ảnh người phụ nữ tay bồng con, tay ẵm cháu lạc trong rừng sâu mà lòng vẫn đau đáu hướng về phu quân khiến chúng ta thật cảm động:

Lan Anh: Bình bồng chi xiết lưng đưng

Phu quân ôi!

Biết đâu mây Sở, mộng Tần là đâu?

Ở đây, Đào Tấn đã mượn chữ trong hai câu thơ của Lý Đoan đời Đường để miêu tả đầy đủ tình cảnh của vợ chồng Tiết Cương - Lan Anh:

Tần địa cố nhân thành viễn mộng

Sở thiên lương vũ tại cô chu

(Một lá thuyền nơi mưa đất Sở

Giấc mơ bạn cũ tít trời Tần)

Tình cảnh “bê bết” của Lan Anh khiến Hồ Nô không ít lần phải thương cảm cho nàng và khát khao được có cuộc sống hạnh phúc ở Long Sơn trại như xưa:

Ngày ngày lội suối trèo non

Bao giờ cho đặng vuông tròn như xưa

Tấm lòng của Lan Anh khiến cho thần linh cũng phải cảm động, ứng mộng báo tin cho nàng sẽ được tương phùng với phu lang và khi vừa tỉnh mộng, mẹ con nàng đã gặp ngay được Tiết Cương. Mong mỏi bao ngày, hạnh phúc đến quá bất ngờ khiến nàng không tin nổi cứ ngỡ là mơ tự hỏi mình: “Hay là tôi chiêm bao?”. Vợ chồng nàng đã được đoàn tụ với quả ngọt hạnh phúc, hình ảnh Tiết Cương ôm con vào lòng dỗ dành cưng nựng lấp đầy hết những trống vắng, khổ đau trong lòng Lan Anh. Khát vọng, đấu tranh và kiếm tìm hạnh phúc cuối cùng Lan Anh đã chạm tay được đến hạnh phúc của mình. Đây có lẽ là tuồng bản kết thúc có hậu nhất trong các tác phẩm của Đào Tấn.

Cuộc chia ly giữa Giả Thị và Hoàng Phi Hổ (Hoàng Phi Hổ quá giới bài quan) có lẽ là cuộc chia ly bất ngờ, tàn khốc và đau khổ nhất : tử biệt sinh ly. Buổi sáng vợ chồng vẫn ân ái chung đôi nhưng buổi chiều đã là người của hai thế giới. Cái chết bất ngờ và oan uổng khiến Giả Thị ôm hận nuối tiếc dương thế không muốn siêu sinh. Gặp chồng trong mộng, nàng bày tỏ niềm ai oán khi gia đình tan vỡ, đôi lứa phân ly và nuối tiếc những tháng ngày hạnh phúc đã không còn:

Hàn phong vô ảnh nguyệt vô hương

Phong nguyệt bình phân các đoạn trường

Nhất hương u sầu hà xứ thị

Trùng sơn cách thủy lộ mang mang

Trướng phụng từ một thuở phân gương

Màn hùm chẳng ba trăng trích gối

(Gió hàn không bóng, trăng không gương

Trăng gió cùng chung nỗi đoạn trường

Đầy nhẫy u sầu ai khiến vậy?

Núi sông, sông núi cách muôn trùng)

Mỗi câu thơ đều thấm đẫm nước mắt của người phụ nữ đáng thương. Nàng chỉ có ước mơ đơn giản là được sống hạnh phúc bên chồng và hai con Thiên Lộc, Thiên Tường. Tai họa ập đến, Giả Thị chết mà không kịp nhìn mặt những người thân yêu, bao nhớ thương tiếc nuối, những kỷ niệm hạnh phúc khi xưa giờ chỉ còn là nỗi hận, lời oán thán của nàng rung động đến cả trời xanh:

Tử biệt sinh ly, hứa cửu tương tri đồ trướng vọng...

Thiếp khởi vong tình, kỷ độ xuân phong không đới hận

(Kẻ chết thì đã mất, người sống lại chia lìa mà từ lâu cứ mong mỏi tương tri mãi mãi

Thiếp há quên mối tình (chúng ta) bao độ gió xuân mang theo bao nỗi hận)

Nỗi đau sinh ly tử biệt càng sâu sắc hơn khi được khắc họa qua lăng kính của Hoàng Phi Hổ. Biết là hồn vợ mình về, chàng mừng tủi buông kiếm ôm lấy hồn nhưng chỉ chạm vào hư không, chàng lại ôm tiếp nhưng nàng chỉ là sương khói, chàng điên cuồng ôm ảo ảnh trong niềm tuyệt vọng khôn cùng. Chàng bày tỏ nỗi nhớ mong, nỗi đau khi đối mặt với hiện thực phân ly, bất lực khi không bảo vệ được người vợ yêu dấu :

Thùy thức cửu nguyên do khả tích

Không thành nhất mộng tự hàm sầu

(Lòng ta an ủi biết bao, ai hiểu được người chín suối vẫn còn tiếc nhớ (người sống)

Đêm nay là đêm gì, bỗng hóa thành giấc mộng tự nuốt lấy sầu)

Thấu hiểu nỗi lòng Hoàng Phi Hổ, Giả Thị an ủi và đau khổ từ giã chàng để về nơi chín suối “Người và quỷ hai con đường khác nhau, thiếp đau lòng từ giã chàng, một mình hồn trở gót dần xa cửa ải”. Khi thấy bóng Giả Thị từ từ biến mất, Hoàng Phi Hổ điên cuồng gào thét tên nàng, nỗi đau như dồn đến tận cùng, vỡ òa trong biển nước mắt của người và hồn:

Phi Hổ: Phu nhân ơi! Như anh chừ...

Anh hùng mạt lộ, vậy thì chu toàn thùy dữ ngã!

Giang tâm diếu diếu lụy nan càn

Ủa, này Giả Thị bất tri hà xứ tại?

Lụy nan càn, lụy nan càn!

Ái a phu nhân, phu nhân a...

Kỳ hoa linh lạc trường lưu thủy

Phá kỉnh như hà đắc đoàn viên

Thống thích thích can trường cát đoạn

Sầu đê mê lụy lượng sái uông uông

(Anh hùng đến bước đường cùng, biết nương tựa cùng ai,

Lòng sông xa xăm, nước mắt khó khô

Nước mắt khó khô, lòng khó giãi bày

Hoa rơi theo dòng nước lênh đênh trôi dạt

Gương vỡ làm thế nào nguyên vẹn

Nỗi đau như dao cắt đến từng đoạn ruột gan

Sầu chất chứa lượng nước mắt chảy ròng ròng)

Nếu khát vọng hạnh phúc của Lan Anh cho trái ngọt, mơ ước của Kiều Quang còn có hy vọng thành hiện thực thì ước nguyện của Giả Thị chỉ hoàn toàn là bế tắc và tuyệt vọng. Bi kịch của Giả Thị là bi kịch chung của nhiều người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi bị các thế lực chà đạp và cướp đi hạnh phúc. Với ý nghĩa đó, tuồng bản của Đào Tấn mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

3.2. Người phụ nữ - tự chủ

Không giống như hình tượng người phụ nữ trong chèo: cam chịu, an phận giữ đạo “tam tòng tứ đức” hay hình tượng người phụ nữ trong tuồng cổ luôn đặt đạo “Trung quân” lên hàng đầu, sẵn sàng xả thân, hy sinh tất cả vì sự nghiệp “phò vua diệt nịnh”, với các nhân vật Trần Thị Lan Anh (Hộ Sinh đàn), Vương Kiều Quang (Diễn võ Đình), Đát Kỷ (Trầm Hương các), Đào Tấn đưa ra một quan niệm mới về người phụ nữ trong xã hội phong kiến, người phụ nữ  tự chủ.

Trong xã hội phong kiến, với đạo lý tam tòng “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con), người phụ nữ mất đi quyền tự chủ, quyền được sống cho bản thân và quyền tự định đoạt số phận. Cuộc đời của người phụ nữ chỉ quanh quẩn trong nhà tu dưỡng “công, dung, ngôn, hạnh”, họ không có quyền được ước mơ, được sống cuộc sống mà mình mong muốn. Các nhân vật nữ trong tuồng cổ thường được mô thức hóa đến vô cảm. Trong Sơn Hậu, vì vua Tề già yếu mà chưa có con, Phàn Định Công dâng con gái (Phương Cơ) mới đến tuổi cập kê làm Thứ phi. Là người con gái, ai cũng ước mơ một đấng phu quân “xứng lứa vừa đôi”, vậy nhưng Phương Cơ lại vì“dốc đền ơn nhũ bộ/lăm báo nghĩa sinh thành” mà vui vẻ lấy một ông vua “gần đất xa trời” để sinh con nối dõi tông đường. Trong hậu cung của vua Tề có hoàng hậu Ngọc Dung và Tam cung Nguyệt Hạo, hai người phụ nữ này đều là người nhà của phản thần họ Tạ. Thế nhưng Nguyệt Hạo lại không hề ghen ghét, đố kỵ, hơn nữa còn hy sinh thân mình để cứu Phương Cơ đang mang thai, từ bỏ cốt nhục tình thân vì đạo nghĩa. Nếu theo quy luật tâm lý tình cảm thông thường thì rất khó xảy ra điều này bởi đối với phụ nữ “chồng chung không dễ ai chiều lòng ai” (Nguyễn Du). Hay hình ảnh người mẹ được diễn tả trong sự thử thách giữa lòng trung với vua và tình mẫu tử, như nàng Xuân Hương (vợ Triệu Đình Long) trong tuồng Dương Chấn Tử. Vì chữ Trung, nàng sẵn sàng hy sinh thân mình để thế mạng cứu Thứ phi, tự nguyện hy sinh cả đứa con ruột của mình để cứu Hoàng tử. Rõ ràng, “sức ép của ý đồ giáo huấn” [1] đã chi phối tình cảm và cảm xúc của con người, làm con người không có sự lựa chọn khác cho số phận của mình, bởi mỗi nhân vật đều là “cái loa phát ngôn cho tư tưởng và đạo đức Nho giáo” mà tối thượng là đạo trung quân. Những người phụ nữ đó được bao bọc trong ánh hào quang của danh vị “anh hùng, liệt nữ” nhưng lại sống trong bi kịch nhân quyền.

Khác với cách xây dựng nhân vật nữ trong tuồng truyền thống, Đào Tấn đứng trên lập trường nhân đạo và tình yêu thương con người sâu sắc để xây dựng hình tượng phụ nữ tự chủ trong tuồng cổ. Đó là người phụ nữ độc lập trong suy nghĩ, hành động, tự quyết định cuộc đời và số phận của mình. Họ là những người phụ nữ có ước mơ, khát vọng và có bản năng kiếm tìm, bảo vệ hạnh phúc. Sự độc lập, tự tin của họ làm thay đổi hoàn cảnh số phận của họ. Họ có cuộc sống tự do không bị ràng buộc bởi đạo đức, lễ nghĩa phong kiến. Trần Thị Lan Anh (Hộ sinh đàn) ngay trong lời tự giới thiệu đã bộc lộ cuộc sống tự do, phóng khoáng giữa núi rừng, tránh xa cõi tục trần nhơ nhớp. Đó là cuộc sống hạnh phúc mà Lan Anh mong muốn và luôn đấu tranh để bảo vệ.

Lan Anh: (xướng) Hảo thanh hứng a...

Nhàn lai phong nguyệt cộng vô biên

Nhất đỗng đào hoa biệt hữu thiên

Vị vấn kỷ sinh tu đắc đáo

La thường túy trục nhật phiên phiên

                                   (Hứng thú thanh u thay!

Thanh nhàn trăng gió thú vô biên

Một động đào hoa cõi trời riêng

Hỏi mấy kiếp tu mà được thế

Quần là áo lượt đổi luân phiên)

Không giống các hình tượng “khuê nữ” hay “liệt nữ” trong tuồng cổ, Trần Thị Lan Anh là một “nữ tướng cướp” chủ trại Long Sơn, nàng kết duyên cùng Tiết Cương, một tội phạm bị triều đình truy nã và kết giao với các tướng cướp Ngũ Hùng, Tần Hán, sống cuộc đời “thảo khấu” không màng hư vinh, danh lợi. Đào Tấn đặt Lan Anh giữa các bậc trượng phu “đạp trời đội đất” cho thấy vị thế của nàng không hề kém các đấng “tu mi nam tử”. Lan Anh tự chủ lựa chọn cuộc sống mà nàng mong muốn, lựa chọn người mà nàng yêu, lựa chọn bằng hữu mà nàng tin tưởng. Vẻ đẹp của Lan Anh là vẻ đẹp của sự tự tin, độc lập, mạnh mẽ, quyết đoán, đó là vẻ đẹp của một nữ vương uy quyền. Khi nghe lâu la báo tin Tiết Cương bị Võ Tam Tư truy đuổi, Lan Anh kinh hãi, lo lắng và quyết định khởi binh cứu chồng “Bước anh hùng đã lỡ/Gan nhi nữ càng dày/Nếu chẳng liều sinh tử giữa chông gai/ Thì.. Ai còn kể ân tình trong nước lửa”. Nàng suy tính, chu toàn an bài mọi việc trong Long Sơn trại trước khi xuất binh. Xem đoạn nàng phân phó công việc có thể thấy rõ tài năng mưu lược và uy nghiêm của nữ tướng phu nhân:

“Lưu nhất đội canh tuần sơn trại, khá hết lòng gìn giữ Tiết Giao

Tuyển bách nhân dự bị yêu đạo, tua gắng sức theo đòi chủ mẫu... đây!”

(Để lại một đội quân canh tuần sơn trại dốc hết sức bảo vệ Tiết Giao (cháu Tiết Cương)

Chọn ra một trăm người dắt dao vào lưng đi theo chủ mẫu)

Trên đường tìm kiếm chồng, Lan Anh đã vượt qua biết bao hiểm nguy nhưng nàng luôn cố gắng với hy vọng được đoàn tụ với chồng, tâm trạng lo lắng bất an luôn thường trực nhưng niềm tin vào tình yêu, hạnh phúc là động lực để nàng vượt qua tất cả. Trong lời tâm sự của Lan Anh, ta vừa thấy sự đau lòng, sự lo lắng lại vừa có sự kiên định, quyết tâm.

Lan Anh: Phu quân ôi! Em ở đây còn phu quân đi đường mô?

Rủi ro sợ đầu tên mũi đạn

Bơ vơ thương góc biển chân trời

Các ngươi!

Có điên nguy khuyên chớ mựa nài

Dầu lao khổ miễn là cho gặp

Cấu trúc câu “có ...thế nào, dầu thế nào...” thể hiện sự khẳng định, quyết đoán, bản lĩnh thép và ý chí quật cường của Lan Anh khiến ngay cả các đấng mày râu cũng phải nể sợ. Mặc dù gặp cảnh “trong rừng núi một thân, một mình, lấm lê lấm lết”, khi vừa nghe thấy có dấu hiệu của binh mã, nàng không ngần ngại mà trèo lên đỉnh núi cao để ngóng tin chồng. Khi thấy chồng bị Tam Tư truy đuổi, mặc dù vui mừng khôn xiết khi được nhìn thấy bóng dáng chồng nhưng Lan Anh vẫn đủ bản lĩnh để tiết chế tình cảm, cùng chồng tiếp chiến quân thù rồi bày mưu giả thua tạo cơ hội cho Hồ Nô bắn trúng đầu Võ Tam Tư. Hình ảnh Lan Anh lâm trận thật khí phách, oai hùng và mưu trí, đó là một người phụ nữ chủ động trong tất cả mọi hình huống và không gục ngã trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ở nàng tỏa ra sức sống mãnh liệt luôn vươn lên, kiên quyết đấu tranh để bảo vệ tình yêu và hạnh phúc. Nếu mô típ “anh hùng cứu mỹ nhân” đã quá quen thuộc trong văn học thì việc Đào Tấn sử dụng tình tiết “mỹ nhân cứu anh hùng” đã mang đến một cảm quan mới, một cách nhìn nhận mới về người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Người phụ nữ không chỉ đẹp khi thùy mị, nết na với “công, dung, ngôn, hạnh” mà còn đẹp hơn khi bản lĩnh và tự chủ trong cuộc sống. Chính bản lĩnh kiên cường và tự chủ đã giúp Lan Anh lần nữa vượt qua kiếp nạn lạc trong rừng và vượt cạn thành công để đến với hạnh phúc viên mãn bên chồng con của mình.

Vương Kiều Quang (Diễn võ đình) được Đào Tấn miêu tả là một “khuê nữ” chuẩn mực “Chốn thâm khuê giữ phận thuyền quyên/Dòng thế phiệt gìn lòng trinh bạch”. Tuy nhiên cô gái này ẩn sau vẻ thùy mị yếu đuối là sức mạnh tự chủ mãnh liệt. Là người hiểu lễ nghĩa nhưng Kiều Quang không chấp nhận “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, không buông bỏ số phận mình cho người khác định đoạt. Khi nghe Vương Quý ướm hỏi muốn gả chồng cho mình, Kiều Quang bày tỏ suy nghĩ:

“Bề định liệu dám đâu nông nả

 Việc vợ chồng phải tính trước sau”

Khi biết mình được gả cho Triệu Khánh Sanh là người nàng thương mến, dù Khánh Sanh trong hoàn cảnh phải chốn chạy tha hương, nàng vẫn một lòng chung tình và bảo vệ. Thì ra, mối quan tâm thật sự của người phụ nữ không phải là vấn đề “phò vua, diệt ngụy” hay quốc gia đại sự mà chỉ đơn thuần là “hạnh phúc”, là được sống thật với chính mình, được ở bên người mình yêu thương, có một cuộc sống giản đơn mà hạnh phúc.

Nếu như sự tự chủ Lan Anh và Vương Kiều Quang đều được nhấn mạnh ở khía cạnh tự lựa chọn cuộc sống và tình yêu thì sự tự chủ Đát Kỷ (Hồ Ly -Trầm Hương các) lại là sự tự ý thức về giá trị của bản thân – cái đẹp, giá trị của nhan sắc có thể thay đổi vận mệnh người phụ nữ. Hồ Ly theo lệnh Nữ Oa nhập hồn vào Đát Kỷ, chính Hồ Ly cũng bất ngờ vì hình hài mới của mình “Nực cười thay hình dáng yêu tinh, đã đổi được tư dung đẹp đẽ” và nàng tự tin có thể dùng sắc đẹp để mê hoặc quân vương:

Mạc sầu tiề lộ vô tri kỷ

Đương đắc quân vương đới tiếu khan

(Chẳng lo ngõ trước không bè bạn

Sẽ được nhà vua ngắm thích con)

Đát Kỷ là một biểu tượng của sắc đẹp trong lịch sử. Đánh giá về sắc đẹp của nàng, Nữ Oa cũng phải thốt lên “nhan sắc vô song, huân xưng vưu vật” còn tên vua háo sắc Trụ Vương thì trầm trồ không ngớt “Đẹp đẽ bấy mày tằm mắt phụng/Dịu dàng thay vóc liễu hình hoa”. unhường nguyệt thẹn” của mình và không ít lần tự mãn về nhan sắc ấy:

Tây cung dạ tĩnh bách hoa hương

Thảo sắc thanh thanh liễu sắc hoàng

Đãi đáo nguyệt minh trì thượng túc

Phù dung bất cập mỹ nhân trang

(Đêm tỉnh cung tây bát ngát hương

Xanh xanh sắc liễu cỏ non vàng

Trăng lên ao sáng ta về nghỉ

Hoa đẹp sao bằng dáng mỹ nhân)

Và Đát Kỷ (Hồ Ly) đã dùng sắc đẹp như một uy quyền để thay đổi vận mệnh chính mình, vận mệnh của cả một quốc gia. Nhờ sắc đẹp, một con tinh hồ ly trở thành bậc mẫu nghi thiên hạ và đưa một đất nước thịnh cường bị sụp đổ. Chỉ bằng một cái uốn éo nũng nịu, Đát Kỷ đã khiến vua Trụ vứt bỏ kiếm thần trừ tà Vân Trung Tử tặng; phế bỏ Khương hậu cùng thái tử; xây Bá Lộc đài; dùng hình bào lạc với những người can gián; nuôi bọn nịnh thần Phí Trọng, Vưu Hồn; mở tiệc thiết chúng quần yêu...  Đặc biệt, trong cuộc sống hàng ngày, vua Trụ đã “trút bỏ vượng vị” trở thành một nô bộc cho Đát Kỷ. Hãy xem đoạn đối thoại giữa nàng và Trụ vương:

Đát Kỷ: Trong mình lạnh, mà trạo trực trong cổ nữa. Lại trống ngực đánh hoài khó chịu lắm. Xin quốc trưởng, ngài vuốt cho tôi một tí nào!

Vua Trụ: Để quả nhân vuốt cho. Xuôi, xuôi, xuôi, xuôi!

Đát Kỷ: Chao ơi, mỏi xương sống lắm, hãy đấm cho tôi một tí!

Vua Trụ: Ừ, để quả nhân đấm cho...

Đát Kỷ: Chao ôi! Nóng mặt lắm, biểu đứa mô hắn quạt phất phơ cho dễ chịu.

Vua Trụ: Đứa nào quạt bay!

Đát Kỷ: Thôi... ôi lạnh lắm!

Vua Trụ: Bay quạt mạnh lắm, răng mà quân hư lắm. Để tao quạt cho bay coi coi.

(Quạt)    Thôi đừng rên nữa mà mệt...

Quả thật là sắc đẹp có sức mạnh vô song, Đát Kỷ (Hồ Ly) quyến rũ thành công vua Trụ vì nàng ý thức được sức mạnh của nó. Mặc dù là một nhân vật phản diện trong tuồng nhưng nhân vật Đát Kỷ (Hồ Ly) cũng như Thị Mầu (Quan âm Thị Kính) hay Xúy Vân (Kim Nham) cho ta thấy một vẻ đẹp khác của người phụ nữ - vẻ đẹp tự chủ nổi loạn.

3.Kết luận

Khảo sát một số hình tượng nhân vật nữ tiêu biểu trong các tuồng bản của Đào Tấn, ta thấy Đào Tấn đã kế thừa những giá trị tinh hoa về hình tượng người phụ nữ trong văn học cổ trung đại đồng thời đưa ra một số quan niệm mới mẻ về người phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ - tự chủ. Theo thời gian, vai trò của người phụ nữ ngày càng được khẳng định trong xã hội. Vẻ đẹp của họ không chỉ được nhìn nhận trong thực tế mà hình tượng của họ đã được các nhà làm phim, các nhà nghệ thuật chuyển tải qua tác phẩm điện ảnh, qua thơ, qua tranh... Và trong nghệ thuật Tuồng cũng không phải là một ngoại lệ. Người phụ nữ Việt Nam với những ước muốn: cuộc sống hoà bình, gia đình ấm êm, hạnh phúc, được quyết định số phận và hạnh phúc của mình... được thể hiện trên sân khấu tuồng từ thời lập quốc, đã ghi dấu ấn tốt đẹp trong gia đình, ngoài xã hội và trở thành những hình tượng vĩnh cửu, là tấm gương sáng đáng tự hào trong đời sống xã hội của người Việt.

Đinh Thị Kim Thương

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tất Thắng (2000), “Vài khía cạnh của thi pháp tuồng cổ dưới sức ép của ý đồ giáo huấn”, Tạp chí văn học, (9), tr. 49 – 56.

Nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/hinh-tuong-nguoi-phu-nu-trong-tuong-ban-dao-tan