Lãng Du Trong Văn Học Trung Quốc

In bài này

Văn học Trung Quốc nói chung rất phong phú.  Thơ đời Đường và tiểu thuyết đời Minh- Thanh là hai thể loại văn học có những thành tựu lớn lao, là đóng góp của Trung Hoa vào nền văn học thế giới.   Nhà Đường chỉ tồn tại gần 300 năm (618-907), nhưng có tới 2.300 tên tuổi là thi sĩ với gần 49.800 bài thơ (theo sách Toàn Đường thi soạn năm 1705 trong Đời Thanh) Thơ Đường giàu về số lượng, muôn màu muôn vẻ của Nho-Phật-Lão, hình thức điêu luyện với  thi tiên Lý Bạch, thi thánh Đỗ Phủ và trở thành mẫu mực của thơ ca cổ điển Trung Hoa  Tiểu thuyết là thể loại văn học mới phát triển ở thời Minh – Thanh trên cơ sở những chuyện kể trong dân gian về những sự tích lịch sử.  Những tác phẩm lớn, nổi tiếng của thời Minh là Thủy Hử của Thi Nại Am,  Tam quốc chí diễn nghĩa của  La Quán Trung,  Tây du ký của Ngô Thừa Ân, của thời Thanh là Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.  Những tiểu thuyết trên đồng thời là những bộ tiểu thuyết lớn của văn học thế giới.

 

Thủy Hử phản ánh  cuộc đấu tranh của giai cấp nông dân: khởi nghĩa nông dân, chiến tranh nông dân trong xã hội phong kiến Trung Hoa.  Tam quốc chí diễn nghĩa miêu tả tình hình phức tạp của đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị trong ngót một thế kỷ (từ đời Linh đế (184) tới đời Vũ đế (280).  Tây du ký nói về Tôn Ngộ Không hàng phục yêu quái,  vượt mọi trở ngại để cùng Đường Tăng Huyền Trang sang Tây thiên lấy kinh.  Chúng tôi chọn Hồng Lâu mộng (giấc mộng lầu son), để bạn đọc có thể tham chiếu 3 bộ tiểu thuyết lớn về dòng họ của Trung Quốc, Đức,  Mỹ của văn học thế giới, đồng thời ba bộ tiểu thuyết này là 3 bức tranh thu nhỏ về bước đường suy tàn của xã hội Trung Quốc, của Đức, của Mỹ với những đặc trưng của từng nước. Qua đó  thấy được nét đặc sắc của những bộ tiểu thuyết ấy, thấy được bản sắc dân tộc thể hiện trong những tác phẩm văn học đó.

Hồng lâu mộng  của Tào Tuyết Cần (1716- 1763  – Trung Quốc);

Dòng họ Buddenbrook của Thomas Mann (18-1955 -  Đức);

Âm thanh và cuồng nộ của William Faulkner (18 -1962)– Mỹ );  

Lý Bạch (701 – 762)   là nhà thơ đời Đường, Trung Quốc. Máu lãng du đưa ông tới khắp mọi miền của đất nước Trung Hoa. Chồn chân mỏi gối, ông về ẩn cư ở Lô Sơn.  Ông giỏi về  miêu tả cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ, diễn đạt tình yêu đất nước non sông.  Thơ ông hùng tráng, sảng khoái, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tự nhiên, âm điệu hài hoà biến hóa. Thơ ông thể hiện rõ nét tư tưởng Nho gia, Đạo gia, tư tưởng  du hiệp. 

Ông là đỉnh cao mới về thơ lãng mạn tích cực sau Khuất Nguyên.  Những bài thơ được  mọi người truyền tụng là  “Thục đạo nan”; “Hành lộ nan”;  “Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt”; “Tĩnh dạ từ”;  “Tảo phát Bạch  Đế thành” v.v.  Thi tiên Lý Bạch để lại cho đời sau gần 1.000 bài thơ  trong “Lý Thái Bạch tập”.

Với Lý Bạch, thơ lãng mạn trong văn học Trung Quốc đã đạt đến đỉnh cao của nó.

Tình bạn của thi tiên thi thánh

Năm 744,  Lý Bạch rời Trường An đến Lạc Dương kết giao với Đỗ Phủ, hai nhà thơ ở chung với nhau nửa năm, trở thành đôi bạn keo sơn.  Đỗ Phủ  (kém Lý Bạch 11 tuổi)  đã bộc bạch cảm xúc của mình qua các câu thơ:

Tôi cũng khách xa quê,

Coi bác như anh ruột.

Đêm say ngủ chung chăn,

Ngày khoác tay dạo bước.

 

Tính cách của Lý Bạch đúng là phong cách của người “thông kinh thư, xem bách gia”, của người đi nhiều, óc lãng mạn, tâm hồn hào phóng, tấm lòng rộng mở.

Cách tân thi pháp thơ

Lý Bạch có sáng tạo mới trong hình thức nghệ thuật, ông không mù quáng bắt chước cổ nhân, ông đề xuất phong cách thơ thanh chân (trong sáng chân thực), khí vận thiên thành (nội dung vần chữ tự đến mà thành).  Ông táo bạo trong dùng ngôn từ, thể hiện rõ tính quy luật trong vận hành của tự nhiên.  Cảnh hùng vĩ của thiên nhiên:

Sông Hoàng Hà chảy vỡ núi Côn Lôn,

Thét gào muôn dặm  húc Long Môn.

 

Đạo của tự nhiên:

Con sông Hoàng Hà lưng trời tuôn nước,

Xuống biển rồi có ngược lên đâu!

Tư tưởng Nho gia, Đạo gia, máu hiệp khách

Năm 742, Lý Bạch được bạn là Ngô Quân tiến cử.  Đường Huyền Tông cho  Lý Bạch làm Hàn lâm cung phụng (văn nhân ngự dụng : làm thơ ca ngợi công đức). Tư tưởng Nho gia thể hiện qua hy vọng, dịp “giúp vua để thiên hạ yên ổn, bốn bề thanh bình” đã đến.  Nhưng sau ba năm,ông thấy mình chỉ là kẻ góp vui trong chốn cung đình:

Dùng châu ngọc mua tiếng cười điệu hát

Lấy tấm cám nuôi dưỡng kẻ hiền tài.

Ông tự nguyện rời cung đình, tư tưởng Đạo gia thể hiện qua việc lấy rượu, cảnh thiên nhiên để giải “vạn cổ sầu”:

Đời người đắc ý cứ vui tràn,

Chớ để bình vàng suông bóng nguyệt!

Thánh hiền tên tuổi bặt đi,

Chỉ phường thánh rượu tiếng ghi muôn đời !

Ông uống rượu để:

Khối *sầu vạn cổ đập tan hoang 

(bài  Cùng uống rượu)

Thác nước Hương Lô trong bài Vọng Lư Sơn có những câu:

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,

Xa trông dòng thác trước sông này

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước

Tưởng dải Ngân Hà  tuột khỏi mây.

Rồi có lúc tư tưởng du hiệp nổi lên. Lúc ấy Lý Bạch bảo:

Nho sĩ đâu bằng người hiệp sĩ,

Bạc đầu đọc sách có hay gì ?

 

sầu vì chiến tranh, loạn lạc, tha hương

Đỗ Phủ (712 – 770, Du Fu) là nhà thơ hiện thực lớn nhất đời Đường. Ông sinh trong một gia đình có truyền thống văn học. Ông nội  Đỗ Thuần Ngôn là nhà thơ nổi tiếng. Đỗ Phủ tự hào nói:”Thơ ca là việc của nhà tôi”.

Thơ Đỗ Phủ phản ánh chân thực các cảnh tượng xã hội đời Đường trong quá trình chuyển biến từ cực thịnh đến suy vong, Những bài thơ được truyền tụng nhất là  “Tam lại”(ba ông quan lại); “Tam biệt” (ba lần ly biệt); “Thu hứng” (cảm hứng thu);  “Xuân vọng” (hướng về mùa xuân); “Đồng quan lại”;  “Thùy lão biệt”;  “Vô gia biệt”;  “Bình xa hành”; “  Đề tài trong thơ Đỗ Phủ rất rộng: cảm hoài, vịnh vật, đề họa, hoài cổ, đời sống cung đình, xã hội.  Thơ ông tình cảm sâu đậm, phong cách đa dạng, âm vận cách luận, mang tính hiện thực cao, có ảnh hưởng sâu xa trong lịch sử văn học, nên ông được  tôn là “thi thánh”.

Thi tiên, thi thánh

Đời Đường (618-907) dài gần 300 năm, nhưng chỉ có nửa đầu là thịnh trị.  Lọan An Lộc Sơn đẩy nhà Đường tới suy vong.  Nhiều khi sự phát triển của văn học không song hành với những biến động xã hội. Gần 300 năm đời Đường là ba thế kỷ của đỉnh cao trong lịch sử văn học Trung Quốc. Trong khi thơ Lý Bạch phóng túng, lời lẽ súc tích, ý tứ siêu thoát, kỹ thuật tài tình  với những thể thơ tự do  như cổ phong, nhạc phủ, ca hành thì thơ của Đỗ Phủ gắn liền với những biến động của cuộc đời ông  và xã hội ông đang sống bằng lời lẽ trau chuốt với những bài luật thi 5, 7 chữ  (ngũ ngôn tuyệt cú, thất ngôn tuyệt cú). Thơ Lý Bạch  vui với rượu cùng trăng 

Đời người đắc ý cứ vui tràn,

Chớ để bình vàng suông bóng nguyệt!

*

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước

Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.

Thì thơ Đỗ Phủ là tiếng ai oán của dân chúng thời lọan lạc, là tiếng than của oan hồn trong gió:

Thanh Hải ngoài xa anh có thấy:

Từ xưa xương trắng cứ phơi hoang

Quỷ mới hận sầu, ma cũ khóc

Trời tối mưa dầm tiếng thở than.

Lý Bạch xuất hiện như ông tiên trong thơ, Đỗ Phủ xuất hiện như thánh hiền.  Lý Bạch được người đời mệnh danh là thi tiên,  Đỗ Phủ  được người đời kính trọng gọi là thi thánh.

Nỗi đau nhân thế

Lý tưởng chính trị  của Đỗ Phủ là tư tưởng Nho gia. Ông chủ trương “trung quân”, nhưng phản đối “bạo chúa”, chủ trương làm một kẻ đại trượng phu “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”( giầu có sang trọng không hoang dâm, phóng túng; nghèo khó ti tiện  không thay đổi tiết tháo, uy thế và vũ lực  cũng không khuất phục được mình – Nguyễn Khắc Viện dịch). 

          

Nhưng cảnh đời lại không chiều lòng người, cái khó, cái khổ đeo Đỗ Phủ tới tận tuổi già. Tiếng than bi  thiết bật ra từ ông:

Trăm năm thơ tự khổ,

Chưa gặp một tri âm.

 

Từ đời Tống trở về sau, tài năng thơ của Đỗ Phủ được đánh giá cao.  Hai đời Nguyên, Minh tuyển thơ Đỗ Phủ liên tục xuất hiện. Hoàng Đình Kiên  bảo:

Làm thơ mấy ngàn bài,

Sáng soi cùng nhật nguyệt.

LỜI BÌNH:  Đời Đường, Trung Hoa là một quốc gia văn minh trên thế giới.  Các vua đời Đường đều coi trọng văn học và yêu thích thơ,  nên không khắt khe với thơ văn, thậm chí còn mở một nhạc phủ trong Lê Viên.  Nhà Đường quy định lấy thơ, phú để chọn kẻ sĩ, nên nhiều nhà văn, nhà thơ tìm đường tiến thân bằng con đường khoa cử.  Thời Đường kinh tế phát triển.  Những yếu tố trên là những thuận lợi cho việc phát triển văn thơ.   Thơ Đường được chia thành 4 giai đoạn: 1.  Sơ Đường (618-713)  2.  Thịnh Đường (713-766)     3. Trung Đường (766-835)     4.  Vãn Đường (835-907).  Hai khuynh hướng chính trong thơ Đường là trữ tình, lãng mạn (Lý Bạch), và hiện thực xã hội (Đỗ Phủ).    Thơ Đường là đỉnh cao của thơ văn Trung Hoa, đồng thời cũng là đỉnh cao của văn học thế giới, bởi nó kết hợp nhuần nhuyễn hình thức và nội dung, âm điệu hài hòa, đa dạng, súc tích.  Nhà thơ đời Đường chủ trương,  thơ phải có “ký thác”- phải nói lên tâm tình của mình: ghi lại cảm xúc trước hiện thực cuộc sống, vì vậy chỉ có bình thơ, không có phê bình thơ.  Theo chủ nghĩa nhân văn Trung Hoa, nhân loại là trung tâm của vũ trụ. Lâm Ngữ Đường cho rằng, đặc tính của người Trung Hoa là tập trung vào hưởng thụ trong phạm vi vật chất mà họ có được ở cõi trần này. Họ “vui với lẽ trời, hưởng một nếp sống thuần phác , đơn sơ, nhất là một nếp sống gia đình, cùng quan hệ xã hội hài hòa”.  Lâm Ngữ Đường nhận xét, mái nhà của người Trung Hoa “không vươn lên trời cao, mà xòe ra che chở mặt đất”.   Hạnh phúc của người Trung Hoa “phát sinh từ gia đình”.  Chủ nghĩa nhân văn Trung Hoa và người Trung Hoa như vậy nên họ ung dung khi đọc thơ để cảm cho thấu cái hay, cái tế nhị của tiếng Hán( vốn là ngôn ngữ đơn âm, ngôn ngữ tượng hình). Một từ Hán đã bao hàm nhiều ý và có nét đẹp riêng (vì vậy mà có môn Thư pháp).  Thi sĩ Trung Hoa bảo, “thơ chỉ để diễn tả lúc xuất thần, thơ phải cho ta thấy cả một bức tranh trong một nét”. “Cổ nhân cho rằng thơ thì phải ý tại ngôn ngoại, người đọc thơ  phải tự tìm”. 

Đời Đường, Nho-Phật-Lão cùng tồn tại, cùng phát triển.  Thơ  Đường phong phú, đa dạng,  phản ánh rất rõ nét tư tưởng Nho-Phật –Lão – phản ánh đời sống tâm linh Trung Hoa.

TÀO TUYẾT CẦN (1716-1763) VÀ TIỂU THUYẾT DÒNG HỌ “HỒNG LÂU MỘNG”

Trong đời mình, Tào Tuyết Cần nhìn thấy và trải nghiệm quá trình từ cực thịnh đến suy vi của dòng họ Tào.  Biến cố ấy đưa Tào Tuyết Cần  đến nhận thức sâu sắc về xã hội, về vận mệnh của giai cấp phong kiến.

Tào Tuyết Cần viết  “Hồng Lâu Mộng”(Giấc mộng lầu son)  trong những năm vô cùng nghèo khổ :”Từng chữ, từng chữ đều là máu, khổ cực mười năm không phải chuyện bình thường”.  Tiểu thuyết HLM có 120 hồi. Tào Tuyết Cần đã sửa chữa 5 lần 80 hồi đầu, 40 hồi cuối còn ở dạng bản thảo.  28 năm sau khi TTC mất, nhà văn Cao Ngạn căn cứ vào bản thảo  viết tiếp 40 hồi cuối cùng.  Bi kịch tình yêu của Giả Bảo Ngọc   và Lâm Đại Ngọc - hai anh em con cô con cậu- ,  cảnh hưng vong của 4 dòng họ lớn Giả,  Sử, Vương, Tiết  phản ánh sự suy đồi đạo đức khi suy vi của giai cấp phong kiến và vai trò của giai cấp phong kiến đang lùi dần vào đằng sau vũ đài lịch sử. Tiểu thuyết  Hồng Lâu Mộng có tất cả hơn 400 nhân vật với những tính cách khác nhau, đề cập tới mọi thể chế kinh tế, chính trị, văn hóa cùng mọi giai tầng trong xã hội với  đủ mọi ngành nghề từ văn học nghệ thuật tới bói toán, tham thiền ngộ đạo. Tất cả  nằm trong vòng xóay của những mâu thuẫn  và biến động xã hội.  Nổi bật là những nhân vật Giả Bảo Ngọc,Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Vương Hy Phượng… Tiểu thuyết diễn đạt “tình và lý” Hồng Lâu Mộng giống như bức tranh hoành tráng rất sinh động về xã hội phong kiến Trung Hoa .  Trong khi thiên hạ đang chán lối gò gẫm, gượng gạo uốn lựa theo thời thế của “Kinh học” thì  văn phong của Hồng Lâu Mộng chuẩn xác, nhuần nhuyễn, giản dị, trong sáng, thoải mái tự nhiên, chân thực với *mộng và thực nên đầy hấp dẫn..  Đây  là bộ tiểu thuyết  kết hợp thơ văn hay nhất trong nền tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.  80 hồi của Tào Tuyết Cần lấy tên là Thạch đầu ký (Câu chuyện hòn đá) và lưu truyền dưới hình thức bản chép tay trong số bạn chí thiết.  Sách đổi tên là Hồng Lâu Mộng, khi Trình Vĩ Nguyên và Cao Ngạc ra trọn 120 hồi năm 1791 (Trình giáp bản – bản A). Sách được sửa chữa và khắc lại in năm 1792 (Trình ất bản – bản B). Thiên hạ bấy giờ đua nhau mua tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng, (khắp kinh thành nhà nào cũng phải có một bộ trên bàn- theo Sái Thư đường bút ký) và ca ngợi HLM “là tác phẩmhay nhất không có gì hay hơn trong hàng tiểu thuyết – Theo Từ dư tùng thoại) .  Họ kháo nhau: “Chuyện trò không nhắc Hồng lâu mộng, đọc hết thi thư cũng phí hoài”. 

Đây  là bộ tiểu thuyết  kết hợp thơ văn hay nhất trong nền tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.  80 hồi của Tào Tuyết Cần lấy tên là Thạch đầu ký (Câu chuyện hòn đá) và lưu truyền dưới hình thức bản chép tay trong số bạn chí thiết.  Sách đổi tên là Hồng Lâu Mộng, khi Trình Vĩ Nguyên và Cao Ngạc ra trọn 120 hồi năm 1791 (Trình giáp bản – bản A).  Sách được sửa chữa và khắc lại in năm 1792 (Trình ất bản – bản B). Thiên hạ bấy giờ đua nhau mua tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng, (khắp kinh thành nhà nào cũng phải có một bộ trên bàn- theo Sái Thư đường bút ký) và ca ngợi HLM “là tác phẩmhay nhất không có gì hay hơn trong hàng tiểu thuyết – Theo Từ dư tùng thoại) . Họ kháo nhau: “Chuyện trò không nhắc Hồng lâu mộng, đọc hết thi thư cũng phí hoài”.  Số người nghiên cứu tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng ngày càng đông, đông đến mức trở thành  trường phái “Hồng học”, cho “Hồng học mới là văn học đích thực”(Đầu đời Quang Tự, sĩ đại phu kinh triều đều đọc (HLM) rất say mê).- Một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử văn học thế giới. Năm 1794 - 2 năm sau khi xuất bản,  Hồng Lâu Mộng đã ra ngoài biên giới Trung Quốc truyền sang Nhật Bản và tiếp theo là một số nước Đông Nam Á.  HLM đã được dịch sang tiếng Anh (vàao cuối thế kỷ 19), tiếng Pháp, Nga, Đức (vào đầu thế kỷ 20). Đến nay tổng cộng đã được dịch  ra 16 ngôn ngữ khác nhau.  Cùng với hội thảo Hồng Lâu Mộng năm 1980 ở Cáp Nhĩ Tân Trung Quốc là việc thành lập  Hội Hồng Lâu Mộng học Trung Quốc . Trường Đại học Wisconsin Mỹ đã tổ chức Hội thảo Hồng Lâu Mộng quốc tế lần thứ nhất vào mùa xuân 1980.  Hội thảo HLMQT lần thứ hai họp ở Cáp Nhĩ Tân tháng 6 năm 1986 (xin bạn đọc tham khảo *Hội nghiên cứu Hegel quốc tế).  

Thông qua bi kịch tình yêu tay ba Bảo Ngọc (cả họ Giả đặt kỳ vọng vào Giả Bảo Ngọc trong con đường thi cử làm quan, thì Bảo Ngọc lại chán chường cảnh ấy), Đại Ngọc, Bảo Thoa (Bảo Ngọc yêu Đại Ngọc, nhưng do gia đình họ Giả đánh tráo trong đám cưới –cô dâu lại là Bảo Thoa.  Đại Ngọc buồn mà chết. Bảo Ngọc uất ức đi tu. Bảo Thoa trở thành quả phụ. Tác giả  nói về sự suy vi  của một gia đình đại quý tộc (cái bóng hình  sự suy vi  của dòng họ Tào, mà đến đời Tào Tuyết Cần thì sa sút) . Sự tương phản bộc lộ rõ qua hai thế hệ- hai tuyến nhân vật. Lớp trẻ với những vui buồn trong tình yêu; lớp gia trưởng đầy tính toán trong cuộc sống.  Nói rộng ra là tác giả đã dự cảm sự suy tàn của phong kiến Trung Quốc.

Lỗ Tấn nhận xét:

-  Tào Tuyết Cần đã phá vỡ tư tưởng và cách viết truyền thống.

Đời Minh  (Minh Dynastie: 1368-1644) là thời đại hoàng kim của tiểu thuyết Trung Quốc với Tam quốc chí diễn nghĩa;  Tây du ký; Thủy Hử.  Đỉnh cao của tiểu thuyết Trung Quốc xuất hiện  lại ở đời Thanh (Thanh Dynastie: 1644-1911) với “tác phẩm bất hủ của nhân lọai:  “Hồng lâu mộng”,  (lời Lâm Ngữ Đường).

*/   Bảo Ngọc mộng chơi cõi Thái Hư.   Tần Khả Khanh báo mộng Vương Hy Phượng.  Bảo Ngọc mộng thấy Tinh Văn.  Tập Nhân mộng thấy Bảo Ngọc.

*/ Tháng 4.1930 tại Hague, Hà Lan, người ta đã thành lập Hội nghiên cứu Hegel quốc tế, cứ 2 năm họp mặt một lần.

LỜI BÌNH:   Chúng ta có thể rút ra được những bài học rất sâu sắc từ những trang lịch sử, nhưng bài học sâu sắc nhất, sống động nhất là bài học rút ra từ cuộc sống.   Chính vì vậy mà tiểu thuyết “Hồng Lâu Mộng” cuốn hút, hấp dẫn bạn đọc và giới nghiên cứu.  Người Trung Quốc ung dung, chầm chậm  đọc tiểu thuyết (họ nằm đọc) để giết thời giờ.   Tiểu thuyết Trung Hoa dùng kỹ thuật tả chân, tả tỉ mỉ các chi tiết trong cuộc đời nhân vật như “thực”,người đọc thưởng thức tiểu thuyết bằng cách soi bóng tiểu thuyết trong hiện thực xã hội.    Các tình tiết trong “Hồng lâu mộng” nổi bật lên trên khung cảnh “thịnh rồi suy của một vọng tộc”. Trung Hoa thời xưa, nhà Nho coi tiểu thuyết là thứ văn chương thấp hèn, nên các tiểu thuyết gia Trung Hoa thường giấu tên.  Mặt khác họ viết tiểu thuyết là do nhu cầu nội tại, vì thích sáng tác, họ sống ẩn dật để viết tiểu thuyết (Trung Hoa thời xưa không có nhuận bút cho tiểu thuyết).

Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=13085&LOAIID=21&LOAIREF=1&TGID=2093