Ảnh hưởng của văn học nước ngoài đến một số truyện ngắn của Lỗ Tấn

In bài này

 

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

 

Xưa nay khi nói đến ảnh hưởng của phương Tây đến Lỗ Tấn, người ta thường nói chung chung về kỹ thuật viết văn phương Tây, cấu trúc tác phẩm… Ở phần này, mục đích của chúng tôi sẽ là chỉ ra cụ thể từng trường hợp mà Lỗ Tấn chịu ảnh hưởng.

 

Lỗ Tấn là một dịch giả tiên phong trong việc dịch văn học nước ngoài ra tiếng Trung Quốc. Khi còn là sinh viên ở Nhật trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, ông đã dịch nhiều truyện từ Nga và các nước Đông Au từ tiếng Nhật và tiếng Đức, in hai tập truyện dịch, và rõ ràng nó có ảnh hưởng đến cách ông viết truyện. Ông viết:

 

“Tôi bắt đầu viết truyện ngắn không phải vì tôi cảm thấy mình có tài như là môt nhà viết truyện ngắn. Đơn giản chỉ là khi sống trong một hội quán ở Bắc Kinh và chẳng có cuốn sách nào để đọc hay dịch, tôi viết một điều gì đó đại khái như là nhân vật tiểu thuyết. Đó là Nhật ký người điên. Tôi dựa trên nhiều cuốn sách nước ngoài tôi đã đọc và kiến thức về y khoa. Ngoài ra tôi không có một tài liệu nào hết.”(1)

 

Lỗ Tấn là nhà văn Trung Hoa của giai đoạn ông gần gũi nhất với các trào lưu tư tưởng phương Tây hiện đại, đặc biệt là những lĩnh vực mà ông nghĩ rằng nó có thể giải quyết những vấn đề xã hội.

 

Điều đầu tiên mà chúng tôi muốn khẳng định, đó là Lỗ Tấn chịu ảnh hưởng nhiều nhất ở các nhà văn Nga. Có thể thấy văn học Nga, văn học của các dân tộc bị áp bức vùng Đông Âu và Balcan là một nhân tố quan trọng trong sáng tác của ông (và về tư tưởng còn hướng ông đến chủ nghĩa xã hội ở giai đoạn sau). Ông viết: “Văn học Nga là người dẫn đường và là người bạn của tôi. Từ văn học Nga, tôi có thể thấy ngọn lửa nhân đạo của những người bị áp bức… và cuộc đấu tranh của họ. Đọc văn học Nga có thể tôi sẽ buồn, nhưng nhen nhóm tia hy vọng…” (2). Nước Nga lại rất gần Trung Quốc về mặt địa lý, lúc này lãnh thổ của Nga đã lan ra đến tận Trung Á, có đường biên giới gần Trung Quốc và Nhật Bản. Nền chính trị-xã hội của Nga cũng khá giống Trung Quốc: cùng trải qua thời phong kiến, cùng có những biến động, thăng trầm, va đập văn hóa Đông- Tây. Một lý do quan trọng nữa là vào khoảng giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, văn học hiện thực Nga phát triển rất sớm, có những tên tuổi ảnh hưởng đến cả phương Tây: Pushkin, Lermontov, Dostoievsky, L.Tolstol, Tsekhov, Andreyev…

 

Về mặt lý luận, Lỗ Tấn rất khâm phục Plekhanov, ông gọi Plekhanov là “người Nga Marxist tiên phong, người thầy đánh thức giai cấp vô sản”. Rất tiếc là vì lòng yêu nước và ý muốn đánh bại người Đức trong Chiến tranh thế giới I, nên ông đã thỏa hiệp với giai cấp tư sản và phong kiến Nga, trở thành lãnh tụ của Menshevik. Từ đó, ảnh hưởng của ông giảm dần. Dù sao, Lỗ Tấn cũng đánh giá đóng góp của ông ở việc đặt nền tảng cho lý luận Marxist về nghệ thuật.

 

Lỗ Tấn cũng khâm phục Lunacharsky ở thái độ chống đối truyền thống và phong cách trưởng giả. Về nghề nghiệp, ông khâm phục sự say mê văn chương, nhiệt tình dồi dào, tư tưởng thẳng thắn, kiến thức uyên bác… Lunacharsky tự nhận mình là “nhà thơ của cách mạng”, “ người trí thức Bolshevik”, Lỗ Tấn thì chưa bao giờ gia nhập Đảng Cộng sản, trong khi Lunacharsky là lãnh đạo cục quân nhu giáo dục và nghệ thuật dưới chính quyền Xô viết từ năm 1917-1929, đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng giáo dục và nghệ thuật Xô viết. Lỗ Tấn thì chưa bao giờ phục vụ cho chế độ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (vì ông mất trước đó), nhưng cả hai đều có những điểm giống nhau: tôn trọng cá nhân và sáng tạo, cổ vũ giáo dục, nghệ thuật, nhiệt tình với chủ nghĩa nhân đạo, đều có ý muốn thay đổi xã hội, cổ vũ văn học vô sản…Lỗ Tấn cũng có dịch một tác phẩm của Lunacharsky.

 

Sau đây là một số dẫn chứng cụ thể Lỗ Tấn chịu ảnh hưởng của các nhà văn Nga và các nhà văn khác.

 

 

II.MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ.

 

 

II.1. Trường hợp tác phẩm Đèn sáng mãi.

 

Theo nhà nghiên cứu Vương Nhuận Hoa, thủ pháp thể hiện và kết cấu nghệ thuật của Đèn sáng mãi chịu ảnh hưởng bút pháp chủ nghĩa tượng trưng do tác giả người Nhật Trù Xuyên Bạch Thôn trong tác phẩm Biểu tượng buồn khổ Trong tháp ngà mà Lỗ Tấn đã dịch trong cùng năm đó. Ngoài ra ông còn ảnh hưởng bút pháp tượng trưng của nhà văn Nga Andreyev. Tựu trung đặc điểm của hai nhà văn này là sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa hiện thực. Lỗ Tấn đã từng nhận định phong cách của Andreyev: “Sáng tác của An đặc thái phu (tức Andreyev), bao hàm tính hiện thực nghiêm túc và sự sâu sắc tinh tế làm cho chủ nghĩa ấn tượng tượng trưng và chủ nghĩa tả thực hài hòa với nhau. Trong các tác giả Nga, không ai có thể xóa nhòa được sự khác biệt giữa thê giới bên trong và sự biểu hiện bên ngoài mà vẫn làm hiện ra những hoàn cảnh khổ nhục như ông. Tác phẩm của ông mang hơi thở tượng trưng mà vẫn không mất đi tính hiện thực.”(3)

 

Ngoài Vương Nhuận Hoa, chúng ta còn thấy một loạt các nhà nghiên cứu cũng đồng ý với ý kiến này. Có thể kể Nghiêm Gia Đàm trong bài Địa vị lịch sử của truyện Lỗ Tấn (Văn tập kỷ niệm 100 năm sinh Lỗ Tấn của Đại học Bắc Kinh), Ôn Nho Mẫn: Trù Xuyên Bạch Thôn và tư tưởng mỹ học thời kỳ đầu của Lỗ Tấn…

 

(Muốn xem thêm về phần này, xin đọc bài Từ Khẩu hiệu đến tượng trưng: Thảo luận mới về Trường minh đăng của Lỗ Tấn- Vương Nhuận Hoa- Đại học Quốc gia Singapore)

 

Nhân vật người điên và Đèn sáng mãi không chỉ chịu ảnh hưởng bút pháp tượng trưng của Trù Xuyên Bạch Thôn và Andreyev mà còn ảnh hưởng truyện ngắn Hoa đỏ của người điên của một nhà văn Nga khác là Garshine (1855-1888). Đó là truyện ngắn viết về một người điên vào một bệnh viện tâm thần (được xem là một phần tự truyện của Garshine, nhà văn này có một thời gian bị bệnh tâm thần phải vào bệnh viện- Xem chú thích về các tác giả Nga mà Lỗ Tấn chịu ảnh hưởng). Người điên trong truyện ngắn cho rằng những bông hoa anh túc màu đỏ trong bệnh viện là nguồn gốc của mọi tội ác trên đời. Vì thế ban đêm, dù sức khỏe rất yếu, anh ta vẫn lẻn ra ngoài hái bông hoa đó, kiệt sức mà chết, trong tay vẫn còn cầm hoa. Gương mặt mỉm môt nụ cười mãn nguyện.

 

Học giả các nước khi nhắc đến người điên có âm mưu thổi tắt ngọn đèn thần trong Đèn sáng mãi đều đem truyện người điên hái hoa của Garshine ra so sánh. (Xem: Lỗ Tấn và ảnh hưởng của văn học Nga- Douwe Fokkema, Kỹ thuật hư cấu của Lỗ Tấn- Patrick Hanna…). Bản thân Lỗ Tấn cũng rất thích Garshine, ông từng dịch Bốn ngàyMột truyện truyền kỳ rất ngắn của Garshine. Ông nhận xét Garshine là: “ dưới sự áp bức của chính phủ Nga hoàng Á Lịch Sơn Đệ tam (Alechxandre III), đây là tiểu thuyết gia đầu tiên dám kêu la, lấy thân mình gánh vác nỗi thống khổ của nhân gian” (4). Lỗ Tấn còn cho Hoa đỏ của người điên là một kiệt tác, ông không dịch vì đã được dịch sang tiếng Trung rồi.

 

Có thể thấy việc khơi mở, thậm chí là ảnh hưởng của Hoa đỏ… đối với Đèn sáng mãi là hoàn toàn có thể. Chúng tôi đã đọc kỹ truyện Hoa đỏ…, rất tiếc là không có tiếng Việt, phải đọc qua bản tiếng Anh, và chúng tôi nhận thấy chúng có những chi tiết tương đồng :

 

1.                           Nhân vật chính của hai truyện đều không có tên, đều là người bị bệnh tâm thần, bị người ta xem là người điên. Nhưng cả hai đều không nhận ra điều này. Ngược lại, họ tự xem mình là người “đi trước”, “biết trước” (tiên giác).

 

2.                           Cả hai đều bị phát bệnh lần thứ hai. Người điên của Garshine một năm trước cũng đưa vào chữa trị ở bệnh viện này. người điên của Lỗ Tấn nhiều năm trước cũng phát bệnh, đòi thổi tắt ngọn đèn.

 

3.                           Cả hai người điên đều cố gắng diệt trừ căn nguyên của tội ác trong xã hội. Người điên trong Hoa đỏ… xem hoa anh túc là cội nguồn của tội lỗi. Người điên của Lỗ Tấn thì xem trường minh đăng là tai họa, thổi tắt thì sẽ không còn “hoàng trùng, dịch bệnh” nữa.

 

4.                           Cả hai đều xem việc hái hoa và thổi tắt đèn là việc nghĩa không thể từ bỏ, là hành động anh hùng nên luôn tìm mọi cách để hoàn thành nhiệm vụ. Có lẽ đây là điểm mà chúng tôi nghĩ Garshine và Lỗ Tấn gặp nhau: cả hai đều cho mình là người gánh vác sứ mệnh của quốc gia, của nhân loại, rất gần với tư tưởng nổi loạn và chủ nghĩa siêu nhân của Nietzsche. Đây là điểm giống nhau quan trọng nhất, làm nên chủ đề và cảm hứng chủ đạo của hai tác phẩm.

 

5.                           Garshine miêu tả bệnh viện chật chội, đông đúc, dơ bẩn, trì trệ… là một hình ảnh khái quát cho nước Nga lúc bấy giờ; Lỗ Tấn miêu tả làng Cát Quang lạc hậu, tăm tối, u mê, ngu dốt… cũng giống một nước Trung Quốc thời phong kiến.

 

6.                           Cả hai trước lời dụ dỗ, lừa bịp của người khác đều rất tỉnh táo, kiên định, không chịu để người khác làm thay.

 

7.                           Hành động hái hoa của người điên trong Hoa đỏ… sau khi bị phát hiện, anh ta bị bắt nhốt, trói trong phòng bệnh. Người điên của Lỗ Tấn sau khi tỏ rõ ý định muốn thổi tắt trường minh đăng cũng bị bắt nhốt vào gian phòng trong ngôi miếu.

 

8.                           Trong Hoa đỏ…, những đóa hoa bao giờ cũng rực rỡ, đỏ thắm; ánh đèn trong Đèn sáng mãi lúc nào cũng “xanh lè lè” trong mắt mọi người.

 

9.                           Ngôn ngữ của hai người điên đều giống nhau: trong Hoa đỏ…: “mi sẽ đi đứt. Ta thấy đóa thứ ba đang nở rồi. Đây là lúc để ta hoàn thành nhiệm vụ của ta! Ta sẽ hái nó! Dẫm chết nó! Có như thế thiên hạ mới thái bình, mọi người mới an toàn. Ta sẽ hái mi, công việc này phải do ta đích thân hoàn thành mới được.” (5). Còn trong Đèn sáng mãi: “Thổi tắt đi thì sẽ không còn hoàng trùng nữa, không còn dịch miệng lợn nữa… (…)…Không thể được. Không cần các anh thổi tắt. Để tôi thổi lấy cho tắt ngay bây giờ.”( 6)

 

Đương nhiên, đằng sau một số điểm tương đồng về chủ đề, tư tưởng, phản ánh hiện thực xã hội, còn có vấn đề truyền thống mỗi nước. Trong Hoa đỏ, người điên có thể hoàn thành sứ mệnh hái ba bông hoa đỏ, kết thúc truyện, anh ta chết mà trong tay còn nắm chặt bông hoa anh túc thứ ba, mọi người đem chôn anh ta và hoa, trên môi nở môt nụ cười mãn nguyện. Còn người điên trong Đèn sáng mãi lại bị giam trong buồng tối, chỉ có thể hét to khẩu hiệu: “Tao đốt hết”. Người điên trong Hoa đỏ vì hoàn thành sứ mệnh mà hy sinh, vận mệnh người điên trong Đèn sáng mãi không biết sẽ ra sao vì ngọn đèn vẫn sáng ”xanh lè lè”. Thôn Cát Quang vẫn bình yên như chưa có chuyện gì xảy ra. Xem ra Lỗ Tấn còn bi quan hơn cả Garshine.

 

 

 

II. 2. Trường hợp Nhật ký người điên.

 

Trong Nhật ký người điên, ảnh hưởng của phương Tây rất dễ nhận biết, tựa thì lấy từ truyện cùng tên của Gogol, viết năm 1834. Còn cấu trúc truyện thì từng đoạn văn, cách chia đoạn là giống với Zarathustra đã nói như thế của Nietzsche. Sau này năm 1935 Lỗ Tấn cũng có nói:

 

“Năm 1834 Gogol viết Nhật ký người điên, năm 1883 Nietzsche đặt vào miệng Zarathustra những lời tuyên ngôn của ông. Nhưng sau đó Nhật ký người điên của tôi đặt ra mục tiêu là phơi bày những tội ác của chế độ gia đình và Học thuyết về chữ Lễ, nó có âm hưởng cay đắng hơn Gogol. Và nó cũng không mơ hồ như người hùng siêu nhân của Nietzsche.” (7)

 

Cả truyện của Gogol và Lỗ Tấn, đều là tập nhật ký của một người điên. Đều viết dưới dạng nhật ký. Đều dùng ngôn ngữ của một kẻ điên để phê phán xã hội. Những khía cạnh này của hai truyện tương đối giống nhau, ngoài ra còn có những tương đồng khác, ví dụ những dòng kêu cứu của Gogol: mẹ ơi hãy cứu lấy con trai, giống như Lỗ Tấn: hãy cứu lấy các em…, hay cách đề cập đến những con chó, mà người điên nghĩ rằng giống với hành vi con người… Thế nhưng một nhà văn vĩ đại như Lỗ Tấn phải có những sáng tạo riêng. Những điểm khác nhau giữa hai tác phẩm có thể thấy rất rõ:

 

-Nhật ký người điên của Gogol là một câu chuyện hiện thực về một anh chàng nhân viên bàn giấy, một nhân vật điển hình thường thấy trong truyện của Gogol khi ông viết về St.Peterburg. Độc giả theo dõi tình trạng bệnh tật của anh ta từ cảm giác mặc cảm và ghen tuông của anh thông qua việc bị giam hãm trong viện cứu tế. Trong nhật ký, người điên của Gogol có vài cuộc tấn công vào nhân viên cấp cao của St.Peterburg. Gogol hy vọng rằng bằng cách đặt vào miệng của người điên những ý tưởng đó, ông sẽ tránh được việc bị kiểm duyệt. Nhưng chính điều đó làm cho tác phẩm không có gì khác hơn là một nghiên cứu về bệnh loạn thần kinh, chứ không phải là mong muốn của Gogol là kết án chính quyền lúc bấy giờ. Sự phê bình xã hội phải là từ người trần thuật, và nó ấn tượng hơn là diễn đạt trực tiếp.

 

-Ngược lại, Lỗ Tấn không trực tiếp nói đến tình trạng khủng hoảng về tâm lý. Chúng ta cũng không tìm thấy chân dung hiện thực của một người bất hạnh như chúng ta tìm thấy trong những truyện sau này. Người điên của ông mang một tính cách mờ ảo hơn là nhân viên văn phòng St. Peterburg. Ý định của Lỗ Tấn là sử dụng người điên như là một hình ảnh tượng trưng cho sự tấn công trực tiếp vào xã hội truyền thống. Ông không hạn chế tấn công vào một khía cạnh của xã hội, mà là kết án cả hệ thống gia đình và đạo đức chính thống. Vì vậy, ông cung cấp cho những lời nói của người điên một nghĩa kép: do đó câu chuyện trở thành một ngụ ngôn, nghĩa ẩn dụ là thông điệp mà Lỗ Tấn muốn chuyên chở. Đó là sự quan trọng của thành tố ngụ ngôn làm cho Lỗ Tấn và Gogol khác nhau. Mặc dù câu chuyện có cùng tên cũng như những thành phần như nhau, mô hình của họ thì khác nhau.

 

-Lỗ Tấn nói rằng ông sử dụng nhiều kiến thức y khoa trong Nhật ký người điên (học y khoa từ 1904-1906, ông cũng học tiếng Đức trong thời gian này và đọc khá nhiều sách tiếng Đức về khoa học) . Truyện này cho thấy dù đã bỏ học y để chọn văn chương, nhưng ông vẫn tiếp tục hứng thú với tâm lý học và những lĩnh vực tương tự. Bản thân câu chuyện là một chứng cứ cho thấy kiến thức về y khoa của ông là một nguồn quan trọng. Và nó cũng là một ý nghĩa bề mặt quan trọng của câu chuyện.

 

Người anh hùng là một người đàn ông khá trẻ bị bệnh ảo giác. Anh ta tưởng tượng người ta sẽ ăn thịt mình. Người anh nhốt anh ta vào một cái phòng tối. Khi anh ta ra đường mọi người nhìn anh ta và bàn tán. Một ông thầy lang già thăm bệnh và viết đơn thuốc. Anh ta kêu gọi mọi người đừng ăn thịt người nhưng họ không nghe. Tác giả, một người bạn học cũ, nhìn thấy cuốn nhật ký và cho đăng lại.

 

Đó là bề mặt ý nghĩa của ngụ ngôn Nhật ký người điên. Chúng ta không có một thống kê đầy đủ những tác phẩm mà Lỗ Tấn đọc về lĩnh vực tâm lý, và do đó chúng ta không thể chắc chắn mức độ mà người điên phản ánh kiến thức của Lỗ Tấn về lý thuyết y học đương đại. Nhưng ít nhất đó cũng là những triệu chứng được mô tả trong các sách y khoa về bệnh tâm thần. Người ta gọi là chứng hoang tưởng, sách y học gọi là một loại loạn thần kinh. Nó bao gồm việc nghi ngờ người ta ám sát mình. Trong sách Y khoa người ta có viết:

 

“Nghi ngờ là một thái độ thường trực trong óc họ, và họ thường nghi ngờ cả những hành vi của những người thân thiết, gần gũi nhất với mình. Những đoạn đối thoại của người khác làm cho người bệnh hiểu theo một ý nghĩa ẩn giấu nào đó…” (Encyclopedia Britannica)

 

Đoạn mô tả này rất gần với hành vi của người điên của Lỗ Tấn. Cách anh ta liên tưởng đến con chó nhà họ Triệu, cách người đàn bà mắng con, đánh con, thầy lang, và ngay cả ông anh của anh ta… anh ta nghi ngờ tất cả mọi người sẽ giết và ăn thịt anh ta, và anh ta diễn giải những ý nghĩa theo suy nghĩ riêng của mình.

 

Từ đó, người điên liên hệ đến một hệ thống phát triển cao hơn giúp anh ta nghĩ rằng phần lớn xã hội là ăn thịt người.

 

- Cách miêu tả người điên của Lỗ Tấn đóng góp thành công không nhỏ cho tác phẩm còn xuất phát từ một kinh nghiệm cá nhân. Trong thời gian sống ở Bắc Kinh, Lỗ Tấn có một người anh họ làm nhân viên văn phòng ở miền Tây Bắc Trung Quốc. Sau đó anh này bị bệnh và Lỗ Tấn phải đưa anh ta về quê. Nguyên mẫu này chắc cũng giúp ông ít nhiều trong tác phẩm.

 

-Nhật ký người điên của Gogol cũng được ông kể lại rằng đó là một kinh nghiệm khi ông còn trẻ ở St. Peterburg và cũng là một phần hiểu biết của ông. Cái làm cho người điên của Lỗ Tấn, truyện của Lỗ Tấn thành công, đó là sự kết hợp giữa lý thuyết và quan sát, khiến tác phẩm là một tiên phong của tâm lý học hiện đại Trung Quốc trong văn học Trung Quốc, cách sử dụng những lời nói của người điên để chuyên chở thông điệp. Lỗ Tấn phát hiện là sự tồn tại tự nhiên thuộc về bản chất của hệ thống ảo giác của ca bệnh loạn thần kinh này, và khả năng bộc lộ trên bề mặt câu chuyện là cách nhìn xã hội. Đó là chủ đề trung tâm của câu chuyện.

 

Gogol đóng góp quan trọng vào hình thức và nội dung của tác phẩm, những điều đó đã được chuyển hóa vào tác phẩm dưới bàn tay tài hoa của tác giả, và nó khác xa so với cái mà nó ảnh hưởng. Tuy nhiên còn một yếu tố nữa mà chúng ta chưa đề cập đến đó là sự liên hệ giữa tác phẩm và truyền thống văn học Trung Quốc .

 

 Cái cách Lỗ Tấn cách biệt với xã hội vào thời điểm ông viết Nhật ký người điên cũng giống như người điên bị nhốt vào trong một căn phòng nhỏ (ngôi nhà bằng sắt không có lối ra..). Trong suốt cách mạng Tân Hợi, Lỗ Tấn không tham gia gì cả như những nhà nho truyền thống từ chối hoàn toàn hợp tác với chính phủ. Việc Lỗ Tấn làm ở Bộ Giáo dục thật ra cũng không nói lên gì nhiều việc hợp tác vì đó là một chức vụ nhàn hạ mà lương cao. Ông gần như  tách biệt khỏi đời sống văn học Trung Quốc lúc bấy giờ. Giờ đây ông muốn phá vỡ bức tường ngục tối lâu nay bao quanh ông bằng cách cầm bút viết.

 

Việc kết án đối lập giữa cá nhân và xã hội thật ra là một vấn đề phổ biến trong văn học truyền thống. Ví dụ những nho sĩ ngày xưa khi không có điều kiện để hành động thực sự, các nhà nho thường rơi vào tình trạng cô lập. Trong văn học, tình trạng này rất phổ biến, ví dụ Khuất Nguyên cũng nói:

 

“Cả thế gian này đục chỉ mình ta trong,

 

Mọi người đều say chỉ mình ta tỉnh”

 

Khái niệm “cuồng nhân” trong văn học truyền thống Trung Quốc cũng được nói đến nhiều. Mặc dù ý tưởng viết nhật ký của một người điên là xuất phát từ một nhà văn châu Âu, nhưng truyền thống chống Khổng giáo của người điên thì tồn tại ở Trung Quốc từ lâu rồi. Sớm nhất là người điên của Khuất Nguyên, ngoài ra trong một truyện của Nguyên Chẩn cũng có nói đến một người điên, miêu tả thái độ chung của những người muốn hồi phục Đạo Lão (chúng ta nhớ rằng Lỗ Tấn rất am hiểu giai đoạn này trong Văn học Trung Quốc). Lúc ở Nhật, ông có tham gia một cua học của Chương Bỉnh Lân (nhà triết học và cách mạng), ông rất thích văn chương thời Ngụy- Tấn. Ông biên tập thơ của Kê Khang và biên soạn cuốn Kê Khang tập, thích tác gia này vì ông ta chống Khổng giáo, nhất là bài “Chín lý do không ra làm quan” của Kê Khang.

 

Rõ ràng, Nhật ký người điên của Lỗ Tấn có ý tưởng là những hiểu biết của ông về văn học và khoa học phương Tây. Tuy nhiên, là một nhà văn giàu sáng tạo, những yếu tố quyết định thành công của Nhật ký người điên là phát triển từ hoàn cảnh xã hội và chính trị lúc bấy giờ, có cả truyền thống Trung Quốc trong đó.

 

 

 

3.Anh hưởng của nhà thơ mù Nga Eroshenko với những truyện đồng thoại mà Lỗ Tấn đã viết: trong suốt giai đoạn viết Hát tuồng ngày rước thần(và môt số truyện khác (1921-1922): Thỏ và Mèo, Chuyện vui về đàn vịt), Lỗ Tấn chịu ảnh hưởng từ Vasily Eroshenko, một nhà thơ Nga mù, sinh ra ở Ucraina, cũng là một chuyên gia quốc tế ngữ, nhạc sĩ và kể chuyện đồng thoại trẻ em. Trước khi đến Trung Quốc, ông đã sống ở Ấn Độ, Burma và Nhật Bản. Bị trục xuất khỏi Nhật Bản năm 1921 (vì bị nghi ngờ là một gián điệp, nhưng có lẽ ông là một người vô chính phủ thì đúng hơn), ông đến Trung Quốc. Ông được giới thiệu với Thái Nguyên Bồi, hiệu trưởng Đại học Bắc Kinh, và Thái Nguyên Bồi mời ông dạy môn quốc tế ngữ. Vì Eroshenko không biết nói tiếng Trung Quốc, nên Thái lo lắng không biết ông ta xoay xở ra sao ở Bắc Kinh. Phát hiện là ông rất giỏi tiếng Nhật, Thái quyết định nhà họ Chu sẽ là nơi cư ngụ lý tưởng cho Eroshenko, vì với Lỗ Tấn, Chu Tác Nhân và vợ (Habuto Nobuko), Chu Kiến Nhân và vợ (em gái Habuto), tiếng Nhật gần như là tiếng mẹ đẻ. Mùa xuân năm 1922, Eroshenko đến ở với họ, vào ngày 3.7, ông đi du lịch ở Nga, tham dự một hôị thảo về quốc tế ngữ ở Phần Lan, ngày 4.11 ông về lại Bắc Kinh và ở đây đến tháng 4.1923

 

Khi Eroshenko bắt đầu khóa dạy, sinh viên tham dự rất đông (Lỗ Tấn đã dịch từ tiếng Nhật vở kịch đồng thoại của Eroshenko Những đám mây hồng và đăng trên Bưu điện buổi sáng, Eroshenko vì vậy rất nổi tiếng ở Bắc Kinh). Ông này nói quốc tế ngữ, rồi Chu Tác Nhân dịch ra tiếng Trung Quốc. Ba truyện trong Gào thét: Chuyện vui về đàn vịt, Thỏ và mèoHát tuồng ngày rước thần đươc viết vào tháng 10.1922. Dường như cảm thức lãng mạn không có nhân vật của Hát tuồng ngày rước thần và hai truyện kia là kết quả của sự trữ tình Nga đã có âm hưởng đọng lại trong trái tim Lỗ Tấn, và nó cũng tiếp tục một ít ở những truyện đầu tập Bàng hoàng. Eroshenko dường như có khuynh hướng chuyển Lỗ Tấn từ việc rút lui tạm thời khỏi hiện thực Trung Quốc những năm đầu thập niên 1920 trong một tâm trạng buồn bã sang môt hướng khác, xoa dịu bởi thiên nhiên và trẻ em. Ví dụ đoạn miêu tả trong Hát tuồng ngày rước thần:

 

“Chiếc thuyền như một con cá lớn cõng một bầy trẻ con vượt sóng. Mấy ông già đánh cá đêm cũng dừng xuồng lại, nhìn thuyền chúng tôi lướt qua, ngợi khen…”

 

 

4.Ảnh hưởng phong cách những truyện ngắn của Leonid Andreyev và Artsybashev: như Im lặng, Nụ cười đỏ (của Andreev), Tumanov (của Artsybashev) mang phong cách cô độc, ngập tràn hình ảnh cái chết, bệnh hoạn, tâm thần, loạn trí… Văn phong hoang vắng, cằn cỗi, khô khan… sự cự tuyệt một cách kiên định của các tác giả khi bình luận về hành động của nhân vật… đã được Lỗ Tấn tiếp thu và thể hiện trong nhiều truyện ngắn của mình. Ví dụ như hình ảnh, không khí rùng rợn trong Thuốc, đây là câu chuyện thấm đẫm chủ nghĩa tượng trưng, từ máu của kẻ tử tù đến con quạ ở kết thúc, giống với hình ảnh con diều hâu kết thúc Moby Dick, là một biểu tượng vô thức của sự áp đặt của con người lên thiên nhiên. Lỗ Tấn đan dệt khéo léo hai chủ đề song song của tình trạng bệnh hoạn về tinh thần và cơ thể bệnh hoạn qua phương thuốc lạc hậu mê tín. Tâm trạng buồn bã, bi quan trong Lễ cầu phúc, Con người cô độc… Đó là lý do mà nhà nghiên cứu Hạ Tế An đã nhận xét về văn phong Lỗ Tấn: “Lỗ Tấn là một thiên tài bệnh hoạn… trong tác phẩm của ông, hy vọng và linh cảm cùng tồn tại với tối tăm. Xem ra Lỗ Tấn rất giỏi mô tả sự chết chóc… Tang ma, nghĩa địa, hành hình, nhất là chém đầu, lại còn cả ốm đau, bệnh tật, những đề mục ấy đều thu hút trí tưởng tượng sáng tạo của ông” (8)

 

Semanov cho rằng việc Lỗ Tấn thích Andreyev là một điều thú vị và lạ lùng, vì ở Nga, nhà văn này không được ưa thích lắm. Có lẽ Lỗ Tấn cảm thấy khuynh hướng bi quan của Andreyev thích hợp với việc miêu tả tình cảnh một nước Trung Quốc “không có lối ra”.

 

 

5.Tử Quân trong Tiếc thương những ngày đã mất: là một sự “tiếp bút” của nhân vât Nora trong vở kịch Ngôi nhà búp bê của Henrik Ibsen (1828-1906), nhà viết kịch nổi tiếng người Na Uy. Ngôi nhà búp bê là vở diễn thứ 16 của ông, được xem là thành công nhất. Vở kịch đã gây tiếng vang rất rộng rãi thời bấy giờ, tạo nên môt sự rung động mãnh liệt khi công diễn; Huneker nhận xét: “Âm thanh dội lại của cánh cửa bị đẩy ra (của Nora) đã vượt lên mái nhà của thế giới” (9). Vở kịch đã làm một cuộc du lịch ngoạn mục, vượt biên giới Na Uy, sang các nước như Đức, Ý Pháp, Mỹ…

 

Ngôi nhà búp bê khi sang Trung Quốc được dịch là Gia đình búp bê. Vở kịch này được người Trung Quốc diễn và gây chấn động không nhỏ đối với thanh niên Trung Quốc thế hệ mới lúc bấy giờ. Trong bộ tiểu thuyết Gia đình (1931), Ba Kim có nhắc đến chuyện vở kịch này khi công diễn được hoan nghênh nhiệt liệt ra sao, và thanh niên nam nữ đua nhau học theo tinh thần của vở kịch, là thoát khỏi cái lồng ràng buộc của gia đình phong kiến, tìm tự do. Tư tưởng của vở kịch, theo quan điểm của Ibsen về sự hòa hợp tinh thần của hai thành viên quan trọng nhất trong gia đình, về trách nhiệm đối với bản thân… đã thay đổi do tình hình xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Xã hội Trung Quốc thời sau Ngũ Tứ đang yêu cầu thay đổi, cải cách quyền con người, đặc biệt là vị trí của người phụ nữ trong xã hội. Vở kịch đã đánh đúng tâm lý, tư tưởng người Trung Quốc, vì vậy mà nó được tán thưởng, trước hết là ở tính xã hội của nó.

 

Nhưng cứ đua nhau đòi thoát ly gia đình mà không chuẩn bị cho bản thân một hành trang sự nghiệp, kinh tế nhất định, hay xã hội chỉ hô hào đổi mới về hình thức mà không tạo cho người phụ nữ một vị trí độc lập nào về kinh tế thì hoàn toàn vô ích, cũng chỉ là từ một cái lồng này sang một cái lồng khác mà thôi. Đứng trước tình hình đó, Lỗ Tấn đã bức xúc viết một bài tạp văn có tựa là Nora đi rồi thì ra sao? (1923). Trong đó ông phân tích, Nora ra đi không nghề nghiệp, không tiền bạc, thì chỉ có hai con đường, hoặc là truỵ lạc, vào nhà thổ, hoặc là chết đói. Ông nhấn mạnh: “để chuẩn bị đừng làm con búp bê, thì trong xã hội hiện nay, điều quan trọng bậc nhất là phải có quyền kinh tế. Một là, trong nhà trước hết phải giành cho được sự phân phối bình quân giữa con trai và con gái; hai là, ngoài xã hội, phải giành cho được thế lực ngang nhau giữa nam và nữ.” (10)

 

 Chừng như chưa hài lòng với bài tạp văn này, và để làm rõ hơn quan điểm mà mình kêu gọi phụ nữ Trung Quốc nhìn ra thực chất của vấn đề giải phóng phụ nữ, Lỗ Tấn đã viết Tiếc thương những ngày đã mất (nguyên tác Thương thệ) không lâu sau đó (1924). Trong truyện ngắn này, Lỗ Tấn đã đề cập đến khá nhiều vấn đề mang tính thời đại: đặc điểm và vai trò người trí thức trong cơn biến động của quá trình lột xác của một nước Trung Hoa muốn đổi thay để hiện đại hơn, tiến bộ hơn; vị trí và yêu cầu của người phụ nữ đòi hỏi được nhìn nhận khác với trước đó… Không chỉ là những vấn đề có tính thời đại, Lỗ Tấn còn đưa ra những vấn đề có tính muôn thuở, vĩnh cửu: tình yêu nam-nữ, trách nhiệm của từng thành viên trong tình yêu, trong gia đình, trách nhiệm của cá nhân đối với bản thân. Tiếc thương… được xem như một tác phẩm “tiếp bút” của Ngôi nhà búp bê.

 

Khi phân tích “bi kịch tình yêu” tan vỡ giữa Tử Quân và Quyên Sinh, chúng ta thấy rằng Tử Quân là một hình tượng trí thức “sống thừa” trong truyện ngắn Lỗ Tấn. Qua đó ông cho thấy nguyên nhân xã hội và đặc biệt là nguyên nhân nội tại trong bi kịch cuộc đời họ. Tử Quân là một thành viên trong xã hội mà ở đó con người vừa là nạn nhân- bị tha hóa trên con đường phát triển của chính mình, vừa là thủ phạm gây ra bi kịch cho mình mà không hề ý thức được. Cô muốn vươn lên, tách khỏi, thoát ly những định kiến xã hội để sống đúng với bản chất, nguyện vọng chính đáng của mình. Cô không bằng lòng với hiện thực nhưng cách chống đối của cô là thoát ly gia đình, lao vào một cuộc sống gia đình khác cũng chật hẹp và giam cầm như vậy mà thôi. Cũng giống như Nora, ở nhà là con búp bê của cha, về nhà chồng là búp bê của chồng. Lý tưởng của cô thiếu phương hướng cụ thể, và đặc biệt là Tử Quân không còn dũng khí và lòng quyết tâm để theo đuổi đến cùng. Tử Quân và Nora đều là nạn nhân của xã hội, nhưng họ cũng là thủ phạm của chính mình. Họ tự giam mình trong cái lồng son tù túng đó. Nora thì hết lòng vì chồng con quên cả bạn bè, Tử Quân thì suốt ngày chúi mũi vô chuyện cơm nước, chăn nuôi, cãi cọ với chủ nhà… Tử Quân và Nora đều muốn thoát ly gia đình ra xã hội, với yêu cầu tự do phát triển như một thành viên độc lập và hữu trách. Đó là quá trình “người trí thức bung mình khỏi nề nếp tư duy cổ truyền” (11), nhưng vấn đề chưa hẳn đã được giải quyết vì họ không có một chút địa vị kinh tế độc lập nào, thì con đường phát triển không thể rộng thênh thang. Nếu trong Ngôi nhà búp bê, Nora bỏ nhà đi, câu chuyện kết thúc, sân khấu hạ màn, thì vận mệnh bi thảm của Tử Quân sau khi ra đi xây dựng một gia đình mới đã nói rõ cho chúng ta, cho thanh niên trí thức tiểu tư sản thời đó mọi sự thật cay đắng. Nói Lỗ Tấn “tiếp bút” cho chỗ “dừng bút” của Ibsen chính là vì vậy.

 

Lỗ Tấn cũng là người nhìn thấy khía cạnh vĩnh cửu trong Ngôi nhà búp bê của Ibsen, đó là cách chiếu ứng quan hệ người- người, mà ở đây là trong tình yêu- trong vấn đề quan niệm trách nhiệm của hai thành viên trong gia đình với nhau và với bản thân. Ở đây, quan niệm về hôn nhân của Lỗ Tấn và Ibsen khá giống nhau. Trong một cuộc sống chung, cần trách nhiệm vun đắp của cả hai thành viên để cùng phát triển, hòa hợp với nhau.

 

Nora ra đời năm 1879, Tử Quân năm 1924, hai người phụ nữ này cách nhau 45 năm. Vấn đề mà hai xã hội Na Uy và Trung Quốc đối mặt cũng khá trùng hợp- đó là yêu cầu đánh giá và trân trọng vị trí đích thực của người phụ nữ- môt tiêu chuẩn đo lường mức độ văn minh phát triển của một xã hội hiện đại. Đồng thời, qua số phận hai nhân vật này, chúng ta thấy rằng Ibsen và Lỗ Tấn đều đưa ra những vấn đề không cũ: quan niệm của con người về một tình yêu, một cuộc hôn nhân, một gia đình đúng nghĩa; về trách nhiệm cao cả đối với bản thân trước khi bước vào đời; về ý thức xây dựng và vun đắp cho cuộc sống chung vững bền, sâu đậm…

 

Không chỉ có ảnh hưởng ở Lỗ Tấn, nhân vật Nora trong kịch của Ibsen còn được chuyển hóa trong văn học Trung Quốc hiện đại bằng cách sử dụng lý thuyết về người nữ anh hùng phiêu lưu kiểu như người nữ anh hùng của Carol Pearson và Katherine Pope ở Mỹ và trong văn học Anh như Maureen Murdock … để miêu tả tiến trình tự do, độc lập, tự giải phóng của phụ nữ trong thời kỳ Ngũ Tứ. Bằng cách áp dụng lý thuyết Nora như là một mô típ huyền thoại, chúng ta có thể thấy những nhà văn Trung Hoa áp dụng mẫu nữ anh hùng phương Tây vào hoàn cảnh chính trị và xã hội Trung Quốc. Có thể kể tiêu biểu là các nữ nhân vật khác như Mỹ trong Cầu vồng của Mao Thuẫn: rời bỏ gia đình đi tìm sự tự do bằng cách tham gia những hoạt động xã hôị, nhưng điều này mâu thuẫn với nhận định, đánh giá của xã hội, vì vậy hành động anh hùng của họ rốt cuộc cũng thất bại; Nhật ký của Sophie của Đinh Linh miêu tả một người phụ nữ đấu tranh giữa tình yêu và giới tính…

 

 

 

 

 

V.KẾT LUẬN.

 

1.Qua những dẫn chứng cụ thể trên đây, chúng ta thấy rằng ảnh hưởng của văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Nga, khá rõ nét trong các tác phẩm Lỗ Tấn. Điều đó xác nhận một thực tế: Trung Quốc giai đoạn này là một đất nước đã mở cửa đón nhận (dù miễn cưỡng hay tự nguyện) luồng văn hóa phương Tây. Những trí thức giao thời như Lỗ Tấn, được đào tạo ở cả hai giai đoạn cũ và mới của giáo dục Trung Quốc đã ý thức về việc tiếp thu cái mới, cái hay của nước ngoài (điều này sẽ không bao giờ xảy ra ở cách đó chừng 30 năm). Tuy nhiên cũng thấy rằng việc vận dụng và tiếp thu phương Tây của Lỗ Tấn (cả về tư tưởng lẫn văn học) là một quá trình có chọn lọc và có mục đích.

 

 2.Vận dụng rõ ràng nhất của Lỗ Tấn đó là những mô týp trong văn học phương Tây nói về con người nổi loạn, người điên để kết án xã hội. Nó bắt nguồn từ việc đồng cảm của cá nhân Lỗ Tấn – một con người luôn có tâm thức cô đơn, không ai hiểu mình nhưng lại ý thức rất rõ về trách nhiệm của mình, nó phù hợp với việc chọn lựa mô týp người điên, bệnh tâm thần của văn họ phương Tây. Cũng giống như vậy, là không khí, tình điệu u buồn, bi quan của các tác giả phương Tây trong các tác phẩm của họ cũng được Lỗ Tấn tiếp thu đưa vào trong tác phẩm của ông. Có điều, Lỗ Tấn không hề bị bệnh tâm thần như Gôgol, Garshin, không sống lưu vong bỏ Tổ quốc như Andreev, Gogol… Lỗ Tấn không hề gắn cảm thức bi quan của cá nhân mình vào tác phẩm như những nhà văn đó mà ông nhìn về một xã hội Trung Quốc bi quan. Có thể thấy Lỗ Tấn tỉnh táo hơn họ, âu đó cũng là bản tính của một trí thức phương Đông: lo cái lo trước thiên hạ, vui cái vui sau thiên hạ, ít nghĩ về bản thân mình (còn phương Tây tôn trọng con người cá nhân)

 

3. Và những điều đó, ít ra cũng làm cho tác phẩm Lỗ Tấn có ý nghĩa xã hội và trách nhiệm hơn.

 

 

 

CHÚ THÍCH

 

 

 

1.                           Lỗ Tấn toàn tập, tập 4, Bắc Kinh 1957, chuyển dẫn từ J.D.Chinnery. Ảnh hưởng của văn chương phương Tây đến Nhật ký người điên của Lỗ Tấn, Tập san Nghiên cứu Châu Phi và Phương Đông, trường Đại học London, Vol 23, số 2, 1960 (Bản tiếng Anh).

 

2.                           Chuyển dẫn từ William A. Lyell, Lu Hsun’s vision of reality (Cái nhìn về hiện thực của Lỗ Tấn), Berkeley: Nxb ĐH California, 1976

 

3.                           Phụ lục truyện dịch Trong sương mù ảm đạm do Lỗ Tấn dịch trong Tuyển tập truyện dịch hiện đại, Lỗ Tấn toàn tập, q.11,tr. 260.

 

4.                           Lỗ Tấn toàn tập, q.16.

 

5.                           Dịch từ Red flower of the madman- Garshine.

 

6.                           Bản dịch Truyện ngắn Lỗ Tấn của Trương Chính, NXB Văn hóa 1994- Tất cả những trích dẫn truyện ngắn của Lỗ Tấn đều được NV sử dụng từ bản dịch này.

 

7.                           Lỗ Tấn toàn tập, q. 6.

 

8.                           Hạ Tế An, Mặt tối tăm trong sáng tác của Lỗ Tấn- ĐH Michigan?.

 

9.                           Introduction in Six Plays by H.Ibsen, Modern Library College Editions, NY. 1978.

 

10.                      Tạp văn Lỗ Tấn, Trương Chính dịch, NXB Giáo dục 1998.

 

11.                      Hemmer (Bjorn), Nhà soạn kịch Henrik Ibsen nổi tiếng của Na Uy, TCVH số 12.1997, tr.19.

 

 

 

KHÁI QUÁT VỀ MỘT SỐ NHÀ VĂN NƯỚC NGOÀI CÓ TRONG BÀI VIẾT

 

 

 

1.Vsevolod Mikhailovich GarshinE (1855-1888) là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế hệ những năm 70 thế kỷ XIX. Sinh ngày 2 tháng 2 năm 1855 trong một gia đình quý tộc. Thuở thơ ấu không có nhiều kỷ niệm vui, từ nhỏ đã có cái nhìn u ám đối với cuộc đời. Bảy tuổi đọc Nhà thờ Đức Bà Paris của V.Hugo, và 20 năm sau đọc lại ông cho rằng không tìm thấy gì mới hơn trong đó. Học xong trung học ở Petersburg, vào trường đại học mỏ. Tình nguyện tham gia chiến tranh ở Serbia (1877), bị thương và giải ngũ. Học dự thính ngành ngữ văn ở Đại học Tổng hợp Petersburg nửa năm, sau đó hoàn toàn tập trung vào hoạt động văn chương.

 

Garshine bắt đầu sáng tác khi còn trong quân ngũ. Tác phẩm đầu tay Bốn ngày được đăng trên “Bút ký Tổ quốc” năm 1877 và lập tức gây chú ý. Sau đó là các truyện Sự cố, Thằng hèn, Cuộc gặp gỡ, Những nghệ sĩ (đều đăng ở “Bút ký Tổ Quốc”), chúng đã khẳng định danh tiếng của nhà văn trẻ, hứa hẹn một tương lai tươi sáng. Tuy nhiên, đời sống tinh thần của ông ngày càng ảm đạm và vào đầu năm 1880 bắt đầu có những dấu hiệu rối loạn tâm thần. Ban đầu biểu hiện của nó lẫn lộn giữa trạng thái hưng phấn sáng tạo với sự mất trí. Nhưng sau đó những rối loạn trở nên nghiêm trọng đến nỗi gia đình phải đưa ông vào bệnh viện tâm thần ở Kharkov. Sau đó một thời gian, ông hầu như khỏi bệnh, làm việc cho một nhà máy sản xuất giấy, rồi ở ngành đường sắt (để có thu nhập ngoài hoạt động văn học), lấy vợ. Đến đầu 1887, những triệu chứng bệnh lại xuất hiện, bệnh phát triển nhanh. Ngày 24 tháng 3 năm 1888, Garshine qua đời do nhảy từ tầng 4 xuống đất năm ngày trước đó.

 

Sáng tác của Garshine thể hiện những xung đột tinh thần sâu sắc của những năm 70 thế kỷ XIX ở Nga. Tác phẩm Bốn ngày nói về cuộc chiến tranh mà bản thân Garshin tham gia. Ông ra mặt trận với tinh thần tình nguyện giúp những người anh em Serbia thoát khỏi ách đô hộ Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng chỉ cần tiếp xúc với chiến tranh một lần là đủ để ông hiểu nỗi khủng khiếp khi con người chém giết lẫn nhau. Tác phẩm Thằng hèn cũng được viết với tinh thần phản đối chiến tranh. Tác phẩm Những nghệ sĩ thông qua hình tượng nhân vật họa sĩ Ryabinin chỉ ra rằng con người với tâm hồn tinh tế, đạo đức thanh sạch không thể bình thản vui niềm vui sáng tạo khi xung quanh còn có quá nhiều đau khổ. Khát vọng tiêu diệt cái ác, cái giả trá trên thế giới được thể hiện trong truyện Hoa đỏ, một tác phẩm bán tự truyện, bởi Garshine trong cơn bệnh tâm thần của mình cũng đã mơ ước có thể tức thì tiêu diệt cái ác trên thế gian. Nhưng là một kẻ bi quan u buồn, Garshin không tin vào chiến thắng của cái thiện, không tin rằng chiến thắng cái ác có thể đem đến sự cân bằng về tinh thần, càng không đem đến hạnh phúc. Thậm chí trong một truyện gần như mang tính hài hước Điều chưa từng có, những tranh luận của lũ côn trùng tụ tập nhau trên bãi cỏ bàn về lẽ sống trên đời đã kết thúc bằng việc một người đánh xe đi đến và bằng đôi ủng to tướng của mình xéo chết hết những kẻ tham gia tranh luận. Những trang sách hay nhất của Garshine vừa đầy tâm trạng u buồn đau xót, vừa là bức tranh hiện thực sống động (ví dụ bức tranh mô tả bệnh viện tâm thần cụ thể đến từng chi tiết trong Hoa đỏ).

 

Tác phẩm của Garshine không nhiều, khoảng chục truyện, nhưng chúng đã khiến ông trở thành một trong những bậc thầy văn xuôi của Nga.

 

 

2.MIKHAIL PETROVICH ARTSYBASHEV (1878-1927): nhà văn viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Truyện đầu tay Tumanov viết về vụ tự tử của một thiếu niên, xuất bản năm 1901. Truyện ngắn tiếp theo có tên Sự khủng khiếp (1903) mô tả một vụ cưỡng bức một cách cụ thể, chi tiết. Chủ đề tự tử, giết người, tử hình… chiếm vị trí chủ đạo trong tác phẩm của ông. Chịu ảnh hưởng của Dostoevsky. Tiểu thuyết của ông là sự thông tục hóa các chủ đề, nhân vật, hình tượng do những bậc đàn anh vĩ đại (Turgenev, Dostoevsky, Tolstoy) tạo nên, nhưng ông làm một cách tài năng, khéo léo.

 

Sau cách mạng 1917 ông sống lưu vong, nhưng không sáng tác được nữa.

 

 

 

3.NIKOLAY VASILYEVICH GOGOL: (1809-1852): nhà văn, nhà viết kịch châm biếm nổi tiếng của Nga sinh ra trong một gia đình địa chủ quý tộc trung lưu tỉnh Poltava thuộc Ucraina ngày nay. Thuở nhỏ sống ở nông thôn, gần gũi nhân dân. Năm 1828 sau khi tốt nghiệp trung học lên Peterburg tìm việc làm, ngày càng thất vọng trước tình trạng quan liêu đồi bại của nhà nước. Từ năm 1831 kết thân với Pushkin và chịu ảnh hưởng của Pushkin rất nhiều. Làm nghề dạy học ở Peterburg. Bắt đầu nổi tiếng với chùm truyện Những buổi tối trong một thôn gần vùng Đikinka (1831-1832). Sau đó là một loạt tác phẩm: Tarax Bunba (ảnh hưởng của Walter Scott), chùm truyện về Peterburg như Bức chân dung, Nhật ký người điên, Cái mũi, Chiếc áo khoác, vở hài kịch Quan thanh tra…Năm 1842 xuất bản bộ tiểu thuyết nổi tiếng Những linh hồn chết  làm chấn đông nước Nga. Nhân vật chính là Pavel Ivanovich Chichikov, một người đi mua “những linh hồn chết”. Tác phẩm miêu tả toàn cảnh nước Nga đương thời, kết hợp câu chuyện mua và bán nông nô, lên án tình trạng quan liêu thối nát của nhà nước chuyên chế. Hình tượng nước Nga như cỗ xe tam mã lao về phía trước nhưng không biết đi về đâu…

 

            Nhật ký người điên là truyện ngắn viết về một nhân viên văn phòng (một Vụ bàn giấy nào đó) bị bệnh loạn thần kinh và một ngày kia cho rằng mình là vua nước Tây Ban Nha. Thông qua những trang nhật ký của người này, tác giả  lên án xã hội thối nát và chuyên chế của nước Nga.

 

Sau đó Gogol sống ở nước ngoài (Tây Âu, Đức, Pháp, và cuối cùng định cư ở Ý), tinh thần buồn bã cô đơn nên ông lâm vào tình trạng khủng hoảng tư tưởng. Nhà văn công khai phủ định tác phẩm của mình, bảo vệ chế độ quân chủ và giai cấp quí tộc. Mười ngày trước khi mất, ông đốt bản thảo Những linh hồn chết tập 2, lên cơn điên, tuyệt thực…Ông qua đời tại Matscơva.

 

Gogol là một trong những nhà văn bậc nhất của nước Nga. “Đã lâu trên thế giới không có nhà văn nào lại quan trọng đối với nhân dân nước mình như Gogol đối với nước Nga” (Tscnusevsky). Tiếp theo Pushkin, ông đặt nền móng vững chắc cho chủ nghĩa hiện thực Nga, có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của văn học Nga.

 

 

 

4.HENRIK IBSEN (1828- 1906): là nhà viết kịch nổi tiếng người Na Uy. đại biểu chính của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Ông bắt đầu viết kịch từ năm 1849 khi mới 21 tuổi với vở kịch đầu tiên là Catiline lấy bút danh là Brynjolf Bjarme. Nhưng phải đến năm 1856 ông mới nổi tiếng với vở Hội hè ở Solhaug (vở thứ 6). Ong viết khoảng 26 vở kịch. Vở cuối cùng là vào năm 1899 có tên Khi người chết thức dậy. Ngoài ra ông còn môt số vở khá nổi tiếng như: Bóng ma, Kẻ thù của nhân loại, Người đàn bà của biển cả…

 

Ngôi nhà búp bê là vở diễn thứ 16 của ông, được xem là thành công nhất.

 

Nora trong Ngôi nhà búp bê là một nhân vật nữ tiến bộ, ý thức được vai trò “búp bê” của mình torng gia đình nên đã ra đi tự giáo dục mình hoàn thiện có khả năng đương đầu độc lập với cuộc đời.

 

Ibsen thuộc thế hệ các nhà soạn kịch lớn châu Au nửa cuối thế kỷ XIX. Cống hiến của ông là ở thái độ triệt để phê phán xã hội đương thời và ở những cách tân ghệ thuật sân khấu: hình thức kịch phân tích mới, kỹ thuật hồi quang, kết cấu chặt chẽ, đối thoại sắc bén… có ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà soạn kịch sau này.

 

 

 

5.LEONID ANDREYEV(1871-1919): từ nhỏ đã say mê văn học và đọc sách, thích Tolstoy, Schopenhauer…có ảnh hưởng mạnh tới việc hình thành cảm quan thế giới đầy tính bi kịch của ông. Bắt đầu sự nghiệp văn học năm 1897 sau khi học Luật và là luật sư.  Thời kỳ đầu, ông viết những truyện ngắn theo truyền thống của những nhà văn thế hệ những năm 60 của thế kỷ XIX với phương châm “sự thật không tô vẽ”: Petka ở nhà nghỉ, Thiên thần nhỏ bé…Đến đầu thế kỷ XX làm quen với Gorky và gia nhập hàng ngũ những nhà văn hiện thực. Gorky vừa là bạn, nhà phê bình và phát hiện ra tài năng kiệt xuất của ông. Trước cách mạng 1905 trong sáng tác của Andreyev có khuynh hướng nổi loạn, những con người không cam chịu số phận và sự áp đặt của luận lệ, tôn giáo…

 

Nụ cười đỏ là tác phẩm chống chiến tranh Nga- Nhật, trung tâm kết cấu là tâm thức bệnh hoạn ảo giác của người tham gia vào cuộc chiến đẫm máu đó. Sau khi vợ ông chết, Andreyev rơi vào trạng thái trầm uất, sự thất vọng, nỗi hoài nghi về giá trị của cá nhân và “đám đông” tạo thành âm hưởng chủ đạo trong sáng tác của ông. Ông hay kết án đám đông ví dụ như truyện Juda và những người khác… Truyện Eliazar là môt kiệt tác  của văn học thế giới về cái chết.

 

Nghệ thuật truyện ngắn của Andreyev cố gắng thoát khỏi chủ nghĩa hiện thực cổ điển  mà ông gọi là “chủ nghĩa hiện thực giáo điều”, những cách tân của ông lớn đến mức ngay những nhà tượng trưng chủ nghĩa cũng không chấp nhận nổi. Có thể thấy kinh nghiệm sáng tác của ông có liên quan đến sự hình thành của chủ nghĩa ấn tượng đầu thế kỷ XX.

 

Cuối đời, ông rời bỏ nước Nga sang sống ở Phần Lan trong cảnh lưu vong (sau 1917). Tại đó ông xảm thấy mình bị xua đuổi ba lần: bị đuổi khỏi nhà, đuổi khỏi Tổ quốc và khỏi nghệ thuật.

 

 

 

THƯ MỤC THAM KHẢO

 

 

 

TIẾNG VIỆT

 

1.      Tạp văn Lỗ Tấn, Trương Chính dịch, NXB Giáo dục 1998.

 

2.      Truyện ngắn Lỗ Tấn, Trương Chính dịch, NXB Văn hóa 1994.

 

3.      Hemmer (Bjorn), Nhà soạn kịch Henrik Ibsen nổi tiếng của Na Uy, TCVH số 12.1997, tr.19.

 

4.      Hạ Tế An, Mặt tối tăm trong sáng tác của Lỗ Tấn- ĐH Michigan?, chuyển dẫn từ Lương Duy Thứ, Lỗ Tấn, Tác phẩm và tư liệu, NXB Giáo dục 1997.

 

 

 

TIẾNG ANH.

 

1.      Introduction in Henrik Ibsen, Six Plays by H.Ibsen, Modern Library College Editions, NY. 1978

 

2.      Garshine, Red flower of the madman.

 

3.      J.D.Chinnery, Ảnh hưởng của văn chương phương Tây đến Nhật ký người điên của Lỗ Tấn, Tập san Nghiên cứu Châu Phi và Phương Đông, trường ĐH London, Vol 23, số 2, 1960 (Bản tiếng Anh).

 

1.      William A. Lyell, Lu Hsun’s vision of reality (Cái nhìn về hiện thực của Lỗ Tấn), Berkeley: Nxb ĐH California, 1976.