Tiểu thuyết, truyện ngắn trên báo chí Sài Gòn giai đoạn 1945 - 1954

In bài này

Hoạt động sáng tác văn học sôi nổi ở Sài Gòn giai đoạn 1945 - 1954 có một phần đóng góp không nhỏ của báo chí. Từ góc nhìn phê bình xã hội học, kênh phổ biến của tác phẩm văn học là một trong những yếu tố chi phối quá trình sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm, và có khi chi phối cả những yếu tố thuộc văn bản tác phẩm. Bài viết này phân tích tính xã hội của truyện đăng trên một số tờ báo ở Sài Gòn giai đoạn 1945 - 1954, cụ thể là Tân Việt Nam (1945), Nguồn sáng (1948),Việt báo (1949), Thế giới (1949), Mới (1952 - 1953), Đời mới (1952 - 1954), Nhân loại (1953 - 1954), và Thẩm mĩ tuần báo (1952 - 1954).

 1. Tuy cùng là sản phẩm của công nghệ in ấn hàng loạt, tác phẩm văn học in sách và đăng báo vẫn có những điểm khác nhau. Cái khác nhau căn bản giữa hai đối tượng này là truyện đăng trên báo chí gắn liền với hoạt động kinh doanh thông tin - một đặc tính quan trọng của báo chí. Xét ở khía cạnh này, văn chương đăng báo là công cụ hút khách, từ đó đem lại thu nhập - cho báo, nhưng ngược lại chính báo chí đã đem đến cho tác phẩm văn học đăng báo lượng người đọc tiềm năng lớn hơn nhiều và đa dạng hơn nhiều so với sách in. Thể loại văn học trên báo chí quốc ngữ nói chung và báo chí Sài Gòn 1945 - 1954 nói riêng tiêu biểu trong việc làm nhiệm vụ giữ chân độc giả là tiểu thuyết feuilleton, một kiểu tiểu thuyết dài kì đăng báo. Trần Nhật Vy đã gọi feuilleton là “đặc sản của báo chí quốc ngữ thời xưa”(1). Tác giả viết truyện được trả lương tháng, và nhiều tờ báo mướn những nhà văn có tên tuổi viết riêng cho báo mình để câu khách. Phú Đức, tác giả feuilleton nổi tiếng từ trước 1945 đến giai đoạn 1945 - 1954 vẫn là một tác giả ăn khách, mà theo như người cùng thời khẳng định thì ông là nhà văn “kiếm nhiều tiền nhứt làng báo Sài Gòn”(2). Bên cạnh đó còn có rất nhiều những feuilleton khác, có khi đăng đến hơn 40, 50 tuần báo, tức cả năm trời vẫn chưa kết thúc như Trôi giạt của Vĩnh Lộc, Xương máu Phiên Ngung của Cửu Lang… Truyện ngắn cũng có lúc đóng vai trò giữ chân độc giả như feuilleton khi có một tác giả ăn khách nào đó viết thường xuyên cho chuyên mục đó, chẳng hạn như mục Tiêu khiển trên báo Đời mới (1952) mỗi tuần đăng một truyện trinh thám của Thiên Giang, hoặc truyện gây cười nhằm mục đích giải trí thuần túy của các tác giả khác. Báo Đời mới có rất nhiều cây bút thân thiết cho mục truyện ngắn, như Trần Phương Như, Vĩnh Lộc, Văn Hoà…

Vì là thành tố của hoạt động kinh doanh thông tin nên truyện đăng trên báo chí phải đáp ứng một số yêu cầu của hoạt động kinh doanh đó. Thứ nhất, tính tức thời. Viết văn đăng báo, đặc biệt là feuilleton, không thể nghiền ngẫm, dồn nén năm này qua tháng nọ như viết sách, cũng không để đợi có hứng mới làm việc, mà cứ đến hẹn lại lên. Thứ hai, tính tương tác. Người đọc tiếp nhận tác phẩm ngay trong quá trình nó được sáng tạo ra, và đôi khi có khả năng chi phối quá trình sáng tạo đó. Độc giả có thể gửi thư tới toà soạn thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của mình với tác phẩm hoặc tác giả nào đó. Điều này có thể tác động trực tiếp tới hợp đồng giữa tác giả và toà soạn báo, hoặc quyết định một tiểu thuyết feuilleton có được viết, đăng tiếp nữa hay không. Đất dậy sóng của Hoàng Thu Đông chỉ đăng được 8 kì thì dừng lại không rõ lí do, dù ở cuối kì 8 vẫn ghi là “còn nữa”, Chúa đảo trả thù của Long Mĩ Nhân cũng dang dở ở kì 48, Xương máu Phiên Ngung dừng ở kì 33. Tương tác giữa tác giả và độc giả về một tác phẩm cụ thể có lúc được đăng công khai trên báo để rộng đường dư luận. Đời mới đăng các bức thư trao đổi qua lại giữa độc giả Nguyễn Đức Hồ và tác giả Giang Tân về feuilleton Ngày mai đã muộn rồi đăng trên tuần báo này. Nguyễn Đức Hồ giật tít bài viết của mình “Giáo dục sinh lí khác với khiêu dâm”, trong đó ông trao đổi với tác giả Giang Tân đại ý rằng tác phẩm gợi dục nhiều hơn là giáo dục, vì những đoạn mô tả các hành vi tò mò sinh lí giới tính của những đứa trẻ quá sinh động. Giang Tân đáp lời, giải thích rằng giáo dục bằng văn học không thể giáo điều, mà phải mô tả sao cho có tính văn học, chi tiết và logic(3). Thứ ba, tính thời sự. Truyện ngắn Vui sướng gì? của Lê Hương đăng trên Thế giới tháng 11 năm 1949, lấy ý tưởng từ sự kiện bố ráp diễn ra ở rạp Trung ương Hí viện Sài Gòn. Tuy nhiên, đa số tác phẩm có tính thời sự đều được thể hiện một cách chung chung. Các nhà văn, nhà báo không thể viết về chiến tranh chống Pháp một cách cụ thể, đặc biệt là từ sau 1950, vì chính quyền Pháp kiểm soát báo chí giai đoạn này gắt gao hơn thời kì 1945 - 1949. Thứ tư, tính ngắn gọn, súc tích. Văn chương đăng báo ngắn gọn hơn, đơn giản hơn văn chương in sách, do khuôn khổ hạn hẹp của tờ báo. Điều này dẫn đến việc có nhiều báo đăng các truyện ngắn vụn vặt, chất lượng kém. Sự “yếu kém” này có thể là do nhu cầu “lấp cột báo” vốn xảy ra thường xuyên khi báo đến kì mà chưa có bài buộc ban biên tập phải “đăng đại” những truyện ngắn theo kiểu “được chăng hay chớ”. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những truyện ngắn hay nói được những vấn đề nhân sinh rộng lớn bằng sự tinh tế tài hoa trong văn chương (Người khách đường rừng của Xuân Khai, Gánh hàng rau của Ái Lan…).

2. Theo khảo sát của chúng tôi, trong số 352 tờ báo quốc ngữ ở Sài Gòn trước 1954 thì có đến 174 tờ báo thuộc giai đoạn 1945 - 1954, tức gần một nửa. Cần lưu ý đây là những tờ báo mà các thư viện biên mục được (tuy rất nhiều tờ chỉ còn thông tin biên mục chứ không còn báo), không phải là tất cả những tờ đã từng tồn tại. Mặc dù các số liệu trên chỉ giúp cung cấp một bức tranh liên tưởng chứ không cụ thể, chính xác về hoạt động tiêu thụ báo chí ở Nam Bộ giai đoạn 1945-1954, nhưng chúng ta có thể suy ra được vài nét về công chúng báo chí và công chúng văn học thời kì này. Người làm báo không chỉ viết báo để thoả mãn ý muốn của mình, mà họ chỉ có thể duy trì tờ báo khi đảm bảo được lượng người mua (trừ các báo nhận trợ cấp từ chính quyền). Hoạt động đấu tranh chính trị không phải chỉ là chuyện của giới kí giả, mà thông qua tin tức trên báo, nó còn tạo ra nhu cầu thông tin của độc giả về các hoạt động tranh đấu. Từ đó công chúng của truyện đăng báo lại hình thành thị hiếu, khuynh hướng thẩm mĩ hướng tới các tác phẩm có tính chất tranh đấu và bàn về những vấn đề xã hội. Điều này lí giải tại sao thể loại feuilleton thời này lại ít hẳn tính giải trí, tiêu khiển so với giai đoạn trước. Phần lớn feuilleton giai đoạn 1945 - 1954 mà tác giả bài viết này thu thập được lại nặng tính chính trị, xã hội, chẳng hạn như Cát trắng của Kiêm Minh, Ánh sáng đô thành của Vân Nga, Người nữ cứu thương của Hoàng Thơ, Xương máu Phiên Ngung của Cửu Lang… Có thể lí giải theo hai hướng: một là thị hiếu của độc giả thay đổi, tính giải trí, tiêu khiển của feuilleton phải dần thay thế bằng tính chính trị, xã hội thì mới thoả mãn được độc giả; hai là người làm báo xem trọng tính chính trị của tờ báo hơn độc giả của mình, muốn mượn công cụ văn chương để truyền bá và tác động vào tư tưởng của người đọc. Có thể có cả hai nguyên nhân, nhưng nguyên nhân thứ nhất vẫn có tính quyết định hơn, vì nếu người đọc đã không hứng thú gì với tờ báo và các feuilleton này thì việc tuyên truyền vô ích.

 Bên cạnh độc giả không chuyên, công chúng còn bao hàm các nhà phê bình văn học, thông qua những bài viết, ý kiến trao đổi có tác động vào văn chương nói chung, truyện đăng báo thời kì này nói riêng. Thiên Giang, Thê Húc, Thẩm Thệ Hà cùng thảo luận xung quanh vấn đề văn chương tranh đấu. Thẩm Thệ Hà khởi xướng và chất vấn về tính tranh đấu trong văn chương Việt Nam đương thời(4), Thiên Giang đề nghị người nghệ sĩ phải tham gia vào cuộc tranh đấu, làm nghệ sĩ tả chân xã hội (5), và Dương Tử Giang kêu gọi đào huyệt chôn các tác phẩm văn chương uỷ mị mới đăng báo vì cho rằng chúng làm lung lạc tinh thần tranh đấu (6). Mặt khác, các nhà lí luận, phê bình lật đi lật lại tính hai mặt của vấn đề, một mặt phải viết văn cho quần chúng hiểu, thích, “nương theo đại chúng”(7), “phụng sự nhân dân”(8), nhưng mặt khác phải định hướng quần chúng đến những giá trị chân, thiện, mĩ, tránh xa thị hiếu tầm thường vì “người nghệ sĩ chân chánh không lẽo đẽo theo sau quần chúng nhân dân” (9). Tất cả những ý kiến lí luận chung nêu trên đều tác động đến người cầm bút, trong đó có các tác giả viết cho báo.

Đối với các tác phẩm cụ thể mới xuất bản, thông thường giới phê bình hay tập trung vào sách hơn là truyện đăng báo. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp cá biệt tác giả có truyện đăng báo được mang ra phân tích để làm rõ một luận điểm lí luận nào đó, chẳng hạn như Phú Đức và Nam Đình Nguyễn Thế Phương. Trọng Yêm trong bài “Thời này là của Phú Đức, Nam Đình chăng?”(10) đã nêu lên tình trạng cả xã hội mê mẩn feuilleton của hai tiểu thuyết gia này, cho dù đa số là feuilleton đã cũ (Phú Đức đem đăng báo lại, còn Nam Đình in sách). Ông giải thích rằng điều này có nguyên nhân từ thị hiếu cũ kĩ của dân chúng và do chiến tranh kéo dài làm mọi người mất tinh thần, “mất tin tưởng vào ngày mai, ăn chơi trong ngày nay”. Trước đó, Phú Đức đã được “bêu tên” trong một bài viết của Tam Nhơn với tít báo hết sức gây chú ý “Phú Đức tiểu thuyết gia bổn cũ soạn lại”, trong đó có kể lại chuyện năm xưa Phú Đức tham tiền bỏ Trung lập báo sang viết cho Công luận báo trong lúc Trung lập đang đối mặt với khó khăn vì đăng bài bảo vệ hoạt động kinh doanh của người Việt. Tam Nhơn khiến độc giả nhận thức về thái độ chính trị của nhà văn, và cho thấy ngay cả một feuilleton thuần tuý giải trí vẫn có thể tác động vào công cuộc chính trị vì nó ảnh hưởng đến lựa chọn đọc báo của độc giả đại chúng.

Về tác phẩm cụ thể, chỉ có một vài truyện được phê bình riêng, vì đa phần các nhà phê bình tập trung vào sách in. Truyện ngắn Con thằn lằn chọn nghiệp của Hồ Hữu Tường đăng trên báo Mới số 26 đã thu hút được nhiều ý kiến phê bình. Đào Hữu Tường viết bài “Xin tha tội cho con thằn lằn” (11), cho rằng kết truyện của Hồ Hữu Tường có vẻ bất công. Phương Tiện Đạo Nhân (12) phân tích tác phẩm từ góc nhìn Phật pháp để bác ý kiến của ông Đào Hữu Tường.

3. Nhìn từ văn bản không phải là cách nhìn đối lập với cách nhìn xã hội, mà là xem tác phẩm là một cấu trúc chỉnh thể độc lập có mối liên hệ với xã hội. Theo lí thuyết cấu trúc phát sinh của nhà lí luận phê bình xã hội học Lucien Goldmann thì mỗi văn bản tác phẩm chứa đựng một cấu trúc hàm nghĩa nằm ngoài ý thức chủ quan của nhà văn, tương ứng với một cấu trúc xã hội của một nhóm xã hội mà nhà văn thuộc về, thể hiện thế giới quan không phải của nhà văn mà của nhóm xã hội đó.

Trong những tác phẩm được khảo sát, có hai mảng đề tài được các tác giả chọn viết nhiều nhất là đề tài tranh đấu yêu nước và đề tài đời sống đô thị. Viết về tranh đấu, các tác giả hoặc là kể về những chàng trai cô gái yêu nước thời hiện đại ra đi vì nghĩa lớn, những người ở lại, những người làm quốc sự đầy bí ẩn, cùng những nỗi đau và nét đẹp kiêu hùng của họ (Hận người tử sĩ của Hoàng Kim, Gánh hàng rau của Ái Lan, Làm lại cuộc đời của Hà Phương…), hoặc mượn những câu chuyện đời xưa để khơi dậy lòng yêu nước (Xương máu Phiên Ngung của Cửu Lang, Lão Tô của Tô Kiều Ngân…). Viết về đời sống đô thị, các nhà văn đặc biệt quan tâm đến số phận của các cô gái giang hồ (Ngày mai sẽ đến của Hoàng Thu Đông, Bóng tối của Văn Hoà…), sức tàn phá của xã hội đô thị xa hoa đối với thiên tính, lí tưởng của con người và sự trong trẻo của trẻ nhỏ (Hai cái chết của Cao Hữu Huấn, Ánh sáng đô thành của Vân Nga, Trôi giạt của Vĩnh Lộc, Bài giảng văn của Hợp Phố…), những mối lo tủn mủn tầm thường của con người tầm thường (Vui sướng gì của Lê Hương, Đôi vú sữa của Hợp Phố), những mối quan hệ xã hội phức tạp, chồng chéo giữa yêu thương và thù hận, giữa tốt đẹp và sa đọa, giữa tình nghĩa và phản trắc (Giết cha của Thiên Giang, Cây kiềng vàng của Cô Minh Đạt…), những rung động, cảm xúc tế vi của con người cá nhân (Sầu riêng của Linh Bảo, Bãi cỏ của Thụy An Hoàng Dân…).

Viết về chiến tranh và cách mạng, các tác phẩm vừa liệt kê ở trên thường xoáy vào những éo le trong tình yêu, bịn rịn ngày li biệt, người chiến sĩ mang vẻ đẹp kiêu hùng nhưng nhuốm màu u buồn. Điển tích Kinh Kha sang Tần được sử dụng khá nhiều, hoặc nếu không thì cũng là hình ảnh người chiến sĩ cách mạng cưỡi ngựa trên dặm đường rong ruổi và ghé bến sông trong chiều muộn trò chuyện với một ông lái đò, cũng là người có cảm tình với cách mạng. Quán nước ven đường thường là căn cứ liên lạc của cách mạng. Viết về xã hội đô thị, các nhà văn quan tâm đến những phận người bé nhỏ, trôi dạt như gái giang hồ, trí thức, thiếu nhi, dân nghèo thành thị, công nhân... nhưng các cô gái giang hồ đều là những cô gái xuất thân trong gia đình trung lưu, bản thân có học hành, và trong những chuỗi ngày trượt dài trong u tối vẫn trăn trở về đời mình, về nhân thế; các anh công nhân, dân nghèo thành thị nhìn đời như những người trí thức...

Xét từ khía cạnh văn bản, những ví dụ nói trên tạo ra một hệ thống cấu trúc hàm nghĩa chung mang tính chiến đấu. Đó có thể là chiến đấu một cách trực tiếp vì mục tiêu chính trị thống nhất đất nước và giải phóng dân tộc khỏi chế độ thực dân kiểu mới mà Pháp muốn xây dựng ở Nam Bộ thông qua các chính quyền tự trị bù nhìn. Ở mục tiêu xã hội, các tác giả khi kể các câu chuyện về đời sống đô thị đều không chỉ dừng lại ở việc mô tả đời sống của xã hội đó với những số phận bất hạnh, những mối quan hệ phức tạp, sự suy đồi của đạo đức, sự vụn vỡ của ước mơ… mà họ tả nó với cảm hứng muốn thay đổi hiện trạng đó. Thiên Giang khi phóng tác Anh em nhà Karamazov thành truyện Giết cha đã nhấn mạnh vào vấn đề đạo đức. Cô Minh Đạt viết Cây kiềng vàng kể về một gia đình tan vỡ vì thú sắc dục của người cha và những mưu mô toan tính của các thành viên trong nhà cũng nhằm chuyển tải bài học đạo lí. Tác giả còn viết rõ dụng ý này trong phần lời cuối truyện. Kiêm Minh, Vĩnh Lộc, Hoàng Thu Đông, Cao Hữu Huấn… viết về các cô gái giang hồ đều mở ra cho họ một con đường thay đổi số phận hoặc được cứu rỗi linh hồn, viết về người trí thức trẻ mất lí tưởng đều vô tình hay hữu ý hé cho họ một tia hi vọng. Như vậy, đây cũng là một hàm nghĩa chiến đấu trên khía cạnh xã hội của các nhà văn, dù có khi họ không chủ đích điều đó. Hàm nghĩa chiến đấu này thực hiện bằng cách đánh vào trái tim nhiều hơn khối óc. Cụ thể là viết về yêu nước và cách mạng thì các tác giả có xu hướng khơi gợi nỗi buồn nhiều hơn vinh quang, mô tả sự khốc liệt của hiện tại nhiều hơn hướng về hạnh phúc trong tương lai. Điều này hoàn toàn trái ngược với văn học cách mạng hiện thực xã hội chủ nghĩa về sau. Bàn về xã hội, các nhà văn làm cho độc giả mủi lòng với các nhân vật hơn là phân tích động cơ của họ. 

Cấu trúc hàm nghĩa khách quan nói trên có mối quan hệ tương quan đối ứng với cấu trúc của nhóm xã hội mà tác giả của nó thuộc về, đó là nhóm trí thức trong xã hội đô thị chịu sự quản lí của thực dân trong thời kì bùng nổ thông tin chính trị. Sài Gòn vốn là một đô thị thuộc địa với mâu thuẫn giai cấp giữa tư bản và công nhân, giữa thực dân và bản xứ, mâu thuẫn giàu nghèo, vấn đề bần cùng hoá trong xã hội, vấn đề tội phạm… Tính chất thuộc địa này xét về mặt bản chất vẫn tồn tại đến giai đoạn 1945 - 1954, vì tuy có chính quyền của người Việt nhưng những chính quyền này suốt thời kì này không có quyền tự quyết. Điểm khác biệt của giai đoạn này so với giai đoạn trước là hoạt động đấu tranh chính trị diễn ra công khai hơn, quyết liệt hơn. Một trong những hoạt động đấu tranh đáng chú ý của giới báo chí thời này là phong trào Báo chí thống nhất (10.1946) quy tụ nhiều tờ báo thời đó đấu tranh cho sự thống nhất ba kì và ủng hộ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Phong trào này bị chính quyền Nam Kì dập tắt năm 1947 bằng việc đóng cửa hàng loạt tờ báo, bắt bớ các nhà báo như Phan Văn Thiết, Vũ Tùng, Dương Tử Giang, Thiếu Sơn, thậm chí ám sát các nhà báo Nam Quốc Cang, Đinh Xuân Tiếu (1950).

Tóm lại, nhìn từ đặc trưng của báo chí, tác phẩm truyện đăng trên báo chí Sài Gòn giai đoạn 1945 - 1954 vừa mang đặc điểm chung của văn học hiện đại, vừa mang nét riêng của hoạt động kinh doanh thông tin. Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này, truyện đăng báo thể hiện tính chất xã hội rõ nét và đóng góp trực tiếp vào những hoạt động chính trị, xã hội đương thời.
N.T.P.T
----------

1. Trần Nhật Vy (2016), “Feuilleton - hàng độc của báo chí quốc ngữ thời xưa”, Tuổi Trẻ Online, http://tuoitre.vn/feuillton-hang-doc-cua-bao-chi-quoc-ngu-thoi-xua-1209955.htm
2. Tam Nhơn (1952), “Phú Đức - tiểu thuyết gia bổn cũ soạn lại”, Đời mới, số 1 (12-4-1952), tr. 54-55.
3. Đời mới, số 81, tr. 18-19, 30.
4. Thẩm Thệ Hà, “Xã hội Việt Nam có văn chương xã hội và văn chương tranh đấu chưa?”, Việt bút số 23.
5. Thiên Giang, “Vấn đề khách quan trong tư tưởng”, Tiếng chuông, số 22.
6. Dương Tử Giang (1949), “Tin văn”, Thế giới, số 5 (19-11-1949), tr. 2, 34.
7. Trần Văn Khê (1949), “Nhiệm vụ của một nhạc sĩ trong xã hội”, Việt báo, số 3 và 4 (29-5-1949), tr. 4-5.
8. Tô Duyên (1953), “Văn nghệ phụng sự”, Đời mới số 74 (27-8-1953), tr. 16-17, 32.
9. Thanh Lương (1953), “Văn nghệ sĩ, những tên nô lệ của thời cuộc?”, Đời mới, số 60 (23-5-1953), tr. 23.
10. Trọng Yêm (1953), “Lấy mắt người Việt xét việc xã hội: thời này là của Phú Đức, Nam Đình chăng?”, Đời mới, số 53 (4-4-1953), tr. 8, số 54 (11-4-1953), tr. 8.
11. Không rõ đăng trên báo nào, vì nó được tóm tắt lại trong bài phản biện của Phương Tiện Đạo Nhân.
12. Phương Tiện Đạo Nhân (1953), “Trả lời câu hỏi của Hồ Hữu Tường - Con thằn lằn đã chọn nghiệp”, Nhân loại, số 20 ngày 4-1-1953, tr. 10-11.

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 29.6.2018.