Tính xã hội của truyện đăng trên báo chí ở Sài Gòn giai đoạn 1945-1954

In bài này

20180723 SG 1954

Ảnh: Góc đường Catinat - Bonard (Đồng Khởi - Lê Lợi ngày nay) trước 1954 (Sưu tâm của Lê Hoan Hưng - Nguồn: Báo Thanh niên)

Hoạt động sáng tác văn học sôi nổi ở Sài Gòn giai đoạn 1945-1954 có một phần đóng góp không nhỏ của báo chí. Từ góc nhìn phê bình xã hội học, kênh phổ biến của tác phẩm văn học là một trong những yếu tố chi phối quá trình sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm, và có khi chi phối cả những yếu tố thuộc văn bản tác phẩm. Bài viết này phân tích tính xã hội của truyện đăng trên một số tờ báo ở Sài Gòn giai đoạn 1945-1954, cụ thể là Tân Việt Nam (1945), Nguồn sáng (1948), Việt báo (1949), Thế giới (1949), Mới (1952-1953), Đời mới (1952-1954), Nhân loại (1953-1954), và Thẩm mỹ tuần báo (1952-1954). Những số báo nói trên rải đều trong cả giai đoạn 1945-1954 và chuyên về văn học, nghệ thuật, xã hội, nên từ đó có thể khái quát một số đặc điểm của truyện đăng báo giai đoạn này.

1. Truyện đăng trên báo chí Sài Gòn 1945-1954 nhìn từ đặc trưng báo chí

Cùng là sản phẩm của công nghệ in ấn hàng loạt, tác phẩm văn học in sách và đăng báo vẫn có những điểm khác nhau. Cái khác nhau căn bản giữa hai đối tượng này là truyện đăng trên báo chí gắn liền với đặc tính của báo chí là hoạt động kinh doanh thông tin.

Báo chí không chỉ là công cụ phổ biến thông tin hàng loạt đến với đại chúng, nó còn là đơn vị kinh doanh thông tin. Trước khi báo chí ra đời vẫn có những hình thức thông tin khác nhau như thư từ, các loại công văn hành chính... nhưng rất giới hạn về mặt không gian và thời gian, và chỉ liên quan đến một số đối tượng cụ thể. Báo chí ra đời đã mở ra thời đại thông tin, vì nó không chỉ cải thiện tốc độ truyền tin, gia tăng lượng thông tin và lượng người nhận tin gấp hàng trăm, hàng ngàn lần so với những công cụ truyền tin trước đó, mà nó còn làm thay đổi nhận thức của mọi người về thông tin. Kể từ khi báo chí ra đời, mọi tầng lớp trong xã hội bắt đầu quan tâm đến thông tin trong thời đại mình sống ở mức độ rộng lớn hơn, không chỉ những thông tin xảy ra xung quanh mình nữa, mà cả những thông tin chính trị, xã hội, văn hoá có tính chất trừu tượng, vĩ mô. Mọi người dù là trí thức hay người dân lao động đều có nhu cầu biết tin, bàn tán về tin, và một số người có nhu cầu can thiệp vào các vấn đề được báo chí phản ánh, và tiếp tục tạo ra tin mới.

Xét ở khía cạnh kinh doanh, văn chương đăng báo là công cụ hút khách của báo, nhưng ngược lại, chính báo chí đã đem đến cho tác phẩm văn học đăng báo lượng người đọc tiềm năng lớn hơn nhiều và đa dạng hơn nhiều so với sách in. Thể loại văn học trên báo chí quốc ngữ nói chung và báo chí Sài Gòn 1945-1954 nói riêng tiêu biểu trong việc làm nhiệm vụ giữ chân độc giả là tiểu thuyết feuilleton, một kiểu tiểu thuyết dài kỳ đăng báo. Trần Nhật Vy đã gọi feuilleton là “đặc sản của báo chí quốc ngữ thời xưa”[1]. Tác giả viết truyện được trả lương tháng, và nhiều tờ báo mướn những nhà văn có tên tuổi viết riêng cho báo mình để câu khách. Phú Đức, tác giả feuilleton nổi tiếng từ trước 1945 đến giai đoạn 1945-1954 vẫn là một tác giả ăn khách, mà theo như người cùng thời khẳng định thì ông là nhà văn “kiếm nhiều tiền nhứt làng báo Sài Gòn”[2]. Bên cạnh đó còn có rất nhiều những feuilleton khác, có khi đăng đến hơn 40, 50 tuần báo, tức cả năm trời vẫn chưa kết thúc như Trôi giạt của Vĩnh Lộc, Xương máu Phiên Ngung của Cửu Lang… Truyện ngắn cũng có lúc đóng vai trò giữ chân độc giả như feuilleton khi có một tác giả ăn khách nào đó viết thường xuyên cho chuyên mục đó, chẳng hạn như mục Tiêu khiển trên báo Đời mới (1952) mỗi tuần đăng một truyện trinh thám của Thiên Giang, hoặc truyện gây cười nhằm mục đích giải trí thuần tuý của các tác giả khác. Báo Đời mới có rất nhiều cây bút thân thiết cho mục truyện ngắn, như Trần Phương Như, Vĩnh Lộc, Văn Hoà…

Vì là thành tố của hoạt động kinh doanh thông tin nên truyện đăng trên báo chí phải đáp ứng một số yêu cầu của hoạt động kinh doanh đó. Thứ nhất là tính tức thời. Viết văn đăng báo, đặc biệt là feuilleton, không thể nghiền ngẫm, dồn nén năm này qua tháng nọ như viết sách, cũng không để đợi có hứng mới làm việc, mà cứ đến hẹn lại lên. Phi Vân trong lời nói đầu tập phóng sự-tiểu thuyết Đồng quê rào đón: “Đây là những bài báo. Bởi thế cách hành văn cũng như nội dung đều có tính cách “nhật trình”. Lối văn gần như cẩu thả. Câu chuyện có vẻ nhất thời”[3].

Thứ hai là tính tương tác. Người đọc tiếp nhận tác phẩm ngay trong quá trình nó được sáng tạo ra, và đôi khi có khả năng chi phối quá trình sáng tạo đó. Tính tương tác này phần nào thu ngắn khoảng cách giữa nhà văn và độc giả trong thời đại của in ấn hàng loạt đã phân tích ở mục 1.1. Độc giả có thể gửi thư tới toà soạn thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của mình với tác phẩm hoặc tác giả nào đó. Điều này có thể tác động trực tiếp tới hợp đồng giữa tác giả và toà soạn báo, hoặc quyết định một tiểu thuyết feuilleton có được viết tiếp, đăng tiếp nữa hay không. Đất dậy sóng của Hoàng Thu Đông chỉ đăng được 8 kỳ thì dừng lại không rõ lý do, dù ở cuối kỳ 8 vẫn ghi là “còn nữa”, Chúa đảo trả thù của Long Mỹ Nhân cũng dang dở ở kỳ 48, Xương máu Phiên Ngung dừng ở kỳ 33. Tương tác giữa tác giả và độc giả về một tác phẩm cụ thể có lúc được đăng công khai trên báo để rộng đường dư luận. Đời mới đăng các bức thư trao đổi qua lại giữa độc giả Nguyễn Đức Hồ và tác giả Giang Tân về feuilleton Ngày mai đã muộn rồi đăng trên tuần báo này. Nguyễn Đức Hồ giật tít bài viết của mình “Giáo dục sinh lý khác với khiêu dâm”, trong đó ông trao đổi với tác giả Giang Tân đại ý rằng tác phẩm gợi dục nhiều hơn là giáo dục, vì những đoạn mô tả các hành vi tò mò sinh lý giới tính của những đứa trẻ quá sinh động. Giang Tân đáp lời, giải thích rằng giáo dục bằng văn học không thể giáo điều, mà phải mô tả sao cho có tính văn học, chi tiết và logic[4].

Thứ ba, văn chương đăng báo, cũng giống như báo chí nói chung, mang tính thời sự. Tất nhiên không phải tác phẩm nào cũng thế, vì vẫn có trường hợp báo in lại tác phẩm cũ, và hoạt động sáng tạo của nhà văn vẫn có sự độc lập tương đối với hoạt động lấy tin, viết phóng sự…của tờ báo. Một ví dụ tiêu biểu là truyện ngắn Vui sướng gì? của Lê Hương đăng trên Thế giới tháng 11.1949, lấy ý tưởng từ sự kiện bố ráp diễn ra ở rạp Trung ương Hí viện Sài Gòn. Tuy nhiên, đa số tác phẩm có tính thời sự đều thể hiện vấn đề một cách chung chung. Các nhà văn, nhà báo không thể viết về chiến tranh chống Pháp một cách cụ thể, đặc biệt là từ sau 1950, vì chính quyền Pháp kiểm soát báo chí giai đoạn này gắt gao hơn thời kỳ 1945-1949.

Thứ tư, văn chương đăng báo ngắn gọn hơn, đơn giản hơn văn chương in sách, do khuôn khổ hạn hẹp của tờ báo. Trong thời kỳ chiến tranh hay kinh tế khủng hoảng, chi phí giấy mực, in ấn tăng cao khiến báo giảm số trang, người viết lại càng phải tìm cách o ép, cắt tỉa nội dung bài viết của mình cho vừa giới hạn, để đảm bảo việc kinh doanh báo chí vẫn có lời. Có tác phẩm đạt được đặc trưng của truyện ngắn, tức là chỉ thông qua một lát cắt của đời sống, thông qua một sự kiện cụ thể mà nói được những vấn đề nhân sinh rộng lớn, trong khi vẫn đảm bảo sự tinh tế tài hoa trong văn chương và khơi lên những rung động cảm xúc (Người khách đường rừng của Xuân Khai, Gánh hàng rau của Ái Lan, Bóng tối của Văn Hoà) nhưng nhiều truyện lại rất vụn vặt, chỉ mô tả sự kiện như một kiểu kể chuyện hằng ngày để giải trí, tiêu khiển rồi thôi, chứ không giàu chất văn chương. Những tác phẩm đó chỉ là truyện có dung lượng ngắn, chứ không đạt được đặc trưng của thể loại truyện ngắn. Sự sơ sài này có thể là do nhu cầu “lấp cột báo” vẫn xảy ra thường xuyên khi báo đến kỳ mà chưa có bài, buộc ban biên tập phải viết vội một truyện cho xong, độc giả có thể đọc rồi quên, hoặc người phụ trách chuyên mục đó dưới áp lực phải ra bài đều đặn mỗi tuần không tránh khỏi bài hay, bài dở. Nhiều truyện ngắn của Hợp Phố đăng trên Nhân loại thuộc kiểu như vậy (Hợp Phố là thư ký toà soạn của tờ báo này), hoặc một số truyện ngắn trinh thám của Thiết Can trên Đời mới với rất nhiều tình tiết vô lý, thủ phạm rất sơ hở, như thể để sẵn chứng cứ cho người phá án nhìn thấy. Nhiều truyện khác sơ sài có thể là do người viết nghiệp dư được báo chọn đăng bài.

2. Truyện đăng trên báo chí Sài Gòn 1945-1954 nhìn từ công chúng

Như đã phân tích ở mục 1, công chúng của truyện đăng báo là khách hàng của hoạt động kinh doanh thông tin, và nhu cầu thông tin của họ lại do báo chí tạo ra. Phillppe M. F. Paycam khi nghiên cứu về báo chí Sài Gòn 1916-1930 đã nhận ra đặc điểm của người làm báo và công chúng báo chí như sau, và đặc điểm này vẫn duy trì đến cả giai đoạn 1945-1954:

“[…] báo chí Việt Nam những năm 1920 đã đóng vai trò làm nền tảng kiến thức cho việc hoạt động chính trị công khai, các toà soạn kiêm luôn cả trụ sở lẫn thư viện, ban biên tập hợp thành một nòng cốt cụ thể của những nhóm giới rộng lớn hơn. Với sự phát triển của số cộng tác viên - vừa là người viết lẫn người đọc báo cho công chúng nghe và là người bán báo - sự cách biệt giữa độc giả và ban biên tập bắt đầu xoá mờ. Báo chí trở thành nơi giao dịch của một kiểu dân chủ sống động: báo chí đã tạo ra một kinh nghiệm chung cho tất cả những ai có liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ. Nhiều công nhân tham gia vào ngành ấn loát và xuất bản; những người có khả năng hơn đi thu thập thông tin hay thu tiền đặt báo dài hạn ở các tỉnh; các bưu tá, đại lý phát hành và trẻ em đường phố hoạt động như những người bán báo hay cho thuê báo không chính thức. Thậm chí các garçons de café (bồi bàn cà phê) cũng đưa báo cho khách và giấu không cho mật thám Sở Liêm phóng biết. Ý kiến của những người mù chữ trở nên có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp với báo chí thông qua những người đọc báo cho công chúng nghe.”[5]

Từ trích dẫn trên, có thể thấy báo chí đã mở rộng cộng đồng những người quan tâm đến chính trị - xã hội và chi phối chính trị - xã hội ở Sài Gòn và Nam kỳ. Cộng đồng này trong thời phong kiến chỉ là những người có quyền lực chính trị, khi kinh tế tư bản phát triển dưới thời thuộc địa thì cộng thêm những người có tiền, tức có quyền lực kinh tế. Nhờ có báo chí mà tất cả những nhóm xã hội khác, kể cả những người lao động nghèo, thậm chí cả người mù chữ ở Sài Gòn ý thức về các vấn đề chính trị - xã hội, và tác động vào chính trị - xã hội bằng cách bàn luận hoặc thông qua phản ánh của người trí thức, giới ký giả.

Theo khảo sát của chúng tôi khi thực hiện đề tài “Hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học quốc ngữ ở Nam Bộ trước 1954” do Nguyễn Thị Thanh Xuân làm chủ nhiệm, dựa trên danh mục báo của một số thư viện như Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. HCM, Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Quân đội, Thư viện Khoa học Xã hội, Thư viện Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ thì trong số 352 tờ báo quốc ngữ ở Sài Gòn trước 1954, có đến 174 tờ báo thuộc giai đoạn 1945-1954, tức gần một nửa. Cần lưu ý rằng đây là những tờ báo mà các thư viện biên mục được (tuy rất nhiều tờ chỉ còn thông tin biên mục chứ không còn báo), không phải là tất cả những tờ đã từng tồn tại. Các báo thuộc giai đoạn 1945- 1954 có nhiều tờ đã ra đời từ trước 1945 vẫn duy trì tiếp đến giai đoạn sau, hoặc tục bản. Con số 174 tờ báo biên mục cũng không hẳn chính xác, vì có rất nhiều tờ báo trùng tên, các thư viện khác nhau lưu các số báo khác nhau, tuy nhân sự của ban biên tập không giống nhưng cũng chưa thể khẳng định đó là một tờ báo tục bản hay các tờ khác nhau. Tuy nhiên, con số thống kê chưa đầy đủ nói trên cũng cho thấy hoạt động báo chí ở Sài Gòn giai đoạn 1945- 1954 hết sức sôi động. Số lượng báo tuy nhiều nhưng đa phần đều tồn tại trong thời gian ngắn. Số lượng báo bị đình bản rất nhiều, dẫn đến việc giới báo chí liên tục đấu tranh, biểu tình chống đóng cửa báo. Nhiều tờ báo chỉ ra được vài số rồi chết yểu.

Mặc dù tất cả các số liệu trên chỉ giúp cung cấp một bức tranh liên tưởng chứ không cụ thể, chính xác về hoạt động tiêu thụ báo chí ở Nam Bộ giai đoạn 1945- 1954, nhưng ta có thể suy ra được vài nét về công chúng báo chí và công chúng văn học thời kỳ này. Người làm báo không chỉ viết báo để thoả mãn ý muốn của mình, mà họ chỉ có thể duy trì tờ báo khi duy trì được lượng người mua (trừ các báo nhận trợ cấp từ chính quyền). Các báo liên tục ra đời, báo này bị đóng cửa lại có báo kia thành lập, dẫn đến số lượng báo chí rất lớn như đã nêu cho thấy người đọc quan tâm đến những gì mà báo phản ánh. Hoạt động đấu tranh chính trị đã mô tả trong phần bối cảnh không phải chỉ là chuyện của giới ký giả, mà thông qua tin tức trên báo, nó còn tạo ra nhu cầu thông tin của độc giả về các hoạt động tranh đấu. Từ đó công chúng của truyện đăng báo lại hình thành thị hiếu, khuynh hướng thẩm mỹ hướng tới các tác phẩm có tính chất tranh đấu và bàn về những vấn đề xã hội. Điều này lý giải tại sao thể loại feuilleton thời này lại ít hẳn tính giải trí, tiêu khiển so với giai đoạn trước (căn cứ trên các tác phẩm thu thập được). Mục 1 đã phân tích chức năng chủ yếu của feuilleton là để “câu khách”, và thông thường muốn duy trì sự hứng thú của công chúng bình dân thì tác phẩm phải tập trung vào tính giải trí, tiêu khiển. Thế nhưng phần lớn feuilleton giai đoạn 1945- 1954 mà tác giả bài viết này thu thập được lại nặng tính chính trị, xã hội, chẳng hạn như Cát trắng của Kiêm Minh, Ánh sáng đô thành của Vân Nga, Người nữ cứu thương của Hoàng Thơ, Xương máu Phiên Ngung của Cửu Lang, Ngày mai đã muộn rồi Đất dậy sóng của Hoàng Thu Đông, Trôi giạt của Vĩnh Lộc… Các feuilleton này có truyện kéo dài đến 40, 50 kỳ báo. Có thể lý giải theo hai hướng: một là thị hiếu của độc giả thay đổi, tính giải trí, tiêu khiển của feuilleton phải dần thay thế bằng tính chính trị, xã hội thì mới thoả mãn được độc giả; hai là người làm báo xem trọng tính chính trị của tờ báo hơn độc giả của mình, muốn mượn công cụ văn chương để truyền bá và tác động vào tư tưởng của người đọc. Có thể có cả hai nguyên nhân, nhưng nguyên nhân thứ nhất vẫn có tính quyết định hơn, vì nếu người đọc đã không hứng thú gì với tờ báo và các feuilleton này thì việc tuyên truyền trở nên vô ích.

Bên cạnh độc giả không chuyên nghiệp phần nào được tái hiện qua một vài số liệu và suy luận, công chúng còn bao hàm một bộ phận quan trọng là các nhà phê bình văn học, thông qua những bài viết, ý kiến trao đổi có tác động vào văn chương nói chung, truyện đăng báo thời kỳ này nói riêng. Trong đề tài nghiên cứu “Hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học quốc ngữ ở Nam Bộ trước 1954 (sưu tầm, khảo sát và đánh giá), Nguyễn Thị Thanh Xuân có tổng thuật lại diễn trình của các hoạt động lý luận, phê bình văn học trên sách báo xuất bản ở đô thị thời kỳ 1945-1954 một cách cụ thể, bao quát từ các công trình lý luận về văn hoá, đến những sách, báo lý luận về bản chất, chức năng và thể loại văn học, những hoạt động phê bình các tác giả tác phẩm cụ thể, những bài tổng kết thời sự văn học, những cuộc tranh luận văn chương, những cuộc thi sáng tác, các hoạt động dịch thuật, giới thiệu sách, phỏng vấn, điều tra văn học. Nhìn chung, giới nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học thời kỳ này đề cao mối quan hệ giữa văn học với xã hội và ý thức hệ của người nghệ sĩ. Họ nhấn mạnh tính xã hội, tính giai cấp của văn học, đề cao mục đích vị nhân sinh, mà một trong những khía cạnh của vị nhân sinh là tính tranh đấu, đồng thời đặc biệt lưu ý đến tính đại chúng của văn nghệ. Thiên Giang, Thê Húc, Thẩm Thệ Hà cùng thảo luận xung quanh vấn đề văn chương tranh đấu, trong đó Thẩm Thệ Hà khởi xướng và chất vấn về tính tranh đấu trong văn chương Việt Nam đương thời[6], Thiên Giang đề nghị người nghệ sĩ phải tham gia vào cuộc tranh đấu, làm nghệ sĩ tả chân xã hội[7], và Dương Tử Giang kêu gọi đào huyệt chôn các tác phẩm văn chương uỷ mị mới đăng báo, vì ông cho rằng chúng làm lung lạc tinh thần tranh đấu[8]. Về tính đại chúng, các nhà lý luận, phê bình lật đi lật lại tính hai mặt của vấn đề, một mặt phải viết văn cho quần chúng hiểu, quần chúng thích, “nương theo đại chúng”[9], “phụng sự nhân dân”[10], nhưng mặt khác phải định hướng đại chúng đến những giá trị chân, thiện, mỹ, tránh xa thị hiếu tầm thường, đồi truỵ, vì “người nghệ sĩ chân chánh không lẽo đẽo theo sau quần chúng nhân dân”[11]. Tất cả những ý kiến lý luận chung nêu trên đều tác động đến người cầm bút, trong đó có các tác giả viết cho báo. Nhiều tác giả viết lý luận phê bình thời kỳ này cũng chính là những người viết truyện đăng báo chẳng hạn như Thiên Giang, Hoàng Thu Đông, Hà Việt Phương… do vậy tác phẩm của họ thể hiện rất rõ các quan điểm về văn nghệ mà họ đã trình bày.

Đối với các tác phẩm cụ thể mới xuất bản, thông thường giới phê bình hay tập trung vào sách hơn là truyện đăng báo. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp cá biệt tác giả có truyện đăng báo được mang ra phân tích để làm rõ một luận điểm lý luận nào đó, chẳng hạn như Phú Đức và Nam Đình Nguyễn Thế Phương. Trọng Yêm trong bài “Thời này là của Phú Đức, Nam Đình chăng?”[12] đã nêu lên tình trạng cả xã hội mê mẩn feuilleton của 2 tiểu thuyết gia này, cho dù đa số là feuilleton đã cũ (Phú Đức đem đăng báo lại, còn Nam Đình in sách). Ông giải thích rằng điều này có nguyên nhân từ thị hiếu cũ kỹ của dân chúng và do chiến tranh kéo dài làm mọi người mất tinh thần, “mất tin tưởng vào ngày mai, ăn chơi trong ngày nay”. Trước đó, Phú Đức đã “bêu tên” trong một bài viết của Tam Nhơn với tít báo hết sức gây chú ý “Phú Đức tiểu thuyết gia bổn cũ soạn lại”[13], trong đó có kể lại chuyện năm xưa Phú Đức tham tiền bỏ Trung lập báo sang viết cho Công luận báo trong lúc Trung lập đang đối mặt với khó khăn vì đăng bài bảo vệ hoạt động kinh doanh của người Việt. Tam Nhơn khiến độc giả nhận thức về thái độ chính trị của nhà văn, và cho thấy ngay cả một feuilleton thuần tuý giải trí vẫn có thể tác động vào công cuộc chính trị vì nó ảnh hưởng đến lựa chọn đọc báo của độc giả đại chúng.

Về tác phẩm cụ thể, chỉ có một vài truyện được phê bình riêng, vì đa phần các nhà phê bình tập trung vào sách in. Truyện ngắn Con thằn lằn chọn nghiệp của Hồ Hữu Tường đăng trên báo Mới số 26 đã khá thu hút ý kiến phê bình. Độc giả Đào Hữu Tường viết bài “Xin tha tội cho con thằn lằn”[14], cho rằng kết truyện của Hồ Hữu Tường có vẻ bất công. Phương Tiện Đạo Nhân[15] phân tích tác phẩm từ góc nhìn Phật pháp để bác ý kiến của ông Đào Hữu Tường, dẫn dắt từ vấn đề tôn giáo đến chức năng cải tạo xã hội của văn học, một trong những vấn đề quan trọng của lý luận phê bình thời đại này. Một tác phẩm đăng báo khác cũng được đem ra mổ xẻ là feuilleton Ngày mai đã muộn rồi của Giang Tân, trong đó độc giả Nguyễn Đức Hồ chê cách mô tả, kể chuyện có tính khiêu dâm dù mục đích tác phẩm là giáo dục, và Giang Tân đăng đàn giải thích, cho rằng văn học có quy luật của riêng nó chứ không giáo dục bằng lý thuyết, nên truyện phải được mô tả sống động, dẫn dắt hợp lý.

3. Truyện đăng trên báo chí Sài Gòn 1945- 1954 nhìn từ văn bản

Nhìn từ văn bản không phải là cách nhìn đối lập với cách nhìn xã hội, mà là xem tác phẩm là một cấu trúc chỉnh thể độc lập có mối liên hệ với xã hội. Theo lý thuyết cấu trúc phát sinh của của nhà lý luận phê bình xã hội học Lucien Goldmann thì mỗi văn bản tác phẩm chứa đựng một cấu trúc hàm nghĩa nằm ngoài ý thức chủ quan của nhà văn, tương ứng với một cấu trúc xã hội của một nhóm xã hội mà nhà văn thuộc về, thể hiện thế giới quan không phải của nhà văn mà của nhóm xã hội đó.

Trong những tác phẩm được khảo sát, có hai mảng đề tài được các tác giả chọn viết nhiều nhất là đề tài tranh đấu yêu nước và đề tài đời sống đô thị. Viết về tranh đấu, các tác giả hoặc là kể về những chàng trai cô gái yêu nước thời hiện đại ra đi vì nghĩa lớn, những người ở lại, những người làm quốc sự đầy bí ẩn, cùng những nỗi đau và nét đẹp kiêu hùng của họ (Hận người tử sĩ của Hoàng Kim, Gánh hàng rau của Ái Lan, Làm lại cuộc đời của Hà Phương, Người nữ cứu thương của Hoàng Thơ, Đất dậy sóng của Hoàng Thu Đông), hoặc mượn những câu chuyện đời xưa để khơi dậy lòng yêu nước (Xương máu Phiên Ngung của Cửu Lang, Lão Tô của Tô Kiều Ngân). Viết về đời sống đô thị, các nhà văn đặc biệt quan tâm đến số phận của các cô gái giang hồ (Ngày mai sẽ đến của Hoàng Thu Đông, Bóng tối của Văn Hoà, Cát trắng của Kiêm Minh, Trôi giạt của Vĩnh Lộc), sức tàn phá của xã hội đô thị xa hoa đối với thiên tính, lý tưởng của con người và sự trong trẻo của trẻ nhò (Hai cái chết cuả Cao Hữu Huấn, Ánh sáng đô thành của Vân Nga, Trôi giạt của Vĩnh Lộc, Ngày mai đã muộn rồi của Giang Tân, Bài giảng văn của Hợp Phố), những mối lo tủn mủn tầm thường của con người tầm thường (Vui sướng gì của Lê Hương, Đôi vú sữa của Hợp Phố), những mối quan hệ phức tạp xã hội phức tạp, chồng chéo giữa yêu thương và thù hận, giữa tốt đẹp và sa đoạ, giữa tình nghĩa và phản trắc (Giết cha của Thiên Giang, Chúa đảo trả thù của Long Mỹ Nhân, Cây kiềng vàng của Cô Minh Đạt), những rung động, cảm xúc tế vi của con người cá nhân (Sầu riêng của Linh Bảo, Bãi cỏ của Thuỵ An Hoàng Dân)…

Viết về chiến tranh và cách mạng, các tác phẩm vừa liệt kê ở trên thường xoáy vào những éo le trong tình yêu, bịn rịn ngày ly biệt, người chiến sĩ mang vẻ đẹp kiêu hùng nhưng nhuốm màu u buồn. Điển tích Kinh Kha sang Tần được sử dụng khá nhiều, hoặc nếu không thì cũng là hình ảnh người chiến sĩ cách mạng cưỡi ngựa trên dặm đường rong ruổi và ghé bến sông trong chiều muộn trò chuyện với một ông lái đò, cũng là người có cảm tình với cách mạng. Quán nước ven đường thường hay là căn cứ liên lạc của cách mạng. Viết về xã hội đô thị, các nhà văn quan tâm đến những phận người bé nhỏ, trôi giạt như gái giang hồ, trí thức, thiếu nhi, dân nghèo thành thị, công nhân... nhưng các cô gái giang hồ đều là những cô gái xuất thân trong gia đình trung lưu, bản thân có học hành, và trong những chuỗi ngày trượt dài trong u tối vẫn trăn trở về đời mình, về nhân thế; các anh công nhân, dân nghèo thành thị nhìn đời như những người trí thức...

Xét từ khía cạnh văn bản, những ví dụ nói trên tạo ra một hệ thống cấu trúc hàm nghĩa chung mang tính chiến đấu. Đó có thể là chiến đấu một cách trực tiếp vì mục tiêu chính trị thống nhất đất nước và giải phóng dân tộc khỏi chế độ thực dân kiểu mới mà Pháp muốn xây dựng ở Nam Bộ thông qua các chính quyền tự trị bù nhìn. Ở mục tiêu xã hội, các tác giả khi kể các câu chuyện về đời sống đô thị đều không chỉ dừng lại ở việc mô tả đời sống của xã hội đó với những số phận bất hạnh, những mối quan hệ phức tạp, sự suy đồi của đạo đức, sự vụn vỡ của ước mơ… mà họ tả nó với cảm hứng muốn thay đổi hiện trạng đó. Thiên Giang khi phóng tác Anh em nhà Karamazov thành truyện Giết cha đã nhấn mạnh vào vấn đề đạo đức. Cô Minh Đạt viết Cây kiềng vàng kể về một gia đình tan vỡ vì thú sắc dục của người cha và những mưu mô toan tính của các thành viên trong nhà cũng nhằm chuyển tải bài học đạo lý. Tác giả còn viết rõ dụng ý này trong phần Lời cuối truyện. Kiêm Minh, Vĩnh Lộc, Hoàng Thu Đông, Cao Hữu Huấn… viết về các cô gái giang hồ đều mở ra cho họ một con đường thay đổi số phận hoặc được cứu rỗi linh hồn, viết về người trí thức trẻ mất lý tưởng đều vô tình hay hữu ý hé cho họ một tia hi vọng. Như vậy, đây cũng là một hàm nghĩa chiến đấu trên khía cạnh xã hội của các nhà văn, dù có khi họ không chủ đích điều đó. Hàm nghĩa chiến đấu này thực hiện bằng cách đánh vào trái tim nhiều hơn khối óc. Cụ thể là viết về yêu nước và cách mạng thì các tác giả có xu hướng khơi gợi nỗi buồn nhiều hơn vinh quang, mô tả sự khốc liệt của hiện tại nhiều hơn hướng về hạnh phúc trong tương lai. Điều này hoàn toàn trái ngược với văn học cách mạng hiện thực xã hội chủ nghĩa về sau. Bàn về xã hội, các nhà văn làm cho độc giả mủi lòng với các nhân vật hơn là phân tích động cơ của họ. 

Cấu trúc hàm nghĩa khách quan nói trên có mối quan hệ tương quan đối ứng với cấu trúc của nhóm xã hội mà tác giả cuả nó thuộc về, đó là nhóm trí thức trong xã hội đô thị chịu sự quản lý của thực dân trong thời kỳ bùng nổ thông tin chính trị. Sài Gòn vốn là một đô thị thuộc địa với mâu thuẫn giai cấp giữa tư bản và công nhân, giữa thực dân và bản xứ, mâu thuẫn giàu nghèo, vấn đề bần cùng hoá trong xã hội, vấn đề tội phạm… Tính chất thuộc địa này xét về mặt bản chất vẫn tồn tại đến giai đoạn 1945-1954, vì tuy có chính quyền của người Việt nhưng những chính quyền này suốt thời kỳ 1945-1954 không có quyền tự quyết. Điểm khác biệt của giai đoạn này so với giai đoạn trước là hoạt động đấu tranh chính trị diễn ra công khai hơn, quyết liệt hơn. Một trong những hoạt động đấu tranh đáng chú ý của giới báo chí thời này là phong trào Báo chí thống nhất (10.1946) quy tụ nhiều tờ báo thời đó đấu tranh cho sự thống nhất ba kỳ và ủng hộ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Phong trào này bị chính quyền Nam Kỳ dập tắt năm 1947 bằng việc đóng cửa hàng loạt tờ báo, bắt bớ các nhà báo như Phan Văn Thiết, Vũ Tùng, Dương Tử Giang, Thiếu Sơn, thậm chí ám sát các nhà báo Nam Quốc Cang, Đinh Xuân Tiếu (1950).

Các tác giả văn học thời kỳ này đều thuộc tầng lớp trí thức, và như đã nói ở trên rất nhiều người trong số họ cũng đồng thời là nhà báo, trong một thời kỳ báo chí liên tục phản kháng chính quyền, và bị chính quyền cấm đoán. Vì vậy, chiến tranh nói riêng, các xung đột chính trị nói chung đã tác động trực tiếp đến công việc, đời sống và tư duy của giới văn sĩ- ký giả. Cấu trúc hàm nghĩa tranh đấu trong tác phẩm đối ứng với cấu trúc xã hội của tầng lớp trí thức cụ thể này. Đành rằng các cuộc đấu tranh cách mạng đều khởi phát từ mâu thuẫn kinh tế- xã hội, nhưng tầng lớp tri nhận được những cuộc đấu tranh ấy sớm nhất luôn là tầng lớp trí thức, dù họ ở thế mạnh hay thế yếu trong cuộc giao tranh. Nếu nói như vậy, văn chương thời nào cũng sẽ có cấu trúc hàm nghĩa tranh đấu, vì văn chương vẫn thường do trí thức sáng tạo ra. Điểm mấu chốt là thời điểm sáng tạo tác phẩm có phải là thời kỳ mà giao tranh là vấn đề nóng bỏng nhất hay không. Trong mọi cuộc giao tranh, tư duy của con người có khuynh hướng phân cực để nghiêng về một phía nào đó, và tư duy này chi phối sáng tạo nghệ thuật, luôn thể hiện sự lựa chọn hoặc đấu tranh để tìm sự lựa chọn thích hợp. Một điểm đáng lưu ý của trí thức thời này, đó là họ vẫn là sản phẩm của nền giáo dục- văn hoá hỗn hợp Đông- Tây như thời trước 1945, nên thế giới quan của họ về cái đẹp, về giá trị thẩm mỹ vẫn như thời trước. Mặc dù họ vẫn hô hào tẩy chay văn chương lãng mạn[16], nhưng trong thế giới thẩm mỹ của họ, chiến sĩ phải như Kinh Kha mới là đẹp, gái giang hồ phải tài hoa, trắc trở như Kiều, như kỹ nữ bến Tầm Dương, như Trà Hoa Nữ mới có giá trị thẩm mỹ, trong khi trong thực tế thì người chiến sĩ cách mạng thế kỷ 20 không cưỡi ngựa sang sông, và gái giang hồ trong đời thực thì không phải ai cũng tài hoa nghệ sĩ. Đó là lý do tại sao các nhân vật của họ đều mang màu sắc lãng mạn u buồn, câu chuyện của họ thiên về cảm xúc hơn là lý trí, nói nhiều về khổ đau mất mát hơn là vinh quang, mà nhiều người trong giới văn nghệ miền Bắc cùng thời đã quyết liệt bài trừ và chụp cho cái mác “lãng mạn tiểu tư sản” với hàm ý phê phán.

***

Tóm lại, nhìn từ đặc trưng của báo chí, tác phẩm truyện đăng trên báo chí Sài Gòn giai đoạn 1945- 1954 vừa mang đặc điểm chung của văn học hiện đại, vừa mang nét riêng của hoạt động kinh doanh thông tin. Nhìn từ công chúng, những sự kiện chính trị, đặc biệt là hoạt động tranh đấu ở Sài Gòn và cả nước giai đoạn 1945- 1954, cùng với hoạt động lý luận phê bình văn học đề cao mục đích vị nhân sinh, tinh thần tranh đấu và tính đại chúng của văn học đã tác động trực tiếp đến giới làm báo và công chúng đọc báo. Nhìn từ văn bản, truyện đăng trên báo chí Sài Gòn 1945- 1954 mang cấu trúc hàm nghĩa tranh đấu, tương quan đối ứng với cấu trúc xã hội tranh đấu của giai đoạn này, thể hiện qua thế giới quan của tầng lớp trí thức. Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này, truyện đăng báo thể hiện tính chất xã hội rõ nét và đóng góp trực tiếp vào những hoạt động chính trị, xã hội đương thời.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Pierre Bourdieu (Richard Nice trans., 1984), Distinction: A Social Critique of the Judgement of Taste, Havard University Press, Massachusetts.
  2. Lucien Goldmann (1987), Towards a Sociology of the Novel, Routledge Kegan & Paul.
  3. Vũ Hạnh, Nguyễn Ngọc Phan (2007), 100 câu hỏi đáp về Sài Gòn- Gia Định- Tp. Hồ Chí Minh: Văn học thời kỳ 1945- 1975, Nxb. Văn hoá Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
  4. Hà Minh Hồng, Trần Nam Tiến, Lưu Văn Quyết, Hà Kim Cương (2007), 100 câu hỏi đáp về Sài GònGia ĐịnhTp. Hồ Chí Minh: Lịch sử Sài Gòn thời kỳ 19451975, Nxb. Văn hoá Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
  5. Phan Mạnh Hùng (2011), “Những vấn đề của văn học đại chúng: so sánh tiểu thuyết feuilleton ở Nam Bộ trước 1945 và tiểu thuyết chương hồi”, Khoa học Xã hội và Nhân văn, (51).
  6. Võ Văn Nhơn (1997), “Văn xuôi yêu nước và tiến bộ trong các thành thị bị tạm chiếm 1945–1954”, Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn, (5), TP. HCM, tr.64–69.
  7. Võ Văn Nhơn (chủ nhiệm) (2012), Sưu tầm, khảo sát, đánh giá văn học Nam Bộ 19451954, Đề tài NCKH cấp Đại học Quốc gia trọng điểm, TP. Hồ Chí Minh.
  8. Philippe M. F. Peycan (Trần Đức Tài dịch) (2015), Làng báo Sài Gòn 1916-1930, NXB. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
  9. Thế Phong (2007), Lược sử văn nghệ Việt Nam: Nhà văn miền Nam 19451950, http://newvietart.com/index4.287.html
  10. Nguyễn Văn Sâm (1969), Văn chương tranh đấu miền Nam, Nxb. Kỷ Nguyên, Sài Gòn.
  11. Nguyễn Văn Sâm (1972), Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945-1950, Nxb. Lửa Thiêng, Sài Gòn.
  12. Trần Hữu Tá (2005), “Những bổ khuyết cần thiết cho bức tranh toàn cảnh của văn học Việt Nam hiện đại”, Nghiên cứu văn học, số 5, tr. 29–30.
  13. Lộc Phương Thuỷ, Nguyễn Phương Ngọc, Phùng Ngọc Kiên (2014), Xã hội học văn học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  14. Trương Ngọc Tường, Nguyễn Ngọc Phan (2007), 100 câu hỏi đáp về Gia Định - Sài Gòn - TP. HCM: Báo chí ở TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hoá Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
  15. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2010), “Chữ quốc ngữ, báo chí, công chúng và văn học Nam Bộ đầu thế kỷ XX”, kỷ yếu Hội thảo Đồng bằng sông Cửu Long thực trạng và giải pháp, ĐHKHXH&NV- ĐHQG TPHCM.
  16. Nguyễn Thị Thanh Xuân (chủ nhiệm) (2017), Hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học quốc ngữ ở Nam Bộ trước 1954 (Sưu tầm, khảo sát và đánh giá), Đề tài NCKH cấp Đại học Quốc gia trọng điểm, TP. Hồ Chí Minh.
  17. Trần Nhật Vy (2016), “Feuilleton- hàng độc của báo chí quốc ngữ thời xưa”, Tuổi Trẻ Online, http://tuoitre.vn/feuillton-hang-doc-cua-bao-chi-quoc-ngu-thoi-xua-1209955.htm

Pierre Zima (Phạm Xuân Thạch dịch), Giáo trình phê bình xã hội học, tài liệu dịch chưa công bố.


[1] Trần Nhật Vy (2016), “Feuilleton - hàng độc của báo chí quốc ngữ thời xưa”, Tuổi Trẻ Online, http://tuoitre.vn/feuillton-hang-doc-cua-bao-chi-quoc-ngu-thoi-xua-1209955.htm

[2] Tam Nhơn (1952), “Phú Đức - tiểu thuyết gia bổn cũ soạn lại”, Đời mới, số 1 (12-4-1952), tr. 54-55.

[3] Phi Vân (1943), Đồng quê, Hội Khuyến học Cần Thơ xuất bản, tr. 3.

[4] Đời mới, số 81, tr. 18-19, 30.

[5] Philippe M. F. Paycam (Trần Đức Tài dịch) (2015), Làng báo Sài Gòn 1916-1930, NXB. Trẻ, TP. HCM, tr. 116-117.

[6] Thẩm Thệ Hà, “Xã hội Việt Nam có văn chương xã hội và văn chương tranh đấu chưa?” Việt bút số 23.

[7] Thiên Giang, “Vấn đề khách quan trong tư tưởng”, Tiếng chuông, số 22.

[8] Dương Tử Giang (1949), “Tin văn”, Thế giới, số 5 (19-11-1949), tr. 2, 34.

[9] Trần Văn Khê (1949), “Nhiệm vụ của một nhạc sĩ trong xã hội”, Việt báo, số 3 và 4 (29-5-1949), tr. 4-5.

[10] Tô Duyên (1953), “Văn nghệ phụng sự”, Đời mới số 74 (27-8-1953), tr. 16-17, 32.

[11] Thanh Lương (1953), “Văn nghệ sĩ, những tên nô lệ của thời cuộc?”, Đời mới, số 60 (23-5-1953), tr. 23.

[12] Trọng Yêm (1953), “Lấy mắt người Việt xét việc xã hội: thời này là của Phú Đức, Nam Đình chăng?”, Đời mới, số 53 (4-4-1953), tr. 8, số 54 (11-4-1953), tr. 8.

[13] Tam Nhơn (1952), “Phú Đức- tiểu thuyết gia bổn cũ soạn lại”, Đời mới số 1 (12-4-1952), tr. 24-25.

[14] Không rõ đăng trên báo nào, vì nó được tóm tắt lại trong bài phản biện của Phương Tiện Đạo Nhân.

[15] Phương Tiện Đạo Nhân (1953), “Trả lời câu hỏi của Hồ Hữu Tường - Con thằn lằn đã chọn nghiệp”, Nhân loại, số 20 ngày 4-1-1953, tr. 10-11.

[16] Ky Hà (1952), “Nên chấm dứt văn học lãng mạn bằng một nền văn nghệ mới”, Đời mới, số 32 (15.11.1952), tr. 30.

Nguồn: Số chuyên đề Bình luận văn học - Niên san 2017, Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 34 (59), tháng 12.2017, tr.127-137.