Triết học Kant qua ”Phê phán năng lực phán đoán”

In bài này

Ngày 15/4/2011 và 22/4/2011 vừa qua, TS. Bùi Văn Nam Sơn đã có buổi nói chuyện chuyên đề về Mỹ học Kant tại văn phòng Khoa Văn học và Ngôn ngữ - Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. HCM.

Dưới đây là bài ghi cuộc nói chuyện ngày 15/4/2011:

Hôm nay tôi cảm động khi được trở lại ngôi trường cũ và có dịp diện kiến mọi người. Khoa học xã hội nhân văn luôn trở về cái cũ, khác với khoa học tự nhiên. Trở về với Kant là trở về với cái đầu nguồn, cái thao thức.

Tôi không nghĩ đây là một séminaire, vì trong 1 tiếng không thể nói gì. Kant mất 10 năm để cho ra đời Phê phán Lý Tính thuần túy. Khi có cuốn này, Kant cũng chưa nói gì về mỹ học (1781), vì lúc ấy ông xem mỹ học không phải là khoa học,  mà là cái gì thuộc về cảm xúc, tự nhiên.

Mãi đến 1787, ông nói esthétique là khoa học về cảm giác. Cái đẹp không phải là đối tượng của triết học.Nhưng năm 1788, Kant thay đổi, tìm được căn cứ triết học để viết Cuốn Phê phán năng lực phán đoán (1790), đó là cả một diễn trình. Sau đó, ông viết Phê Phán Lý Tính thực hành để viết về đạo đức.

Vì vậy chúng ta không thể có ảo tưởng để nói về Kant trong 1tiếng đồng hồ. Sẽ nói về những vấn đề chung quanh Phê phán năng lực phán đoán.

Sau Kant, nhiều tác giả có xu hướng khác Kant, đều khởi đi từ cách đặt vấn đề của Kant: Lucien Goldmann, Iser, Jauss, Heidegger...theo kiểu tiếp nối hay gợi ý.

Sau Kant có Walter Benjamin (xu hướng Marxist), trường phái Franfurt, hiện tượng nghệ thuật được nhân bản, nhất là điện ảnh..., những vấn đề ấy thời Kant chưa có.

Walter Benjamin đặt lại vấn đề: Có chăng tính độc đáo, sứ mệnh của nghệ thuật? Phải chăng mỹ học có chức năng gián tiếp, khác với đạo đức? Nghệ thuật có chân lý không? Nghệ thuật là kết quả từ tài năng thiên bẩm của thiên tài? Vấn đề tự trị và quyền phát triển độc lập của mỹ học và văn học? Hủy diệt cái tự trị của mỹ học và văn học sẽ hủy diệt những giá trị của con người. Thế kỷ 20,Theodor W.  Adorno sẽ tiếp tục Walter Benjamin về vấn đề tự trị, ấy là người theo xu hướng Marxist nhưng bảo vệ được tính độc lập tự chủ của Mỹ học. Jean Paul- Sartre thì chủ trương văn học dấn thân, đề cao  trách nhiệm xã hội của người nghệ sĩ.

Tiêu chuẩn nào để phân loại các ngành nghệ thuật? Vai trò cái đẹp và cái cao cả trong nghệ thuật?

Sự phân ngành trong nghệ thuật, từ sự phân biệt cái đẹp và cái cao cả

F. Lyotard, bàn về cái cao cả, để diễn tả cái không thể diễn tả được: nghệ thuật tiền phong. Hậu hiện đại là làm mới lại hiện đại, nói lên những cái không diễn tả được.

Trong nghệ thuật tiền phong, phạm trù cái cao cả trở nên hết sức quan trọng.

Lucien Goldmann, Lukacs muốn bảo vệ chân lý, Kant cho là nghệ thuật không cần chân lý.Heidegger bảo vệ chân lý theo kiểu khác. Tính sáng tạo của nghệ thuật đã bị thử thách qua xã hội công nghiệp. Khủng hoảng về diễn ngôn về tư tưởng.

Mỹ học Kant luôn có đó, nhiều thách thức và gợi ý. Không có Kant  sẽ không có Heidegger, không có Lyotard, Adorno. Nếu phải chọn 1 cuốn sách duy nhất của Kant sẽ chọn cuốn nào? Sẽ là Phê phán năng lực phán đoán, bởi nó đặt ra những vấn đề có tính nền tảng, nhiều cách tiếp cận khác nhau: Lịch sử nghệ thuật: sắp xếp theo thời gian; Phê bình nghệ thuật: chạm đến từng tác phẩm riêng; Lý luận văn học: nghiên cứu những loại hình cơ bản, trừu tượng; Mỹ học, triết học: đào sâu, trừu tượng hóa cái với câu hỏi cái Đẹp là gì? Nghệ thuật  là gì? Không thể nói cách tiếp cận nào quan trọng hơn. Cái đẹp là gì? Cái xấu là gì? Làm nghệ thuật là làm gì? Kant đã đặt vấn đề ấy một cách minh nhiên.

Mỹ học đã có từ xưa. Platon, Aristote, xem cái đẹp là khách quan. Cái đẹp là một thuộc tính của vũ trụ, khách quan, độc lập với con người, con người chỉ phát hiện nó.

Công đầu dành cho các nhà mỹ học Anh. Từ họ, phương Tây thoát khỏi giáo điều. Phái Duy nghiệm của Anh như John Locke (1632-1704), Edmund Burke, Francis Hutcheson đã có nhiều gợi ý cho Kant: Cái đẹp có trong tự nhiên, trong nghệ thuật, nhưng nếu không có con người thì cái đẹp ấy vô nghĩa,  việc đưa con người vào mỹ học, biến chủ thể thành trung tâm đã chuyển từ mỹ học cổ điển thành mỹ học hiện đại. Cái đẹp không khách quan, cũng không phải chủ quan mà là tương quan giữa chủ thể và đối tượng, nó cần giác quan. Giác quan thứ sáu  là giác quan thẩm mỹ, là nội quan, làm nên  thái độ và năng lực thẩm mỹ.

Mỹ học trước Kant rất quan trọng.

 David Hume là người đặt câu hỏi: Đâu là chuẩn mực của cái đẹp? Nhưng David Hume chưa đi vào phán đoán thẩm mỹ cụ thể. Với tinh thần hoài nghi người của phái Duy nghiệm xem chuẩn mực là chủ quan. Theo David Hume, cần phải dựa vào cảm thức của những người  ưu tú tinh tế, xem đó là chuẩn mực. Từ quan niệm này, David Hume  đã là người nâng cao vai trò của Phê bình văn học, xem nhà phê bình là “người nhìn, người quan sát, người thưởng ngoạn lý tưởng”. Theo ông, các điều kiện để tinh luyện giác quan thứ sáu này là

-Sự tinh tế của cảm xúc

-Sự trải nghiệm lâu năm

-Khả năng so sánh, liên tưởng (với những tri thức cần thiết)

-Đầu óc tỉnh táo, cảm nhận rành mạch, lương năng

Những tư tưởng này đã chuẩn bị cho Mỹ học tiếp nhận về sau.

Phương Tây có trường phái Duy lý (Descartes), họ vướng phải một vấn đề: Cái đẹp là gì? (là tình cảm, ham muốn), Descartes bó tay. Suốt cả truyền thống duy lý, họ không chạm đến được cái Đẹp.

A.G. Baumgarten: “Esthétique”, người sản sinh ra khái niệm Mỹ học, Đạo đức học,...chính là người cuối cùng của phái duy lý, sắp xếp lại mỹ học trong hệ thống thuần lý, nhưng ông xếp mỹ học vào vị trí rất thấp: Quan năng hạ đẳng.

 

Kant lớn lên trong bối cảnh như vậy. Một bên là phái duy lý bạc bẽo với cái đẹp, một bên là phải Duy nghiệm đầy tính chủ quan: đi giữa hai tảng đá ngầm ấy, rơi vào sẽ chìm đắm, nhưng ông đã lái chiếc thuyền triết học vượt qua hai tảng đá ấy.

Kant biết thời đại mình đang đặt vấn đề gì, mình đang đứng ở đâu.

Bây giờ trở lại với cuốn sách. Tại sao là Phân tích năng Lực phán đoán? Muốn hiểu nhan đề, phải hiểu cả không gian xung quanh nó.

Theo Kant, con người có ba khả năng:

-Quan  năng nhận thức

-Quan năng ham muốn

-Quan năng phán đoán.

Quan năng phán đoán là cầu nối giữa hai quan năng trên

Phán đoán có: Phán đoán xác định và phán đoán phản tư

Phán đoán xác định: đưa hiện tượng cá biệt vào quy luật phổ quát, công việc để tạo thành nhận thức (Ví dụ: từ triệu chứng suy ra căn bệnh: nhảy mũi, nhức đầu= cúm). Đây là một năng lực bẩm sinh.

Phán đoán phản tư: Từ một hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phổ biến. Có những cái chẳng có mục đích nào cả: hoa hiện diện trong đời sống chúng ta thế nào?  khó có thể chứng minh, nó chỉ là như thể có một mục đích,  giả định đây là  mục đích. Phán đoán phản tư là chìa khóa mở cửa mỹ học.

Cuốn sách này vượt qua Phê Phán Lý TínhThuần Túy, nó chạm đến cái đẹp.

“Gán cho mục đích” là luận điểm mở ra một chiều kích khác.

Phán đoán phản tư tạo ra phán đoán thẩm mỹ. Vinh dự của con người là ngoài năng lực phán đoán xác định con người còn có năng lực phán đoán phản tư.

Đó là lý do mà cuốn sách có hai phần:

-Phán đoán thẩm mỹ: tìm cho cái đẹp một mục đích vốn không có trong thực tế

-Phán đoán tự nhiên: giới tự nhiên cũng vậy, không có mục đích.

Khi cắt nghĩa tự nhiên, triết học truyền thống thường cắt nghĩa trên bốn mục đích, trong đó có nguyên nhân. Kant tra vấn về nguyên nhân: “xét về toàn bộ, thiên nhiên là vô mục đích”. Vì con người, phải gán cho tự nhiên một mục đích. Nhưng khác quan niệm của Aristote, Kant dựa vào năng lực phán đoán phản tư “như thể là mục đích” “nghệ thuật là cái như thể nó là tự nhiên”. Mỹ học thực chất là thế giới của “cái như thể”. Phán đoán phản tư là một kích thước khác của năng lực con người. Nó là cầu nối (viên đá đầu đỉnh vòm, giữ cái đỉnh khung) giữa phán đoán lý tính và phán đoán xác định. Nó cũng là cầu nối giữa tự do và tất yếu, giữa lý thuyết và thực hành, để gìn giữ phẩm giá của con người.

Gần đây (thế kỷ XXI), người ta đặt vấn đề nhiều về phần hai của cuốn sách (Phán đoán tự nhiên) vì hiện nay thường có hai cách nhìn về tự nhiên, hoặc là thần bí  hóa tự nhiên, hoặc là công cụ hóa tự nhiên.Cách nhìn phản tư của Kant đã giải quyết được nghịch lý ấy.

Mỹ học Kant đã đặt ra hàng loạt vấn đề:

1. Đối tượng nghiên cứu Mỹ học là gì?

-Cần phải hiểu về phán đoán thẩm mỹ. Ở đây Kant không bàn về cái đẹp của sản phẩm, mà bàn về việc phán đoán cái đẹp “Phải tìm về những điều kiện khả thể của kinh nghiệm. Phán đoán thẩm mỹ là  gì? Anh đã làm gì để phán đoán được cái đẹp ấy? Phán đoán thẩm mỹ khác với những phán đoán khác.Thâm thúy là ở cách đặt câu hỏi, cách đặt vấn đề chứ không nhất thiết là ở câu trả lời.

Ví dụ: -Bức tranh này làm bằng gì? Kích thước ra sao?: phán đoán nhận thức

-Bức tranh này đẹp hay xấu? : phán đoán thẩm mỹ

2. Có hai phạm trù: Cái Đẹpcái Cao cả, thể hiện trong tự nhiên và trong nghệ thuật. Cái cao cả có trong tự nhiên không? Có trong nghệ thuật không? Các cấp độ của nó?

Kant phân tích phán đoán về cái đẹp và cái cao cả. Tạo ra ranh giới giữa các loại phán đoán.

 Nietzsche đã phê phán Kant là người đứng ngoài, thiếu một mỹ học về sáng tạo, Nietzsche đã ngộ nhận Kant. Thực ra, Kant đã nhìn vấn đề một cách toàn diện.

Cái đẹp

Kant khô khan, không có mỹ cảm về cái đẹp, nhưng lý thuyết của ông ấy rất tinh tế. Ông nhận ra vấn đề vào năm cuối cùng để viết cuốn này. Ông đã nhận ra vấn đề gì?

Đó là yếu tố tiên nghiệm, nhằm dung hòa giữa duy lý và duy nghiệm. Theo ông, khi lý trí xử lý vấn đề, có yếu tố tiên nghiệm, thiếu nó khó giải quyết vấn đề. Cơ sở tiên nghiệm của cái đẹp, đó là năng lực phán đoán phản tư: “gán cho mục đích” “cái như thể là”

Kant đã đưa ra bốn  nội dung mang tínhnghịch lý về phán đoán về cái đẹp, được gọi là bốn momen:

1. Cái đẹp là một  hài lòng mà không có sự quan tâm (sans intérêt= vô vị lợi?)niềm vui vô vị lợi, niềm vui tự thân.

Ví dụ: Khi đứng trước một bức tranh. Có người nói: Bức tranh này rộng 2m, cao 3m, làm bẳng lụa, đây là phán đoán nhận thức. Có người nói: Họa sĩ này bán bức tranh để làm từ thiện: đây là phán đoán về đạo đức. Có người nói: Bức tranh này làm tôi dễ chịu: đây là phán đoán thẩm mỹ. Hai phán đoán trên đều có sự quan tâm, có tính mục đích, còn phán đoán thẩm mỹ thì không cần quan tâm đến cái cụ thể, cái thật, dễ chịu là một cảm tính.[ L’Intéresse là 1 sự thiết thân, chủ thể phải giữ một khoảng cách với đối tượng, không chiếm hữu, thì mới cảm nhận được cái đẹp]

2. Cái đẹp có tính phổ biến mà không có khái niệm. Khái niệm thì luôn có tính phổ biến và ngược lại.

3. Cái đẹp mang tính mục đích mà không  có mục đích

4. Cái đẹp có tính tất yếu và tính chủ quan.

Dùng những phạm trù quan trọng trong nhận thức, sử dụng các nghịch lý để làm nổi bật tính chất đặc thù của phán đoán thẩm mỹ. Bốn nội dung này tựa trên năng lực thông báo cho người khác một cách phổ biến (ta giả định rằng trong mỗi con người đều có trạng thái tâm thức giống nhau: đó là tâm thức cảm nhận cái đẹp)

Tâm thức con người có 3 yếu tố:

-Cảm năng (giác quan, sensibilité)

-Giác tính (L’entendement): có bộ máy tiên nghiệm, xác lập các phạm trù

-Trí tưởng tượng: Theo Kant, trí tưởng tượng đã tổng kết những thông tin cảm tính thu từ cảm năng, dựa vào sự hướng dẫn của giác tính. Martin Heidegger cho rằng đóng góp của Kant chỗ này rất lớn, nhưng đã Kant không đi sâu, Heidegger đã đi sâu vào yếu tố này.

=> Trong phán đoán nhận thức, giác tính giữ vai trò chỉ đạo.

=> Trong phán đoán thẩm mỹ, giác tính không có vai trò nổi bật, mà là sự hòa hợp của cả ba: cảm năng, giác tính, trí tưởng tượng.

Vì vậy phán đoán thẩm mỹ là một trò chơi tự do của ba quan năng đó. Kant vượt ra khỏi Duy lý, Khai minh, mở đường cho phong trào Lãng mạn, triết học Duy tâm thức, tựa trên “trò chơi hòa hợp của ba yếu tố trên”

Cái cao cả:

Aristote, Edmund Burke là những người đã bàn về cái cao cả, trác tuyệt.

Kant đặt vấn đề khác với họ:

-Cái cao cả không phải là thuộc tính của sự vật, chỉ có trong cảm thụ tự nhiên, nghệ thuật không  đạt đến được mà cái cao cả đến từ cảm thụ của con người. (Lyotard cho rằng đó là cái gì không thể diễn tả được). Cao cả toán học: số lượng. Cao cả Kim tự tháp: do giác tính chịu thua, trí tưởng tượng chịu thua trước quy mô. Bão tố: Con người không chịu thua, con người thấy mình cao hơn tự nhiên. Với cao cả, quan năng lý tính có tham dự vào. Việc nhất thể hóa các nhận thức rời rạc từ giác tính là công việc của lý tính.

Lý tính có bốn ý niệm: cái toàn thể (linh hồn)

Burke: Cao cả là hiện tượng tự nhiên làm ta kinh hoàng trong khi ta đang an toàn (mô tả trạng thái tâm thức)

Quan niệm  về cái cao cả của Kant có thể sụp đổ, nếu chúng ta không chấp nhận những tiền đề của ông.

Theo Bùi Văn Nam Sơn: Cảm giác mình đứng cao hơn tự nhiên là cảm giác luân lý, không  phải là cảm giác thẩm mỹ.

Kant: Cái cao cả không  có trong nghệ thuật, tại sao?

-Nghệ thuật là sản phẩm của tài năng thiên bẩm. Theo Kant, trong tài năng thiên bẩm: bản thân nó đã có cái cao cả, cái cao cả nằm trong chủ thể sáng tạo: độc đáo, duy nhất, đích thực (k sao chép) phong cách không thể bắt chước được, như thể tự nhiên mang lại kích thước cho nhà văn: đây là mỹ học về thiên tài, học thuyết về sáng tạo, lý luận về nghệ thuật của Kant.

-Ý niệm thẩm mỹ:  Lý tính tạo ra các ý niệm toàn thể, tuyệt đối, vô điều kiện mà giác tính không sánh được, hướng dẫn nhận thức của chúng ta.

Trong nghệ thuật, có một cái là ý niệm thẩm mỹ.  Ý niệm của lý tính là ý niệm trừu tượng mà nhận thức cảm tính không vươn đến nổi, con người không hình dung nổi (Ví dụ: Thượng đế..), còn trong ý niệm thẩm mỹ thì không  có một  khái niệm của lý tính nào vươn tới được (Ví dụ: bức tranh Đôi giầy của Van Gogh), quan niệm này đã gợi hứng cho thông diễn học triển khai tính đa nghĩa của nghệ thuật, chân trời kỳ vọng của tiếp nhận./.

                                                                                 (Nguyễn Thị Thanh Xuân ghi)