Phan Văn Đạt (1828 - 1861) tự Minh Phủ, quê ở thôn Bình Thanh huyện Tân Thạnh phủ Tân An (nay thuộc tỉnh Long An). Ông là một nho sĩ có khí tiết, học rộng hiểu thông, đỗ Cử nhân năm Canh Thân (1860) đời vua Tự Đức tại trường thi Gia Định. Theo Nguyễn Thông, một người cùng thời với Phan Văn Đạt, thì ông không có tiền đi nhậm chức, phải nhờ bạn bè em cháu giúp đỡ một số tiền. Nhưng sau khi đến Huế, do ghét thói a dua, xu nịnh chốn quan trường nên ông lập tức từ quan trở về phụng dưỡng song thân(2). Vốn tính khảng khái, cương trực nên được dân làng nể trọng, mỗi khi có việc tranh tụng họ đều nhờ ông phân xử. Vì thế lúc bấy giờ có câu “Muốn biết nặng nhẹ hỏi mặt cân, muốn được công bằng tìm Phan Văn Đạt”(3). Tuy cả cuộc đời không giữ trọng trách gì ở triều đình, nhưng trước cảnh thực dân Pháp xâm lược đất nước, tàn sát người vô tội, ông vẫn một lòng vì nước vì dân, luôn canh cánh nỗi đau và lòng căm hận. Vì thế, sau khi cha ông mất, chôn cất xong, ông vừa ngậm ngùi vừa dõng dạc tuyên bố: “Việc riêng ta đã xong, từ nay sẽ theo đời xoay chuyển(4)”. Thế là ông quyết định cùng cậu là Trịnh Quang Nghị dựng cờ khởi nghĩa, lập căn cứ ở phía nam cầu Biện Triệt, phát hịch chiêu mộ nghĩa binh chống Pháp.
Xem tiếp...