Nhiều sinh viên tỏ ra thích thú khi lần đầu tiên được học, hoá thân thành "bác sĩ" phục chế sách cổ và tự tay sửa từng chi tiết bị hư hỏng trên trang giấy của sách Hán Nôm cổ.

Không giống như những lớp học thông thường khác ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM, các sinh viên chuyên ngành Hán Nôm của Khoa Văn học được trải nghiệm phục chế những trang sách cổ ngay tại trường. 

Lớp học hơn 15 sinh viên. Ở đây, ngoài việc học lý thuyết, sinh viên còn được thực hành, hóa thân thành "bác sĩ" và tận tay phục chế những trang sách cổ hư hỏng. 

20230525

1. Lê Văn Đức 黎文德 (1793 - 1842) là danh thần đầu triều Nguyễn, phụng sự ba đời vua: Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị. Quê ông ở cù lao Bảo thuộc tổng Tân An - châu Định Viễn - dinh Phiên Trấn (nay thuộc tỉnh Bến Tre)(1). Ông đỗ Cử nhân khoa Quý Dậu (Gia Long năm thứ 12 - 1813), sau đó được bổ làm Tri huyện ở Tri Viễn. Từ năm 1822 đến năm 1828 (Minh Mệnh năm thứ 3 đến năm thứ 9), ông lần lượt giữ nhiều chức vụ khác nhau: Lang trung Bộ Công, Thiêm sự, Ký lục trấn Bình Hòa sung Giám thị trường Nam Định, Hữu Thị lang Bộ Công, Hữu Thị lang Bộ Binh, Toản tu bách quan chức chế, Tham tri Bộ Binh, Thự Thượng thư Bộ Binh.

K.VH - Vừa qua, Phòng Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Khoa Văn học đã nhận được hơn 600 quyển sách do gia đình cố PGS. TS Lê Tiến Dũng gửi tặng. Số sách dồi dào về lượng và phong phú về chuyên đề, lĩnh vực sẽ là nguồn tài liệu học tập và nghiên cứu quý giá cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh của khoa.

Giáo sư Bửu Cầm giảng dạy ở Đại học Văn khoa Sài Gòn từ năm 1958. Đến năm 1976, trường Đại học Văn khoa Sài Gòn đổi tên thành Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ chí Minh, Giáo sư vẫn tiếp tục giảng dạy ở đây đến năm 1980, khi ông tự xin về hưu. Trước năm 1975, ngoài việc giảng dạy chuyên môn, bảo trợ nhiều tiểu luận Cao học và luận án Tiến sĩ, ông còn viết nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử, văn học, mà nhất là về văn hoá, phần lớn công bố trên tạp chí Văn hoá nguyệt san, một tạp chí có uy tín lớn về học thuật bấy giờ. Tập san Sử Địa, Tập san Khảo cổ, Đồng Nai văn tập cũng là những tạp chí thường đăng tải bài viết của ông. Theo bước đầu tìm hiểu của chúng tôi, số bài ông viết và gửi đăng từ năm 1957 đến 1973, hầu hết là khảo cứu, khoảng 50 bài. Về sách, ông biên soạn hoặc tham gia biên soạn, dịch thuật, hiệu đính, khoảng 20 đầu sách, và hầu hết cũng là khảo cứu, xuất bản rải rác từ 1949 đến 1969.

1. TỔNG QUAN

Để nghiên cứu về con người và sự nghiệp thơ văn của Cao Bá Quát, việc sưu tầm và xử lý văn bản tác phẩm của ông phải là công việc đầu tiên.

Tác phẩm Cao Bá Quát được lưu truyền đến nay chỉ bằng con đường chép tay. Điều này dễ dẫn đến, mà thực tế cho thấy, sự nhầm lẫn tác phẩm của Cao Bá Quát với tác phẩm của tác gia khác, và ngược lại. Việc xác định tác phẩm nào đích thực của Cao Bá Quát do vậy là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, đây là việc vô cùng khó khăn vì hiện trạng lưu truyền thơ văn Cao Bá Quát. Thêm vào đó, việc xác định một tác phẩm văn học theo phong cách học cũng không là điều dễ dàng, nhất là đối với các tác gia văn học trung đại. Chúng tôi trong công việc này cũng chỉ dám xem là công việc có tính bước đầu.

TÓM TẮT

Chữ Nôm là hệ thống chữ viết ghi âm tiếng Việt, được sử dụng rộng khắp từ thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XX; tuy nhiên, chữ Nôm chưa từng được Nhà nước điển chế hoá. Do vậy, trong quá trình phát triển, chữ Nôm để lại nhiều cách viết, nhìn chung là thường mang màu sắc địa phương, phản ánh đặc điểm ngữ âm vùng miền. Chữ Nôm Nam Bộ rất tiêu biểu ở đặc điểm này. Bài viết này nhằm đưa ra một hướng lý giải mới ở một số phương diện chữ Nôm phản ánh ngữ âm địa phương (ngữ âm Nam Bộ), trên cơ sở khảo sát văn bản Nôm Kim cổ kỳ quan của Nguyễn Văn Thới.

Từ khoá: Chữ Nôm, chữ Nôm Nam Bộ, Kim cổ kỳ quan, Nguyễn Văn Thới.

Phan Văn Đạt (1828 - 1861) tự Minh Phủ, quê ở thôn Bình Thanh huyện Tân Thạnh phủ Tân An (nay thuộc tỉnh Long An). Ông là một nho sĩ có khí tiết, học rộng hiểu thông, đỗ Cử nhân năm Canh Thân (1860) đời vua Tự Đức tại trường thi Gia Định. Theo Nguyễn Thông, một người cùng thời với Phan Văn Đạt, thì ông không có tiền đi nhậm chức, phải nhờ bạn bè em cháu giúp đỡ một số tiền. Nhưng sau khi đến Huế, do ghét thói a dua, xu nịnh chốn quan trường nên ông lập tức từ quan trở về phụng dưỡng song thân(2). Vốn tính khảng khái, cương trực nên được dân làng nể trọng, mỗi khi có việc tranh tụng họ đều nhờ ông phân xử. Vì thế lúc bấy giờ có câu “Muốn biết nặng nhẹ hỏi mặt cân, muốn được công bằng tìm Phan Văn Đạt”(3). Tuy cả cuộc đời không giữ trọng trách gì ở triều đình, nhưng trước cảnh thực dân Pháp xâm lược đất nước, tàn sát người vô tội, ông vẫn một lòng vì nước vì dân, luôn canh cánh nỗi đau và lòng căm hận. Vì thế, sau khi cha ông mất, chôn cất xong, ông vừa ngậm ngùi vừa dõng dạc tuyên bố: “Việc riêng ta đã xong, từ nay sẽ theo đời xoay chuyển(4)”. Thế là ông quyết định cùng cậu là Trịnh Quang Nghị dựng cờ khởi nghĩa, lập căn cứ ở phía nam cầu Biện Triệt, phát hịch chiêu mộ nghĩa binh chống Pháp.

Tiểu sử giáo sư Bửu Cầm trong “Who’s who in Viet Nam”, Vietnam Press – Saigon, 1972

Người dịch: Nguyễn Tri Tài

Tên họ: Bửu Cầm

Ngày và nơi sinh: 14-8-1920 Huế - Trung bộ Việt Nam

Cháu bốn đời của hoàng tử Tuy Lý Vương, một thi hào nổi tiếng thời vua Tự Đức (1847-83), con ông Ưng Oanh và bà Trịnh Thị Tố đều là thi sĩ.

Chứa vụ hiện tại:

Danh mục website