Sự thực nào cho "Mộng Mai từ lục" của Đào Tấn

Đào Tấn (1845-1907) là tác giả có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam thời Trung đại. Sáng tác của ông, theo các tư liệu hiện còn, có thể phân làm ba mảng, gồm: tuồng, thơ từ. Dễ nhận thấy với Đào Tấn, tuồng là thể loại được dụng công nhiều nhất và cũng chính thể loại này đã khiến cho tên tuổi của ông trở thành bất hủ. Chính vì vậy, nhắc đến Đào Tấn, người ta sẽ nghĩ ngay đến thể loại tuồng. Tuy nhiên, theo các tư liệu đã công bố cho đến thời điểm này, Đào Tấn không chỉ để lại các tác phẩm tuồng, thơ, mà còn để lại một từ tập mang tên là Mộng Mai từ lục (từ đây viết tắt là MMTL), gồm 60 bài từ, trong đó có không ít bài đạt đến trình độ nghệ thuật trác tuyệt.

Ta đều biết, xưa, phàm là người theo đòi khoa cử thảy đều biết làm thơ, đều có thể trở thành nhà thơ, nhưng để trở thành từ gia thì khó khăn hơn rất nhiều, không chỉ đơn giản là vì từ không được ứng dụng trong khoa cử, mà còn vì chính sự phức tạp, tinh vi vốn có của thể loại này đòi hỏi người điền từ vừa phải tinh thông từ luật, lại cần phải có tố chất nghệ sĩ rất cao. Tại Việt Nam, từ là thể loại văn học không có nhiều thành tựu, do đó, với một từ tập có dung lượng lớn, thành tựu nghệ thuật cao như MMTL hiện còn, Đào Tấn xứng đáng là một trong những gương mặt từ gia sáng giá nhất trong lịch sử văn họcViệt Nam.

Cũng như sáng tác của hàng loạt tác gia Trung đại khác, sáng tác từ của Đào Tấn hiện không còn bản thảo gốc do đích thân tác giả chấp bút, các tác phẩm được chép rải rác trong nhiều sách khác nhau, bản đầy đủ hơn cả và được coi là “đáng tin cậy hơn hết” do hai con gái của tác giả là Trúc Tiên và Chi Tiên kí lục, Tịnh Ba (hay Tĩnh Ba) phụng sao vào thượng tuần tháng Chạp năm Giáp thìn (1964)(1). Nhờ sự nỗ lực của một số dịch giả, nhà nghiên cứu, 24 bài từ của Đào Tấn đã được dịch, giới thiệu lần đầu vào năm 1987, qua sách Thơ và từ Đào Tấn (Nhà xuất bản Văn học, H, 1987), và được giới thiệu toàn bộ (60 bài) vào năm 2003, qua sách Đào Tấn thơ và từ (Nhà xuất bản Sân khấu, H, 2003).

Nhưng vấn đề đặt ra là, trong văn học cổ trung đại Việt Nam, rất ít tác giả sáng tác theo thể loại từ, vậy Đào Tấn có thực đã từng sáng tác theo thể loại từ và MMTL có đích xác là từ tập của Đào Tấn hay không?

Đào Tấn từng sáng tác theo thể loại từ, sự thực đó đã được Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì, và sau đó là con gái tác giả khẳng định. Đương thời, Nguyễn Trọng Trì trong bài thơ Đọc MMTL đánh giá rất cao về các tác phẩm từ của Đào Tấn, cho là từ của ông có cái hào mại, phóng khoáng theo phong cách của phái từ hào phóng kiểu Tô Đông Pha; lại kiêm thâu nét diễm tình lả lướt của Liễu Tam Biến:

Gối lạ đèn côi giấc chẳng thành,

Mộng Mai từ lục đọc thâu canh.

Luật âm phóng khoáng Tô khôn sánh,

Ý tứ cao xa Liễu khó bằng.

Sông núi, nước nhà, oằn nặng nghĩa;

Trăng hoa, oanh liễu, láng lai tình.

Ba năm chưa gặp ông Đào được,

Đọc hết từ ông, tựa thấy hình.

(Vũ Ngọc Liễn và Mịch Quang dịch).

Tô, tức Tô Thức (1037-1101), người khai sinh ra phái từ hào phóng, một trong hai phái từ căn bản nhất trong từ sử, làm biến đổi tiến trình phát triển của từ, tạo ra ngả rẽ mới, phong cách mới, các từ nhân từ Hoàng Đình Kiên (Một trong “Tô môn tứ đệ tử”), Hạ Chú, Tân Khí Tật thời Nam Tống đến Nguyên Hiếu Vấn, Tát Đô Lạt thời Nguyên, Trần Tử Long thời Minh, Trần Duy Tung, Cung Tự Trân thời Thanh, thậm chí đến phái từ Dương Tiện và cả các sáng tác từ của Mao Trạch Đông… đều chịu ảnh hưởng của ông. Các nhà từ luận thời quân chủ cho từ của Tô Thức “khiến cho người ta lên cao trông xa, ngẩng đầu cất cao giọng hát, mà cái hạo khí hoài cổ siêu vượt ra ngoài cõi bụi bặm” (Hồ Dần: Tửu Biên từ tự), “chỉ ra một con đường mới mẻ, làm mới tai mắt của thiên hạ, người cầm bút mới biết tự mình phát huy” (Vương Chước: Bích Kê mạn chí). Tô Thức không chỉ là một từ nhân “tự thị nhất gia” (Dữ Tiên Vu Tử Tuấn) thời Bắc Tống, mà còn là từ nhân kiệt xuất trong từ sử Trung Hoa.

Liễu, tức Liễu Vĩnh (987-1053), một trong những tác giả tiêu biểu nhất của phong cách từ uyển ước. Liễu Vĩnh dồn tâm huyết cả đời cho việc điền từ. Tác phẩm của ông được “thiên hạ ca vịnh” (Hậu Sơn thi thoại), “phàm những nơi có giếng uống nước đều hát từ của của Liễu Vĩnh” (Tị thử lục thoại)... các từ nhân lớn đời sau như Hoàng Đình Kiên, Tần Quán, Chu Bang Ngạn... đều chịu ảnh hưởng của ông. Không chỉ vậy, trong các thoại bảnhí kịch thời Kim - Nguyên nhiều tác phẩm vẫn lấy nội dung các bài từ của Liễu Vĩnh làm đề tài. Trong các từ gia thời Bắc Tống, Liễu Vĩnh không những được đánh giá là từ nhân chuyên nghiệp nhất mà còn là từ nhân có nhiều đóng góp cho sự phát triển của thể loại từ, đồng thời tạo được ảnh hưởng lớn nhất trong xã hội(2).

Sơ lược vài nét về hai từ gia kiệt xuất vào bậc nhất, tiêu biểu cho hai phong cách từ học chính trong từ sử là Tô Thức và Liễu Vĩnh đủ thấy lời thơ của Nguyễn Trọng Trì là những lời tán dương đầy hữu nghị đối với tác giả họ Đào. Nhưng điều đáng nói là thông qua bài thơ, Nguyễn Trọng Trì đã khẳng định một chi tiết hết sức quan trọng rằng Đào Tấn từng sáng tác hẳn một từ tập mang tên MMTL.

Vào tháng 1 năm 1979, trong dịp tiếp xúc với bà Chi Tiên tại thành phố Hồ Chí Minh, Vũ Ngọc Liễn, người dành nhiều tâm huyết trong việc nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Đào Tấn đã đem toàn bộ danh mục tác phẩm của Đào Tấn mà ông đã sưu tập được “hỏi ý kiến bà để tìm giải đáp về những điều tồn nghi”, đặc biệt là “những điều tồn nghi về từ”. Nói về các tác phẩm từ của Đào Tấn, bà Chi Tiên cho biết: “Từ của Tiên nghiêm tôi có những bài phỏng theo điệu Sở từ, hoặc Tống từ, có nhiều bài do Tiên nghiêm tôi viết theo điệu riêng của mình...”(3).

Xét lời bộc bạch của bà Chi Tiên, có hai cái sai, một trong hai cái sai đó rất hiển nhiên.

Thứ nhất, bà Chi Tiên cho rằng Đào Tấn đã phỏng theo Sở từ để sáng tác. Điều này hoàn toàn sai. Lí do vì Sở từ là thể loại riêng (có liên quan đến thể phú - từ phú), không có quan hệ gì với thể loại từ - khúc tử từ - như ta đang đề cập.

Thứ hai, bà Chi Tiên đã đúng khi nói rằng thân phụ bà đã sáng tác theo Tống từ, song khảo sát kĩ các tác phẩm từ trong MMTL sẽ nhận thấy tất cả các bài từ trong từ tập này đều được sáng tác theo các từ điệu vốn có của Trung Quốc, từng lưu truyền rộng rãi và được từ phổ ghi nhận; không có bất cứ một bài từ nào là do tác giả “viết theo điệu riêng của mình”.

Cho hay, người chép lại tác phẩm từ của Đào Tấn vốn dĩ không có hiểu biết nhiều về thể loại từ, không rõ người sao lục lại sau đó như Tịnh Ba tiên sinh rồi Nguyễn Tòng tiên sinh có rơi vào tình trạng tương tự như thế hay không?(4)

Trong thời đại văn hóa cảo bản, tác phẩm lưu hành chủ yếu qua các bản chép tay, qua sự sao lục nhiều lần, nhất là khi người sao lục không thông tường về những tác phẩm mình đang chép, thì tình trạng “chữ tác () thành chữ tộ (), chữ ngộ () thành chữ quá ()” e khó lòng tránh khỏi.

Vấn đề tiếp theo được đặt ra là, MMTT là từ tập của Đào Tấn, nhưng các tác phẩm từ trong MMTL hiện còn liệu có phải đều là của Đào Tấn hay không?

Liên quan đến vấn đề văn bản học tác phẩm, tuy các tác giả sách Thơ và từ Đào Tấn, rồi sau đó là Đào Tấn thơ và từ đã có những thận trọng cần thiết về văn bản, song kể từ khi các tác phẩm từ của Đào Tấn bước đầu được giới thiệu vào năm 1987 đến lần giới thiệu đầy đủ hơn vào năm 2003, vấn đề văn bản học của MMTL vẫn chưa được giải quyết đáng kể.

Sớm hơn thời điểm các tác phẩm từ của Đào Tấn được công bố trọng rãi hai năm, vào năm 1985, trong sách Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Xuân Diệu từng viết một bài dài về thơ và từ của Đào Tấn. Nhà thơ họ Ngô nổi tiếng với tất cả niềm yêu quý, trân trọng, đã tiến hành phân tích, cảm thụ, và dành cho các sáng tác từ của Đào Tấn sự ưu ái dị thường(5). Từ đó đến nay, rải rác đây đó cũng có thêm một số bài viết khác về từ của Đào Tấn(6), song đáng tiếc là nội dung các bài viết thường chỉ là điểm bình, phát huy nghĩa lí, hoặc giả là thiên về một lối phê bình mang màu sắc ấn tượng nào đó hơn là tư duy khoa học. Có giá trị nhất, khoa học nhất là bài viết mang tên Vấn đề văn bản học của một số bài từ Đào Tấn của Trần Văn Tích(7). Song có lẽ vì ông Trần cư trú ở hải ngoại, điều kiện cập nhật các ấn phẩm trong nước bị hạn chế, nên ông mới chỉ khảo cứu văn bản của 24 bài từ Đào Tấn trong Thơ và từ Đào Tấn in năm 1987 mà chưa khảo cứu toàn bộ 60 bài từ được giới thiệu trong Đào Tấn thơ và từ in năm 2003. Tuy nhiên, với tinh thần khách quan, khoa học, Trần Văn Tích đã tiến hành khảo cứu một cách tỉ mỉ và thận trọng 24 bài từ của Đào Tấn, từ đó đính chính được nhiều sai lầm về văn bản. Tiếc rằng ông Trần không vận dụng đến tư duy biện ngụy, nên bài viết còn có hạn chế rất lớn. Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành khảo cứu, giám định văn bản toàn bộ 60 bài từ trong MMTL, ngõ hầu giải quyết vấn đề văn bản tác phẩm từ của Đào Tấn một cách trọn vẹn hơn.

Số thứ tự các bài được khảo cứu, giám định vẫn giữ nguyên như trong Đào Tấn thơ và từ (Nhà xuất bản Sân khấu, H, 2003). 

I. MMTL: BIỆN NGỤY

Nhìn về tổng quan, MMTL là một từ tập khá dày dặn. Nếu tất cả các bài từ này đều đích thực là sáng tác của Đào Tấn, thì trong từ sử Việt Nam, xét riêng về số lượng tác phẩm, theo thống kê của chúng tôi tính đến thời điểm này, Đào Tấn có thể xếp thứ ba.

Xét về phong cách nghệ thuật, MMTL phần lớn thuộc về phong cách từ uyển ước, nhiều tác phẩm đạt trình độ nghệ thuật điêu luyện, trong đó có một số có thể sánh với các từ phẩm thuộc hàng xuất nhất trong từ sử Trung Hoa. Trên phương diện này, có thể nói Đào Tấn là từ gia hàng đầu trong từ sử Việt Nam.

Về đề tài, MMTL phản ánh một phạm vi rất rộng lớn, có niềm ưu tư quốc nạn, lữ thứ hoài hương, li tình biệt hận, nam nữ tương tư… Về phương diện này, MMTL cơ bản đều rất đúng với “bản sắc đương hành” của thể loại.

Nhưng liệu những thành tựu ấy có thuộc về Đào Tấn hay không? Hay nói cách khác, MMTL hiện còn có phải của Đào Tấn, hay chỉ là một tác phẩm ngụy tạo như Cổ điệu ngâm từ hoặc Cưu đài thi tập?(8)

Tiến hành khảo sát sơ bộ, kết quả cho thấy, bản MMTL hiện còn có nhiều dấu hiệu bất ổn: nhiều bài ghi sai từ điệu (như các bài 1, 7…)(9), nhiều bài tàn khuyết (như các bài 2, 7, 40, 44…)(10), nhiều bài chỉ có từ đề, không có tên từ điệu (như các bài 4, 5, 14, 15, 16…)(11).

Đọc kĩ toàn tập, nội dung nhiều bài hết sức “khả nghi”, chẳng hạn xét về địa danh được nhắc đến trong các bài từ:

Nếu như trong bài từ thứ 6, điệu Lâm giang tiên, câu thứ hai phần hạ phiến bài từ này ghi: “Tung khâu kỉ độ đăng lâu” (嵩丘幾度登樓 – Non Tung mấy độ lên lầu) - “Tung khâu”, tức núi Tung Sơn của Trung Quốc - thì ở bài từ thứ 56, điệu Trường tương tư, câu thứ hai phần thượng phiến lại nói cảnh mưa gió ở Giang Nam (Tam nguyệt Giang Nam yên vũ thì – Tháng Ba lúc Giang Nam mưa, khói). Còn trong bài từ thứ 13, điệu Tiểu trùng san, bốn câu cuối lại nói về tâm trạng hoài vọng về cố quốc của tác giả khi sống ở khu vực sông Tiêu, sông Tương. Phải chăng Đào Tấn từng đi sang Trung Quốc, nhiều lần lên Tung Sơn, du ngoạn đất Giang Nam tươi đẹp, lênh đênh trên vùng Tiêu Tương?

Xét về phong cách từ học, bài từ thứ 31, điệu Mộc lan hoa nguyên văn như sau:

Nguyên văn

Phiên âm:



.

滿.


夜夜.

.

MỘC LAN HOA
tâm hận hoa vãn

Biệt hậu tương trường tại nhãn.
Lan khâm do hữu cựu thời hương

Mỗi đáo mộng hồi châu lệ mãn.

Đa ưng bất tín nhân trường đoạn,
Kỉ dạ dạ hàn thùy noãn.
Dục tương ân ái kết lai sinh,
Chỉ khủng lai sinh duyên hựu đoản.

Bài từ ngôn từ thướt tha, tình điệu bi sầu não nuột. Bài này gần với phong cách từ Trung Quốc giai đoạn từ Ôn Đình Quân (Hoa gian tị tổ) đến đầu thời Tống, đặc biệt xa lạ với phong cách từ của các từ gia Việt Nam.

Bài từ thứ 34, điệu Cán khê sa, nguyên văn như sau:

Nguyên văn

Phiên âm:



,
.


,
.

CÁN KHÊ SA
Mạc vấn phùng xuân năng kỉ hồi,
Năng ca năng tiếu thị đa tài,
Lộ hoa do hữu hảo chi khai.

Lục mấn cựu nhân giai lão đại,
Hồng lương tân yến hựu quy lai,
Tận tu trân trọng chưởng trung bôi.

 

Đọc bài từ, dễ nhận thấy hạ phiến phảng phất ý vị hai câu nổi tiếng trong bài từ cùng điệu của Yến Thù thời Bắc Tống:

無可奈何花落盡,

似曾相識燕歸來.

Phiên âm:

Vô khả nại hà hoa lạc tận,

Tự tằng tương thức yến quy lai.

Dịch nghĩa:

Chẳng biết làm sao hoa rụng hết,

Như từng quyen biết, én bay về .

Bài từ thứ 52, điệu Ngu mĩ nhân, nguyên văn như sau:

Nguyên văn

Phiên âm:


,
.
,
.


,
.
,
.

NGU MĨ NHÂN
Trì bôi dao khuyến thiên biên nguyệt,
Nguyện nguyệt viên khuyết.
Trì bôi cánh phục khuyến hoa chi,
Thả nguyện hoa chi trường tại, mạc li phi.


Trì bôi nguyệt hạ hoa tiền túy,
Hưu vấn vinh khô sự.
Thử hoan năng hữu kỉ nhân tri,
Đối tửu phùng hoa bất ẩm, đãi thì.

Có thể thấy câu thứ hai của phần thượng khuyết: “Nguyện nguyệt viên vô khuyết” (願月圓無缺/ Mong trăng tròn chẳng khuyết) gợi cho người đọc liên hệ đến hai câu trong bài từ nổi tiếng điệu Minh nguyệt kỉ thời hữu (明月幾時有) điệu Thủy điệu ca đầu (水調歌頭) của Tô Thức: “Nhân hữu bi hoan li hợp/ Nguyệt hữu âm tình viên khuyết” (人有悲歡離合/月有陰晴圓缺: Người có buồn vui li hợp/ Trăng có mờ, tỏ, tròn, khuyết).

Phải chăng chí ít Đào Tấn đã ảnh hưởng phong cách từ của Hoa gian phái, Yến Thù, và cả Tô Thức?

Để giải đáp các nghi vấn xung quan từ tập này, sau một thời gian dài nghiên cứu, giám định văn bản, kết quả như sau:

MMTL hiện còn là một từ tập hết sức bác tạp, nhiều lần lẫn, trong đó ít nhất có đến 38 bài (trên tổng số 60, chiếm tỷ lệ 63,33%) chép y nguyên các tác phẩm từ của Trung Quốc từ thời Tống đến thời Thanh (Một số bài có sai khác, song sự sai khác đó chỉ là do chép thiếu, chép nhầm mà thôi. Về tác phẩm của các tác giả Trung Quốc này, có thể xem trong các bộ toàn tập, tổng tập về từ như: Toàn Tống từ, Minh từ tổng…). Các tác giả Trung Quốc có tác phẩm được chép nhiều nhất thuộc các từ gia thời Tống, gồm: Ngô Tiềm (4 bài), Lý Thạch (3 bài), Tô Thức (2 bài), Yến Cơ Đạo (2 bài), Chu Đôn Nho (2 bài) và Lưu Học Cơ (2 bài).

Tổng hợp các kết quả biện ngụy, giám định văn bản sau khi đã đính chính một số nhầm lẫn về từ đề, bổ sung về từ điệu, ta được bảng thống kê sau đây:

STT

Bài số

Từ điệu (Từ đề)

Tác giả

Thời đại

1.       

1

Ngu mĩ nhân

Tưởng Tiệp (蔣捷)

Tống - Nguyên

2.       

2

Nhất lạc sách

Chu Bang Ngạn (周邦彥)

Tống

3.       

6

Lâm giang tiên

Nguyên Hiếu Vấn (元好問)

Nguyên

4.       

8

Trường tương tư

Chu Tư Khiêm (周思兼)

Minh

5.       

10

Ức vương tôn

Uông Nguyên Lượng (汪元量)

Tống

6.       

12

Ngu mĩ nhân

Ngô Bang Trinh (吳邦楨)

Minh

7.       

13

Tiểu trùng sơn

Lưu Cơ (劉基)

Nguyên - Minh

8.       

15

Bồ tát man

(Lưu xuân)

Trịnh Bản Kiều (鄭板橋)

Thanh

9.       

16

Điểm giáng thần

(Tống xuân)

Mao Kì Linh (毛奇龄)

Thanh

10.   

17

Bồ tát man

Trương Chứ (張翥)

Nguyên

11.   

19

Như mộng lệnh

Ngô Tiềm (吳潛)

Tống

12.   

21

Điệp luyến hoa

Ngô Tiềm

Tống

13.   

23

Chuyển ứng khúc

Giải Tấn (解縉)

Minh

14.   

31

Mộc lan hoa

Yến Cơ Đạo (晏几道)

Tống

15.   

32

Tây giang nguyệt

(Thu hứng)

Trình Bột (程馞)

Minh

16.   

33

Phượng thê ngô

Ngô Trúc Dự (吳竹嶼)

Thanh

17.   

34

Cán khê sa

Yến Cơ Đạo

Tống

18.   

35

Triều trung thác

Trương Chứ

Nguyên

19.   

36

Trường tương tư

Lưu Học Cơ (劉學箕)

Tống

20.   

37

Như mộng lệnh

Ngô Tiềm

Tống

21.   

39

Như mộng lệnh

Tần Hàn Sinh (秦瀚先)

Minh

22.   

40

Điệp luyến hoa

Hoàng Hồng (黃鴻)

Minh

23.   

41

Bồ Tát man

(Tống xuân)

Nghê Phủ (倪撫)

Minh

24.   

42

Ức vương tôn

Cát Nhất Long (葛一龍)

Minh

25.   

43

Ngu mĩ nhân

Hàn Tăng Câu (韓曾駒)

Minh

26.   

44

Hoa phi hoa

Kế Nam Dương (計南陽)

Minh

27.   

48

Canh lậu tử

Ngô Tiềm

Tống

28.   

49

Ức Tần nga

Lưu Bính (劉昺)

Minh

29.   

51

Ngư phủ

Tô Thức (蘇軾)

Tống

30.   

52

Ngu mĩ nhân

Tô Thức

Tống

31.   

53

Nguyễn lang quy

Trương Luân (張掄)

Tống

32.   

54

Phong nhập tùng

Hàn Hổ (韓淲)

Tống

33.   

55

Lâm giang tiên

Lí Thạch (李石)

Tống

34.   

56

Trường tương tư

Lí Thạch

Tống

35.   

57

Ngư gia ngạo

Lí Thạch

Tống

36.   

58

Tương kiến hoan

Chu Đôn Nho (朱敦儒)

Tống

37.   

59

Nhất lạc sách

Chu Đôn Nho

Tống

38.   

60

Giá cô thiên

Lưu Học Cơ

Tống

Tổng số trong MMTL hiện còn có 38 bài từ đã được xác định là tác phẩm của các tác giả Trung Quốc từ thời Tống đến thời Thanh(12).

Như vậy, để khỏi nghiên cứu nhầm, tránh dẫm vào vết xe đổ như một số nhà nghiên cứu về từ của Đào Tấn trước đây đã phạm phải, cần dứt khoát loại 38 bài này khỏi MMTL.

II. ĐI TÌM TÁC PHẨM TỪ ĐÍCH THỰC CỦA ĐÀO TẤN

Sau khi đã loại bỏ 38 bài từ của các giả Trung Quốc khỏi MMTL, số lượng từ trong MMTL chỉ còn 22 tác phẩm. Trong một tập sách có lẫn quá nhiều tác phẩm từ của Trung Quốc, câu hỏi được đặt ra là: Trong số 22 tác phẩm còn lại, liệu có phải tất cả đều là của Đào Tấn?

Ta đều biết rằng, Đào Tấn (陶進) sinh năm 1845, mất năm 1907. Ông quê ở làng Vinh Thạnh, phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định;.là người có hàm dưỡng sâu sắc về nho học, thi đậu Cử nhân khoa thi năm Đinh mão (1867, dưới thời Tự Đức), từng nắm giữ các chức vụ quan trọng (Phủ doãn Thừa Thiên, Thượng thư bộ Công, Thượng thư bộ Hình…) và làm quan nhiều nơi như Huế, Nghệ An – Hà Tĩnh… Khi Đào Tấn tại thế, hẳn không ai ngụy tạo ra tác phẩm từ của ông. Sau khi ông mất ít năm, chế độ khoa cử cũng bị bãi bỏ, số người tinh thâm Hán học ngày một hiếm, dẫu vì động nào đi chăng nữa, người đời sau dù có muốn ngụy tạo ra các tác phẩm từ trình độ nghệ thuật cao, giàu cảm xúc như các bài từ trong MMTL cũng là việc “lực bất tòng tâm”.

Xem xét kết quả biện ngụy ở trên. Trong số 60 bài thuộc MMTL tuy có đến 38 (chiếm tỉ lệ 63,33%) bài là tác phẩm từ của Trung Quốc. Số lượng đó tuy rất lớn song không có dấu hiệu chứng tỏ có sự ngụy tạo. Lí do dẫn đến hiện tượng trên có thể do trước nhiều tư liệu khác nhau do Đào Tấn để lại, người sao lục không phân biệt được đâu là tác phẩm đích thực của Đào Tấn, đinh ninh tất cả đều là của ông nên chép gộp vào, vô tình đã chép nhầm cả tác phẩm từ của Trung Quốc.

Từ các lí do trên đây, ta có thể chắc MMTL không phải tác phẩm ngụy tạo, mà chỉ bị lẫn tác phẩm từ của các tác giả Trung Quốc. Do vậy, muốn xác định các bài từ đích thực của Đào Tấn chỉ cần tìm ra yếu tố Việt Nam trong tác phẩm. Theo hướng này, trước hết ta đi tìm các bài từ có nhắc đến các các sự kiện xẩy ra ở Việt Nam, đặc biệt là các sự kiện xẩy ra vào giai đoạn Đào Tấn còn tại thế cùng các bài có nhắc đến các nhân danh, địa danh thực của Việt Nam.

Trong 22 bài còn lại, không có tác phẩm nào nhắc đến các sự kiện, tên người cụ thể.

Tác phẩm có nhắc đến địa danh thực của Việt Nam gồm các bài:

1. Bài từ thứ 3, điệu Ngư phủ từ

2. Bài từ thứ 4: Quá Kim Long dịch, điệu Tiểu trùng san

3. Bài từ thứ 7, điệu Tô mạc già

4. Bài từ thứ 25, điệu Ngu mĩ nhân

5. Bài từ thứ 26, điệu Điệp luyến hoa

6. Bài từ thứ 29, điệu Lâm giang tiên

7. Bài từ thứ 30, điệu Bồ tát man

8. Bài từ thứ 50, Yết Hương Bình

 

Các địa danh được nhắc đến gồm:

1.     Sông Hương (được nhắc 6 lần)

2.     Núi Ngự (2 lần)

3.     Trạm dịch Kim Long (hay còn gọi là Kim Luông, tại Huế)

4.     Thành Quy Nhơn

Dễ nhận thấy, các địa danh kể trên đều ở Quy Nhơn và đặc biệt là xứ Huế.

Tại sao lại có hiện tượng như trên? Tại sao trong các bài từ không nhắc đến các địa danh khác ngoài Quy Nhơn và Huế? Rất đơn giản, là vì Quy Nhơn là quê hương của Đào Tấn, còn xứ Huế là nơi ông làm quan gần 20 năm. Kết quả khảo sát trên đây cũng khiến ta tin chắc rằng MMTL không phải tác phẩm ngụy tạo, chỉ có lẫn các tác phẩm từ của Trung Quốc. Đồng thời cũng từ kết quả khảo sát trên, ta có niềm tin rằng Đào Tấn sáng tác MMTL trong thời gian ông làm quan tại Huế(13).

Như vậy, dựa vào địa danh được nhắc đến trong các bài từ, ta xác định được 8 tác phẩm từ của Đào Tấn.

Các bài sau khi đã được đính chính về từ đề, từ điệu, cụ thể như sau:

Các tác phẩm từ đích thực của Đào Tấn trong MMTL

Stt

Bài số

Từ điệu (Từ đề)

1.        

3

Ngư phủ

2.        

4

Tiểu trùng sơn (Quá Kim Long dịch)

3.        

7

Tô mạc già

4.        

25

Ngu mĩ nhân

5.        

26

Điệp luyến hoa

6.        

29

Lâm giang tiên

7.        

30

Bồ tát man

8.        

50

Yết kim môn (Yết Hương Bình)

Tổng số: 8 bài

 Sau khi tìm được 8 tác phẩm của Đào Tấn trong MMTL, số còn lại gồm 14 bài vẫn chưa được minh định về tác giả. Vậy phải dựa vào tiêu chí nào để xác định tác giả của 14 bài đó?

Đọc 8 bài từ trên có thể thấy tuy sống ở đất thần kinh nhưng Đào Tấn vẫn không nguôi ngoai nỗi lòng nhớ nhung da diết về quê xa, nơi ấy có trống vẽ, thuyền lầu, suối hoa, bến liễu, nước đồng, khói lạnh… Giấc mộng về quê xa không thành, tất cả chỉ hiện về trong tâm tưởng:

“Mây trắng đến,

Mặt trời hồng đi.

Sớm sớm chiều chiều,

Đã bao lần nắng nực.

Nhà ở ngoài thành Quy Nhơn,

Trống vẽ thuyền lầu,

Thảy là nỗi đau lòng.

 

Khe hoa [?],

Bến dương liễu.

Nước đồng, khói lạnh;

Dứt mộng về con đường thôn trước.

Từng nhớ năm nao ngoạn du nơi bến sông,

Một nhánh lau vàng,

Vô vàn bông tơ bay”.

(Bài từ thứ 7, điệu Tô mạc già).

 

Rồi một ngày kia, bên sông Hương núi Ngự, ông lại tái tê với niềm li hận, não nuột khi nhìn bóng trăng tròn:

“Niềm li biệt rầu rĩ trời mây tối.

Cớ sao trăng đêm nay,

Vẫn tròn soi nhà khác?”.

(Bài từ thứ 29, điệu Lâm giang tiên).

 

Nỗi niềm ấy lên đến cùng cực qua bài từ điệu Ngu mĩ nhân:

“Bóng hoa rung rinh, sương lạnh dầy,

Mộng về quê thê thiết.

Nhà ai ngoài rèm tơ liễu rủ?

Một đêm gió lạnh thổi tan bay khắp thành.

 

Én lẻ lênh đênh về nơi đâu?

Không về rường nhà mà đậu.

Đáng thương lệ buồn đã không còn nhiều,

Chảy đến sông Hương, giọt giọt thảy thành sóng”.

(Bài từ thứ 25, điệu Ngu mĩ nhân)

 

Trong bài, Đào Tấn tự ví mình như con én lẻ bầy lênh đênh, phiêu dạt, chẳng biết về đâu; cuối cùng cảm xúc vỡ ào, nước mắt đầm như hòa cùng sóng nước sông Hương. Xứ Huế, nơi Đào Tấn gắn bó bao năm, nhưng không thể thay thế được hình bóng quê nhà, trong ông luôn khắc khoải tâm trạng bi hoài của một người lữ khách. Và điều này dường như là một trong những cảm xúc thường trực của ông.

Đào Tấn trưởng thành trong giai đoạn thực dân Pháp từng bước đô hộ nước ta, biến nước ta từ một nước có độc lập, chủ quyền thành một nước nô lệ. Trước hoàn cảnh đó, một mặt ông ra sức ủng hộ các phong trào yêu nước khi có điều kiện, mặt khác, ông gửi gắm nỗi niềm ưu tư quốc nạn vào các tác phẩm của mình. Nếu như ở các tác phẩm tuồng, Đào Tấn luôn dụng ý “đề cao những người hùng có nghĩa khí, yêu nước, sẵn sàng hi sinh tính mệnh của mình cho sự nghiệp cao cả”(14). Trong các tác phẩm thơ, ông nhiều lần bày tỏ sự đồng tình với các nhà ái quốc như Phan Bội Châu, Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu… thì trong từ, ngay cả khi ngắm cảnh sông Hương thơ mộng, ông cũng không nguôi ngoai xúc cảm về lẽ hưng vong:

“Ải bắc, trời nam binh tình nguy cấp;

Thân này không chết, rốt cục phải giệt giặc”.

(Bài từ thứ 26, điệu Điệp luyến hoa)

 

Yêu nước nhưng không thể làm gì để vãn hồi nạn nước, khi bụi giặc mù trời, một mình nâng chén dưới trăng thanh mà nước đầm đìa, Đào Tấn hận mình bất lực:

“Đêm thanh tự rót ba chung rượu,

Lệ châu đầm đìa đong đầy đấu.

Trông khói lửa mạn bắc,

Bụi giặc đang mù trời.

 

Hoa mai hồng tựa máu,

Chẳng bằng máu nóng trong lòng.

Ngồi mãi ở sông Hương,

Ôm thẹn cùng vầng trăng”.

(Bài từ thứ 30, điệu Bồ tát man)

Có thể nhận thấy, cùng niềm nhung nhớ quê xa, tâm trạng của một lữ khách hoài hương, tinh thần yêu nước là một trong những nội dung quan trọng trong các tác phẩm từ của Đào Tấn.

Như vậy, qua các bài từ của Đào Tấn, nhung nhớ quê xa và ưu tư quốc nạn là hai cảm hứng quan trọng bậc nhất, khả dĩ coi như tiêu chí giúp ta nhận chân một số tác phẩm khác của ông trong MMTL.

Dựa vào hai cảm hứng chủ đạo trên, tham khảo thêm một số yếu tố khác để khảo sát các tác phẩm còn lại trong MMTL, kết quả cho thấy có thêm 5 tác phẩm có thể tin được đó đích xác là sáng tác của Đào Tần, gồm các bài sau:

1. Bài từ thứ 9, điệu Giá cô thiên

2. Bài từ thứ 11, điệu Ỷ la hương

3. Bài từ thứ 18, điệu Bồ tát man

4. Bài từ thứ 27, điệu Thanh ngọc án

5. Bài từ thứ 28, điệu Mãn giang hồng(15)

 

Tổng hợp kết quả trên, trong MMTL hiện còn có tất cả 13 bài khả dĩ đáng tin là các phẩm đích thực của Đào Tấn.

III. CÁC BÀI TỪ “TẠM COI” LÀ CỦA ĐÀO TẤN

Ngoài các bài từ của Trung Quốc chép lẫn trong MMTL và các bài đã xác định là tác phẩm đích thực của Đào Tấn, trong số các bài còn lại, nhiều bài rất chung chung, không có dấu hiệu cụ thể để xác định vấn đề tác quyền của tác giả.

Chẳng hạn bài từ số 5 – Thu oán:

Bài từ này MMTL không ghi từ điệu, Trần Văn Tích khảo cứu, xác định bài từ thuộc điệu Ức vương tôn.

Toàn văn tác phẩm như sau:

Nguyên văn:

Phiên âm:

秋怨 - 憶王孫

秋風一夜滿天涯,

幾樹丹楓葉作花.

漫倚高樓對落霞.

不歸家,

又見橫空雁影斜.

THU OÁN - ỨC VƯƠNG TÔN
Thu phong nhất dạ mãn thiên nha (nhai),
Kỉ thụ đan phong diệp tác hoa.
Mạn cao lâu đối lạc .
Bất quy gia,
Hựu kiến hoành không nhạn ảnh .

Dịch từ:

NỖI OÁN MÙA THU - ĐIỆU ỨC VƯƠNG TÔN

Thu phong một tối ngập trời xa,

Mấy cội phong già, lá tựa hoa.

Biếng tựa lầu cao ngắm ráng sa.

Chẳng về nhà,

Lại thấy ngang trời bóng nhạn tà.

(Changfeng dịch)

Bài từ là bức tranh phong cảnh của một buổi chiều thu, ẩn trong cảnh là tâm trạng cô đơn của nhân vât trữ tình. Tác phẩm có sự thống nhất cao độ giữa từ điệu, từ đề với nội dung. Người đọc dễ dàng nhận ra bài từ diễn tả tâm trạng của một thiếu nữ buổi chiều tà ngóng đợi hành nhân quay về, mong mãi chẳng thấy, nàng cố chờ rốt cục chỉ thấy cánh nhạn lẻ loi bay trong chiều tà. Bài từ ngắn gọn song diễn tả hết sức tinh tế, phảng phất ý vị bài từ điệu Mộng Giang Nam (Lưu tảy bãi / Độc ỷ vọng giang lâu) của “Hoa gian tị tổ” Ôn Đình Quân. Có thể nói đây là một trong những bài tinh tế nhất trong MMTL, không thua kém bất cứ giai tác nào trong từ sử Trung Hoa.

Về phong cách từ học, bài này có phần hơi xa lạ với các từ gia Việt Nam, nhất thời chưa tìm được bài từ này trong bất cứ từ tập nào khác nên chúng tôi tạm coi đây là sáng tác của Đào Tấn.

Tương tự trường hợp bài từ số 5 – Thu oán còn có các bài từ sau:

1.     Bài từ thứ 20, điệu Như mộng lệnh

2.     Bài từ thứ 22, điệu Điệp luyến hoa

3.     Bài từ thứ 24, điệu Chuyển ứng khúc

4.     Bài từ thứ 38, điệu Giang Nam hảo

5.     Bài từ thứ 46, Vũ trung vãn quy

6.     Bài từ thứ 47, điệu Ô dạ đề

Vậy có 7 bài không có yếu tố nào khả dĩ có thể khẳng định chắc chắn là tác phẩm của Đào Tấn, nhưng nhất thời chưa thấy chúng xuất hiện trong bất cứ tài liệu nào khác ngoài MMTL, vậy chúng tôi tạm chấp nhận coi chúng cũng là tác phẩm của Đào Tấn, chờ khảo cứu thêm.

IV. TÁC PHẨM TỒN NGHI

- Bài từ thứ 14, Hương thủy đạo trung

Bài từ này vốn không ghi từ điệu. Trần Văn Tích xác định đây là điệu Hảo sự cận. Nguyên văn bài từ sau khi đã xác định từ điệu, ngắt câu, phân phiến như sau:

Nguyên văn:

Phiên âm:

香水道中好事近

極目總悲秋,

哀草似黏天末.

多少無情烟樹,

送年年行客.

 

亂山高下沒斜陽,

夜景更清絕.

幾點寒鴉風裏,

趁一梳冷月.

HƯƠNG THỦY ĐẠO TRUNG -

HẢO SỰ CẬN

Cực mục tổng bi thu,

Ai thảo tự niêm thiên mạt.

Đa thiểu vô tình yên thụ,

Tống niên niên hành khách.

 

Loạn sơn cao hạ một tà dương,

Dạ cảnh cánh thanh tuyệt.

Kỉ điểm hàn nha phong lí,

Sấn nhất sơ lãnh nguyệt.

Khảo cứu sâu thêm một bước, kết quả cho thấy, bài từ này tuy từ đềHương thủy đạo trung, nghĩa là “Trên đường sông Hương”. Sông Hương là địa danh ở Huế, theo lẽ thường, có thể kết luận bài này đích thực là tác phẩm của Đào Tấn. Tuy nhiên, MMTL chỉ ghi từ đề, không có từ điệu, trong khi đó về căn bản các bài đều ghi từ điệu, vì trong thể loại từ, giữa từ đềtừ điệu, từ điệu quan trọng hơn từ đề; không ghi từ điệu, chỉ có từ đề, đó là một chi tiết cần phải lưu ý. Qua nghiên cứu, chúng tôi phát hiện hai câu đầu tiên trong bài từ này giống hệt bài từ cùng điệu của tác giả Trung Quốc Cung Tường Lân (龚翔麟)(16), người thời Thanh. Chúng tôi lấy làm ngờ rằng bài này tương tự một số bài từ khác như đã khảo ở trên, chỉ là chép nguyên văn tác phẩm từ của Trung Quốc. Nhất thời, do chưa tìm được nguyên văn bài từ của Củng Tường Lân, nên chúng tôi tạm chưa có kết luận cuối cùng, tạm để tồn nghi, chờ khảo cứu thêm.

Tổng hợp kết quả khảo đính, giám định văn bản 22 bài từ còn lại trong MMTL, ta được bảng sau:

MMTL - Các tác phẩm đích thực của Đào Tấn

Stt

Bài số

Từ điệu (Từ đề)

1

3

Ngư phủ

2

4

Tiểu trùng sơn (Quá Kim Long dịch)

3

7

Tô mạc già

4

25

Ngu mĩ nhân

5

26

Điệp luyến hoa

6

29

Lâm giang tiên

7

30

Bồ tát man

8

50

Yết kim môn (Yết Hương Bình)

9.        

9

Giá cô thiên

10.    

11

Ỷ la hương

11.    

18

Bồ tát man

12.    

27

Thanh ngọc án

13.    

28

Mãn giang hồng (?)

Tổng cộng: 13 bài

Các bài từ tạm chấp nhận là tác phẩm của Đào Tấn

Stt

Bài số

Từ điệu (Từ đề)

14.    

5

Ức vương tôn (Thu oán)

15.    

20

Như mộng lệnh

16.    

22

Điệp luyến hoa

17.    

24

Chuyển ứng khúc

18.    

38

Giang Nam hảo

19.    

45

Túy hoa âm

20.    

46

Chuyển ứng khúc (Vũ trung vãn quy)

21.    

47

Ô dạ đề

Tổng cộng: 8 bài

Các bài từ còn nghi vấn

Stt

Bài số

Từ điệu (Từ đề)

22.    

14

Hảo sự cận (Hương thủy đạo trung)

Tổng cộng: 1 bài

 

KẾT LUẬN:

          Qua khảo cứu văn bản MMTL, kết quả khảo cho thấy MMTL là một từ tập có nhiều bất ổn về văn bản, ghi chép nhiều sai lầm, hỗn độn.

          Kết quả biện ngụy cho thấy có đến 38/ 60 (xấp xỉ 63.3%) trong MMTL là của tác phẩm từ của các tác giả Trung Quốc.

          Sau khi loại bỏ các tác phẩm từ Trung Quốc chép lẫn trong MMTL, MMTL chỉ còn lại 22 tác phẩm. Tuy nhiên, do từ tập này lẫn quá nhiều tác phẩm của Trung Quốc, thêm nữa thư tịch Trung Quốc rất bề bộn, nhất thời không thể kiểm chứng được tất cả tác phẩm, do vậy, xác định các tác phẩm từ đích thực của Đào Tấn là việc làm phức tạp và cần được tiến hành một cách cẩn trọng.

Qua khảo cứu, chúng tôi xác định 13/22 bài có thể tin được đó đích thực là tác phẩm của Đào Tấn.

          8/22 bài nội dung và phong cách nhiều khác lạ so với các tác phẩm đích thực của Đào Tấn, nhưng do hiện chưa tìm thấy trong bất cứ từ tập nào khác, vậy tạm coi chúng là tác phẩm của Đào Tấn, chờ khảo cứu thêm. Trong khi giới thiệu, nghiên cứu các bài này, cần hết sức thận trọng.

          1/22 bài hai câu đầu tiên giống hệt hai câu đầu trong bài từ cùng điệu của tác giả Trung Quốc Củng Tường Lân. Nhất thời chúng tôi chưa tìm được toàn văn tác phẩm của Cung Tường Lân để kiểm chứng, vậy tạm để tồn nghi.

          Do MMTL có lẫn quá nhiều tác phẩm từ của Trung Quốc, các nhà nghiên cứu trước đây chú ý nhiều hơn đến việc tìm hiểu nội dung, nghệ thuật của tác phẩm mà chưa quan tâm thỏa đáng đến việc thẩm định văn bản tác phẩm, do vậy, đến nay, có thể nói giá trị các công trình, bài viết của họ chỉ có giá trị tham khảo ở mức độ nhất định mà thôi.

Changfeng, 15. 02. 2009

--------------------------

(1). Vũ Ngọc Liễn (chủ biên): Thơ và từ Đào Tấn, Nxb. Văn học, H, 1987, tr. 53. Bản Mộng Mai từ lục trong phần phụ lục sách Đào Tấn thơ và từ ( Nxb Sân khấu, H, 2003) do ông Nguyễn Tòng phụng sao.

(2). Trong bài Đọc thơ và từ của Đào Tấn, Xuân Diệu sau khi dẫn bài thơ của Nguyễn Trọng Trì, đến câu “Ý tứ cao xa Liễu khó bằng”, do không hiểu “Liễu” trong câu này là ai nên ông cẩn thận chú thích: “Không biết là Liễu Vĩnh (giỏi về từ) hay là Liễu Tông Nguyên” (Xem trong Thơ và từ Đào Tấn - Nhóm biên soạn do Vũ Ngọc Liễn làm chủ biên, Nxb. Văn học, H, 1987, tr. 45). Trên thực tế, chỉ cần một người có kiến thức rất khiêm tốn về từ học cũng dễ dàng xác quyết rằng đó chính là Liễu Vĩnh. Câu thơ của Nguyễn Trọng Trì là sự khen ngợi đặc biệt đối với Mộng Mai từ lục của Đào Tấn bởi Tô Đông Pha và Liễu Vĩnh đều là các từ gia kiệt xuất, có đóng góp rất lớn cho sự phát triển của thể loại từ, tiêu biểu cho hai phong cách chính yếu trong từ học.

(3). Thơ và từ Đào Tấn, sđd, tr. 56.

(4). MMTL bản phụ lục trong sách Đào Tấn thơ và từ được chép bằng khải thư, trình bày theo chiều ngang (như viết chữ quốc ngữ). Sơ khảo toàn tập, có thể thấy từ tập này nhiều bài tàn khuyết, người chép sách dường như thiếu kiến thức về từ học nên không có ý niệm về từ điệutừ đề, không có dấu hiệu chứng tỏ sự phân phiến, nhiều bài ngắt câu không chuẩn xác (Xem Đào Tấn thơ và từ, sđd, trang 573-635)

(5). Xuân Diệu: Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập II, Nxb. Văn học, H, 1982, tr. 354-425, và Vũ Ngọc Liễn (chủ biên): Thơ và từ Đào Tấn, Sđd, tr. 5-51.

(6). Hồ Đắc Bích: “Đào Tấn qua thơ, từ và kịch bản tuồng”, Lê Xuân Lít: “Mùa xuân trong thơ và từ Đào Tấn” (Vũ Ngọc Liễn (biên khảo): Đào Tấn qua thư tịch, Nxb. Sân khấu, H, 2006).

(7). Bài viết của Trần Văn Tích, xin xem ở trang:

http://www.hqtysvntd.org/van%20hoa%20&%20nghe%20thuat.htm

(8). Chúng tôi đã tiến hành hiệu khám một số từ tập, kết quả cho thấy vấn đề văn bản học của chúng hết sức phức tạp, đôi khi có thể hoàn toàn là ngụy tạo, tiêu biểu như Cưu đài thi tập (Xem Phạm Văn Ánh: “Về Nguyễn Húc và bộ Cưu đài thi tập hiện còn”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2 năm 2006) và Cổ điệu ngâm từ (Phạm Văn Ánh: “Cổ điệu ngâm từ không phải từ tập của Việt Nam”, Tạp chí Hán Nôm số 3 năm 2007). 

(9). Bài từ số 1, điệu Mãn giang hồng. Bài này nguyên văn chép nhầm từ điệu. Từ phổ cũng như thực tế sáng tác từ chưa từng ghi nhận bất cứ bài Mãn giang hồng nào theo dạng thức như tác phẩm cùng điệu của Đào Tấn. Trong bài đã dẫn, Trần Văn Tích đã khảo cứu điệu này, xác nhận đây là dạng thức của điệu Ngu mĩ nhân.

- Bài từ số 7, nguyên văn ghi là điệu Tô mộ già (蘇暮遮). Tên gọi chuẩn xác của điệu này là Tô mạc già (蘇幕遮). Do chữ mạc () và chữ mộ () hình thể văn tự gần giống nhau nên người chép sách đã chép nhầm.

- Bài từ số 28, nguyên văn ghi là điệu Mãn giang hồng. Chúng tôi đã khảo cứu rất kĩ, không có bài nào theo điệu Mãn giang hồng có thể thức như vậy, nhất thời chưa rõ thuộc điệu gì, tạm tồn nghi, chờ khảo cứu thêm.

(10). Bài từ số 7, điệu Tô mạc già (Nguyên văn ghi nhầm, sẽ trình bày ở phần sau). Điệu Tô mạc già, theo từ phổ, cấu trúc hai câu đầu phiến thứ hai (hạ phiến) là: t b b và b b t. Vần rơi vào chữ cuối câu 2. Trong khi đó, bài từ trong MMTL đoạn này chỉ có 5 chữ: “Hoa khê dương liễu độ”. Trần Văn Tích cho hai câu này phải ngắt là: Hoa dương khê / Liễu độ □. Theo ông Trần, “chữ thiếu trong bài từ Đào Tấn phải hợp thanh hợp vận với khứ, thử, trú, xứ, v.v...” ở các câu trên. Từ đó, ông suy đoán rằng chỗ mất chữ có thể là chữ “nhứ”, nghĩa là “tơ hoa cây liễu”. Theo chúng tôi, cách ngắt câu của ông Trần không hợp lí, vì nếu ngắt câu như vậy thì thanh điệu bài từ của sẽ không chuẩn với từ phổ. Vả lại, khảo sát sáng tác cùng điệu của các từ gia, hai câu này thường được làm đối nhau. Thêm nữa, câu thứ 2 hiệp vận, xét trong toàn bộ bài từ thì vần của câu này không gieo với các vần ở thượng phiến, mà có sự chuyển vần, gieo với các câu thuộc hạ phiến. Do vậy, phải ngắt là: □ hoa khê / Dương liễu độ. Chữ độ trong trường hợp này hiệp vần với các chữ: lộ, phố, ... Như vậy, bài từ Tô mạc già này thiếu mất chữ đầu tiên của phần hạ phiến, chúng tôi không cố đoán đó là chữ gì, tạm thay bằng ô vuông () để lưu ý vị trí khuyết chữ.

- Bài từ thứ 40, điệu Điệp luyến hoa. Theo từ phổ, điệu từ này gồm 2 phiến, cấu trúc hình thức của hai phiến giống nhau, đều là: 7 / 4/ 5/ 7/ 7/. So sánh với từ phổ sẽ nhận thấy bài từ trong MMTL thiếu mất câu thứ 3 thuộc hạ phiến.

- Bài thứ 44, điệu Hoa phi hoa. Theo từ phổ, điệu này đơn phiến, bố cục gồm 6 câu, cấu trúc như sau: 3/ 3/ 3/ 3/ 7/ 7. Lại dựa vào cách gieo vần và thanh điệu thì bài từ trên thiếu mất câu thứ 3.

- Bài thứ 54, điệu Phong nhập tùng. Điệu Phong nhập tùng, theo từ phổ là loại song phiến: thượng phiến bố cục: 7/ 5/ 7/ 7/ 6/ 6; hạ phiến tương tự. Thanh điệu câu thứ 2 là: bt t t b b (bt: có thể là vận bằng, hoặc vần trắc), chữ cuối câu gieo vần. Câu này trong bài từ trong MMTL thiếu chữ thứ nhất: □ lục biến cao thành. Không chỉ vậy, bài từ cùng điệu trong MMTL lại chỉ có một phiến, thiếu hẳn nửa bài; do điệu Phong nhập tùng này bố cục gồm hai đoạn giống nhau, nên không rõ phần bị thiếu là thượng phiến hay hạ phiến?.

- Bài thứ 60, điệu Giá cô thiên. Sách Đào Tấn thơ và từ (trang 389) chú: “bài từ này thiếu mất năm câu cuối (2 câu 3 chữ và 3 câu 7 chữ). Có thể do bản gốc bị rách mất hoặc do người sao chép bất cẩn để sót”. Theo từ phổ, điệu từ Giá cô thiên bố cục gồm 2 phiến: thượng phiến: 7/ 7/ 7/ 7, hạ phiến: 3/ 3/ 7/ 7/ 7. Như vậy bài từ trong MMTL thiếu mất toàn bộ phần hạ phiến.

(11). Bài số 4 – Quá Kim Long dịch - MMTL không ghi từ điệu, Trần Văn Tích đã khảo cứu văn bản tác phẩm, dựa vào từ phổ, xác định bài từ thuộc điệu Tiểu trùng san.

- Bài số 5 – Thu oán, không từ điệu, Trần Văn Tích khảo cứu, xác định bài từ thuộc điệu Ức vương tôn.

- Bài số 14 – Hương Thủy đạo trung, không từ điệu, Trần Văn Tích khảo cứu, xác định bài từ thuộc điệu Hảo sự cận.

- Bài số 15 – Lưu xuân, không từ điệu, Trần Văn Tích khảo cứu, xác định bài từ thuộc điệu Bồ tát man.

- Bài số 16 – Tống xuân, không từ điệu, Trần Văn Tích khảo cứu, xác định bài từ thuộc điệu Điểm giáng thần.

- Bài số 32 – Thu hứng - không ghi từ điệu. Căn cứ vào cú pháp, thanh điệu, cách gieo vần, chúng tôi xác định đây là điệu Tây giang nguyệt.

- Bài số 41 - Tống xuân, không ghi từ điệu, căn cứ vào cú pháp, thanh điệu, cách gieo vần, chúng tôi xác định đây là điệu Bồ tát man.

- Bài số 50 - Yết Hương Bình, không ghi từ điệu, căn cứ vào thể thức của điệu từ, chúng tôi xác định đây là điệu Yết kim môn.

(12). Sơ lược mấy nét về các tác giả Trung Quốc kể trên như sau:

- Tưởng Tiệp, từ gia cuối thời Tống, đầu thời Nguyên. Tưởng Tiệp tự là Thắng Dục, người ở Dương Tiện (nay là Nghi Hưng, Giang Tô). Ông sinh vào khoảng giao thời giữa Tống và Nguyên, thi đỗ Tiến sĩ vào khoảng năm Hàm Thuần thứ 10 (1274). Sau khi nhà Tống mất, ông giữ khí tiết, ẩn cư, không ra làm quan. Tưởng Tiệp sống trong giai đoạn lịch sử nhiều biến cố, bởi vậy trong từ của ông nhiều bài viết về cảnh chiến loạn, lưu li. Ông hiện còn trên 90 bài từ, phần lớn đều thể hiện lòng nhớ nhung “cố quốc” (nhà Tống), bài từ điệu Ngu mĩ nhân trên đây được coi là một trong những kết tinh nghệ thuật của ông.

- Chu Bang Ngạn (1056-1121) tự là Mĩ Thành, tự hiệu là Thanh chân cư sĩ, người ở Tiền Đường (nay là Hàng Châu, Chiết Giang). Ông là một trong những từ gia nổi tiếng thời Tống.

Xem thêm: Tề Dự Sinh, Hạ Vu Toàn (chủ biên): Trung Hoa văn học danh trước bách bộ, Tân Cương Thanh thiếu niên xuất bản xã, tập XII, tr. 275.

- Nguyên Hiếu Vấn (1190-1257), tự Dụ Chi, hiệu Di Sơn, người ở Tú Dung, Thái Nguyên (nay là huyện Hân, tỉnh Giang Tây). Ông là từ gia, thi gia, sử gia nổi tiếng thời Nguyên.

- Chu Tư Khiêm, từ gia thời Minh, tự là Thúc Dạ, hiệu là Lai Phong, người ở Hoa Đình (này là Tùng Giang, Thượng Hải), Giang Nam, từng thi đỗ Tiến sĩ vào năm Gia Tĩnh thứ 26 (1547) triều Minh, làm quan đến chức Quảng Tây Đề học phó sứ. Ông là người có tài năng về thơ ca, đặc biệt là về thư pháp, nổi tiếng về chữ hành và thảo.

- Uông Nguyên Lượng (1241-1317), từ nhân cuối thời Tống, tự là Đại Hữu, hiệu là Thủy Vân, người Tiền Đường (nay là Hàng Châu, Chiết Giang). Ông nổi tiếng về từ, nhờ đó được làm quan, phụ trách về âm nhạc trong cung.

- Ngô Bang Trinh, từ gia thời Minh, tự là Tử Ninh, người Ngô Giang. Ông từng thi đỗ Tiến sĩ và làm quan đến chức Thái bộc tự khanh.

- Lưu Cơ tự là Bá Ôn, người Thanh Điền, đỗ Tiến sĩ thời Nguyên. Sang thời Minh, làm quan đén chức Ngự sử trung thừa. Sáng tác có Thành Ý Lưu Văn Thành công tập.

- Trịnh Bản Kiều (1693 -1765), từ gia, họa gia, nhà tư tưởng nổi tiếng thời Thanh. Ông tên thật là Nhiếp, tự là Khắc Nhu, hiệu Bản Kiều, lại có hiệu là Bản Kiều đạo nhân, người ở Hưng Hoa, Giang Tô.

- Mao Kì Linh (1623-1716), hay còn gọi là Mao Tây Hà, từ gia thời Thanh, nguyên tên là Thắng, lại có tên khác là Sơ Tình, tự Đại Khả, hiệu Tây Hà, được các học giả gọi là Tây Hà tiên sinh, người ở trấn Thành Sương, Tiêu Sơn (nay thuộc Chiết Giang).

- Trương Chứ (1287-1368), từ gia thời Nguyên, tự là Trọng Cử, người đời gọi là Nhuế Am tiên sinh, người Tấn Ninh (nay thuộc Vân Nam).

- Ngô Tiềm (1196-1262), từ nhân thời Nam Tống. Ông tự là Nghị Phu, hiệu Lí Trai cư sĩ, người ở Ninh Quốc, Tuyên Châu (nay thuộc An Huy). 

- Giải Tấn (1369-1415), từ gia thời Minh, tự Đại Thân, Tấn Thân, hiệu Xuân Vũ, Hỉ Dịch, người ở Giám Hồ, Cát Thủy (nay là trấn Văn Phong, huyện Cát Thủy).

- Yến Cơ Đạo (1048-1118), từ gia thời Tống, tự là Thúc Nguyên, hiệu là Tiểu Sơn, con trai từ gia nổi tiếng Yến Thù (người được coi là ông tổ của các nhà điền từ thời Bắc Tống).

- Trình Bột từ gia, từ luận gia thời Minh, tự là Mặc Tiên, người ở Hưu Ninh. Sáng tác có Thạch Giao Đường tậpLiễu Đường từ thoại.

- Bạch Vũ Trai từ thoại là tác phẩm của từ gia, nhà từ luận nổi tiếng Trần Đình Trác thời Thanh. Ngô Trúc Dự, từ gia nổi tiếng thời Thanh, tác phẩm của ông được Trần Đình Trác đánh giá rất cao.

- Lưu Học Cơ, từ gia thời Tống, tự là Tập Chi, người ở Sùng An, ẩn cư tại Nam Sơn,lấy hiệu là Chủng Xuân Tử. Không rõ năm sinh năm mất.

- Tần Hàn Sinh, từ gia thời Minh, tự là Hội Tường, hiệu là Ngải Trai, người ở Vô Tích.

- Hoàng Hồng, từ gia thời Minh, tự là Hồng Diệu, người ở Tiền Đường.

- Nghê Phủ , từ gia thời Minh, tự là Man Thiến, không rõ hành trạng cụ thể.

- Cát Nhất Long (1567-167), từ gia thời Minh, hiệu là Chấn Phủ, người Ngô Huyện, Giang Tô.

- Hàn Tăng Câu, từ gia thời Minh, tự là Nhân Cốc, người ở Ô Trình. Tác phẩm có Ngộ Tuyết Trai tập.

- Kế Nam Dương, từ gia thời Thanh, tự là Tử Sơn, người ở Hoa Đình.

- Lưu Bính, từ gia thời Minh, tự Ngạn Chương, người Bà Dương. Sáng tác có Xuân Vũ Hiên từ.

- Tô Thức (1037-1101), tự là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha cư sĩ, người ở Mi Sơn, Mi Châu (nay là Mi Sơn, Tứ Xuyên). Ông là từ gia kiệt xuất thời Bắc Tống, là người khai sinh phái từ hào phóng, chủ trương đưa từ thoát li khỏi sự bó buộc của âm nhạc, nâng địa vị của từ lên ngang hàng các tác phẩm thơ ca điển nhã.

- Trương Luân, từ gia thời Tống, tự là Tài Phủ, hiệu là Liên Xã cư sĩ, người ở Khai Phong (nay là Khai Phong, Hà Nam). Hiện chưa rõ năm sinh năm mất.

- Hàn Hổ (1159-1224), từ gia thời Tống, tự là Trọng Chỉ, hiệu là Giản Tuyền, con trai Hàn Nguyên Cát, nổi tiếng về tài năng thơ ca.

- Lí Thạch, từ gia nổi tiếng đầu thời Nam Tống.

- Chu Đôn Nho (1081-1159), từ gia thời Tống, tự là Hi Chân, người Lạc Dương.

(13). Trong bài từ điệu Tô mạc già, Đào Tấn viết về nỗi nhung nhớ quê xa, câu thứ 5 phần thượng phiến viết: “Gia tại Quy Nhơn thành ngoại trú” (家在歸仁城外住 - Nhà [ta] ở bên ngoài thành Quy Nhơn). Điều này cho thấy, tác giả viết bài từ khi xa quê, không phải viết khi ông đang ở Quy Nhơn. Rất có khả năng ông cũng viết bài này khi đang ở Huế.

(14). Nguyễn Lộc: mục từ “Đào Tấn”, in trong Từ điển văn học - Bộ mới, Nxb. Thế giới, 2004, tr. 382.

(15). - Bài từ thứ 9, điệu Giá cô thiên

Nguyên văn bài từ như sau:

Nguyên văn:

Phiên âm:

鷓鴣天

鄉國興亡感慨多,

半生行徑笨如鼉.

從今收拾絲和竹,

不作風花雪月歌.

書黯淡,

劍婆裟,

中年豪放奈愁何.

閒時自酌些些酒,

窮極猶縫薄薄羅.

GIÁ CÔ THIÊN

Hương quốc hưng vong cảm khái đa,
Bán sinh hành kính bản như đà.
Tòng kim thu thập ti hòa trúc,
Bất tác phong hoa tuyết nguyệt ca.

Thư ảm đạm,
Kiếm sa.
Trung niên hào phóng nại sầu .
Nhàn thời tự chước ta ta tửu,
Cùng cực do phùng bạc bạc la.

Nội dung bài từ nói về nỗi niềm cảm khái của tác giả về sự hưng vong của quê hương đất nước (Hương quốc hưng vong cảm khái đa / Xiết bao cảm khái về sự hưng vong của quê hương đất nước), nhưng cuối cùng bất lực. Tâm trạng tác giả trong bài này tương tự bài từ thứ 30, điệu Bồ tát man. Tuy trong bài không nhắc đến các địa danh, hay sự kiện cụ thể song vẫn có thể chắc đây đích thực là sáng tác của Đào Tấn.

Câu 3, 4 phần thượng phiến viết:

Từ nay thu hết đàn và sáo

Chẳng làm những bài ca về cảnh phong hoa tuyết nguyệt”.

Có thể xem đây là tuyên ngôn nghệ thuật của tác giả.

- Bài từ thứ 11, điệu Ỷ la hương

Nguyên văn bài từ như sau:

Nguyên văn:

Phiên âm:

綺羅香

塞雁南飛,

江雲北渡,

畫角悲凉如訴.

錦繡江山,

靄靄碧雲將暮.

正風吹, 落日荒城,

又雨打, 亂煙飛絮.

莽男兒, 為國犧牲,

長槍匹馬殺仇去.

遼陽誰問白骨,

但看人間孤墳,

哀哀無主.

胡馬燕塵,

夢裏猶懷驚懼.

恨書生, 多負時艱,

還作甚, 斷腸詩句.

點中霄, 尚在酣眠,

聞雞應起舞.

Ỷ LA HƯƠNG

i nhạn nam phi,
Giang vân bắc độ,
Họa giốc bi lương như tố.
Cẩm giang sơn,
Ái ái bích vân tương mộ.
Chính phong xuy, lạc nhật hoang thành,
Hựu đả, loạn yên phi nhứ.
Mãng nam nhi, vị quốc hi sinh,
Trường thương thất sát cừu khứ.

Liêu Dương thùy vấn bạch cốt,
Đãn khán nhân gian phần,
Ai ai chủ.
Hồ Yên trần,
Mộng do hoài kinh cụ.
Hận thư sinh, đa phụ thời gian,
Hoàn tác thậm, đoạn trường thi .
Điểm trung tiêu, thượng tại hàm miên,
Văn ưng khởi .

Tác phẩm nói về trách nhiệm của kẻ nam đối với trước cảnh đất nước lâm nguy. Nội dung bài từ gần gũi với thơ biên tái thời Đường, dùng nhiều điển tích Trung Hoa, không nhắc đến các sự kiện cụ thể, song xét cảm hứng chủ đạo của tác phẩm, có thể tin được đây là tác phẩm của Đào Tấn.

- Bài từ thứ 18, điệu Bồ tát man

Toàn văn bài từ như sau:

Nguyên văn:

Phiên âm:

菩薩蠻

去年不比前年好,

今年又比去年老.

未老是雄心,

殷憂國難深.

九邊風火急,

一脈承平意.

不必問梅花,

寒枝盡暮鴉.

BỒ TÁT MAN
Khứ niên bất tỉ tiền niên hảo,
Kim niên hựu tỉ khứ niên lão.
Vị lão thị hùng tâm,
Ân ưu quốc nạn thâm.

Cửu biên phong hỏa cấp,
Nhất mạch thừa bình ý.
Bất tất vấn mai hoa,
Hàn chi tận mộ nha.

Bài từ nói về sự lo lắng của tác giả về nạn nước. Xét nội dung toàn bài, thêm nữa trong bài có câu: “Cửu biên phong hỏa cấp/ Nhất mạnh thừa bình ý” (九邊烽火急/一脈承平意), nghĩa là: Chín phía khói lửa gấp gáp/ [Thế mà] một phái theo ý chấp nhận nghị hòa. Tuy bài từ này không nói đến các sự kiện lịch sử, song xét về tác giả và điều kiện đất nước ta bấy giờ, có thể tin chắc bài từ này là sáng tác của Đào Tấn, được sáng tác trong giai đoạn có sự phân chia làm hai phái, chủ chiến và chủ hòa trong triều đình Tự Đức.

- Bài từ thứ 27, điệu Thanh ngọc án

Nguyên văn bài từ như sau:

Nguyên văn:

Phiên âm:

青玉案

男兒不向幽燕去

忍跼蹐江南住

負此頭顱知已許

鮮花血染

熱情湯沸

一擲成孤注

當年躍馬清郊路

彩筆爭傳好詩句

樂到而今都變苦

滿腔憂憤

八方風動

萬里長城哭

THANH NGỌC ÁN
Nam nhi bất hướng u yến khứ,
Nhẫn cục tích giang nam trụ.
Phụ thử đầu tri hứa.
Tiên hoa huyết nhiễm,
Nhiệt tình thang phí,
Nhất trịch thành chú.


Đương niên dược thanh giao lộ,
Thải bút tranh truyện hảo thi .
Nhạc đáo nhi kim đô biến khổ.

Mãn khang ưu phẫn,
Bát phương phong động,
Vạn trường thành khốc.

Bài từ có cái u uất của kẻ nam nhi thời loạn, phong cách từ học rất gần gũi với một số bài từ khác đã xác định là các tác phẩm đích thực của Đào Tấn, có thể tin được đây chính là sáng tác của ông.

- Bài từ thứ 28, điệu Mãn giang hồng

Nguyên văn bài từ như sau:

Nguyên văn:

Phiên âm:

滿江紅

雲鎖南樓

煙迷北固

故鄉有夢難成

中秋月色最分明

天似洗山光拂鏡

風不動花影搖庭

從頭憶

幾年依約

屈指堪驚

鳳漂鸞泊

扁舟載酒

無奈狂名

痛田園荒廢

匪盜縱橫

問何日五風十雨

讓我輩同樂昇平

關情處

雙株金桂

一架紫籐棚

MÃN GIANG HỒNG
Vân tỏa nam lâu
Yên bắc cố
Cố hương hữu mộng nan thành
Trung thu nguyệt sắc tối phân minh
Thiên tự tẩy sơn quang phất kính
Phong bất động hoa ảnh dao đình
Tòng đầu ức
Kỉ niên y ước
Khuất chỉ kham kinh
Phượng phiêu loan bạc
Biển chu tải tửu
nại cuồng danh
Thống điền viên hoang phế
Phỉ đạo tung hoành
Vấn nhật ngũ phong thập
Nhượng ngã bối đồng lạc thăng bình
Quan tình xứ
Song chu kim quế
Nhất giá tử đằng bằng

Bài từ nói về niềm nhung nhớ quê hương, đau đớn vì giặc cướp hoành hành cùng niềm mong ước một ngày kia “năm gió mười mưa” quét sạch bóng giặc, ruộng vườn thôi hoang phế, người người chung hưởng thái bình. Xét về nội dung và cảm hứng toàn bài, có thể tin chắc đây là tác phẩm của Đào Tấn.

(16). Cung Tường Lân (1658-1733), từ gia thời Thanh, tự là Thiên Thạch, hiệu là Hành Phố, Giá Thôn, cuối đời hiệu là Điền Cư, người ở Nhân Hòa (nay là Hàng Châu, Chiết Giang).



[*] Thạc sĩ, Viện Văn học.

Thông tin truy cập

63660471
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
4189
17595
63660471

Thành viên trực tuyến

Đang có 790 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website