(Bài nói chuyện trong khuôn khổ Ngày Văn Hóa và Sinh Nhật thứ XVIII Thư Viện Giáo Xứ Việt Nam Paris tổ chức ngày 30-3-2008).
«Di ảnh thánh Philipphê Phan Văn Minh được cất giữ tại Đan Viện Carmel (Cát Minh), 33 đường Cường Để Saigon. Mặt khác, Đại Chủng Viện Pénang (Mã Lai), nơi thánh Philipphê Phan Văn Minh tu học cùng với các thánh tử đạo khác là Phêrô Đoàn Công Quý, Phaolô Lê Văn Lộc, Gioan Đoàn Trinh Hoan và Phêrô Nguyễn Văn Lựu cũng tôn kính di ảnh ngài. (Ngày nay, Đại Chủng Viện Pénang trực thuộc Giáo Hoàng Học Viện Urbani Roma). Trường San Juan de Latran ở thủ đô Manila dựng tượng thánh Phan Văn Minh. Đại Chủng Viện Pénang là nơi đào tạo cụ Ngô Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài (Thư Viện Giáo Xứ đã tổ chức nói chuyện về sự nghiệp văn học của Cụ Nguyễn Hữu Bài do GS Vũ Quốc Thúc và Luật sư Lê Trọng Quát trinh bày). Theo nhà văn Võ Long Tê: ‘‘Ông Nguyễn Văn Hiệp, trụ trì Bửu Long tự có đến thưa với Đức Cha Nguyễn Văn Diệp, Phó Giám mục Vĩnh Long rằng: Theo lưu truyền từ đời trước, chùa thờ bài vị thánh Minh Tử đạo và bài vị ấy đã trao cho Tòa Giám mục Vĩnh Long khoảng 1957-1958. Nay chùa muốn xin lại một bài vị khác để thờ.’’. Nhà văn Phạm Đình Khiêm cho biết tiểu sử thánh Philipphê Phan Văn Minh đã được đưa lên màn ảnh qua cuốn phim ‘‘Áo dòng đẫm máu’’.
20 tháng 3 dương lịch là ngày lập xuân. Ngày Văn Hóa Thư Viện năm nay kỷ niệm 20 năm phong thánh 117 Anh hùng Tử đạo Việt Nam và 155 năm thánh Philipphê Phan Văn Minh tử đạo (1853-2008). Thánh Phan Văn Minh là nhà điển ngữ và nhà thơ tiền phong của văn học quốc ngữ. Trong Dictionarium anamitico-latinum (Tự điển Việt-La tinh) xuất bản năm 1838 do Ngài biên soạn cùng với Đức Cha Taberd, thánh nhân đã dẫn chứng bài ngũ ngôn Tứ Thời (四 时) của Thôi Hiệu để giải nghĩa ‘‘cách thức đặt thơ năm chữ’’. Bài ngũ ngôn như sau:
Xuân du phương thảo địa,
春 遊 芳 草 地,
Hạ thưởng lục hà trì.
夏 賞 綠 荷 池,
Thu ẩm hoàng hoa tửu,
秋 飲 黃 菊 酒,
Đông ngâm bạch tuyết thi.
冬 吟 白 雪 詩.
Thánh Minh trích dẫn ngũ ngôn. Bằng không, hẳn là thi nhân đã chọn bài Tứ Thời của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chỗ lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp,
Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao.
Vì trích dẫn trong Tự điển Việt-La tinh, thánh Phan Văn Minh đã dịch bài ngũ ngôn của Thôi Hiệu sang tiếng La tinh như sau:
Vere novo pergratum invisere amœna vireta,
Æstu nymphæas aspectare libet.
Autumno recreant spumantia munera Bacchi,
Bruma opus est niveos ore ciere modos.
Trong bài nói chuyện chiều nay, chúng tôi lần lượt trình bày trong phần I Thánh Phan Văn Minh, nhà điển ngữ và phần II, Thánh Phan Văn Minh, nhà thơ.
I - THÁNH PHAN VĂN MINH, NHÀ ĐIỂN NGỮ:
Lịch sử chữ quốc ngữ trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thành lập và giai đoạn phát triển.
w Giai đoạn thành lập:
• 1651: Linh mục Alexandre de Rhodes soạn thảo Dictionarium annamiticum, lusitanum et latinum (Tự điển An nam, Bồ đào nha và La tinh) do Ấn quán Toà Thánh (Roma) in năm 1651. Ngoài phần tự điển, công trình này còn gồm bản mục lục và ngữ pháp tiếng Việt.
• 1772: Đức Cha Pierre Georges Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) soạn thảo Vocabularium annamitico-latinum (Tự vựng An nam La tinh) soạn thảo năm 1772-1773 tại Pondichéry (Ấn Độ).
w Giai đoạn phát triển:
• 1838: Đức Cha Taberd soạn thảo Dictionarium anamitico-latinum
- Theo Niên biểu in trong Phi Năng Thi Tập: Nhân lễ Thêm sức năm 1828, Đức Cha Taberd chấp nhận thỉnh nguyện của cậu Phan Văn Minh, gửi cậu tu học ở Chủng viện Lái Thiêu.
- 1833: Thi hành Chiếu cấm đạo của vua Minh Mệnh, chủng viện Lái Thiêu bị phá hủy. Thầy Phan Văn Minh và các chủng sinh khác tiếp tục tu học ở Chủng viện Pénang (Mã Lai).
- 1835: Đức Cha Taberd gọi Thầy Phan Văn Minh sang Calcutta để soạn Tự điển Việt-La tinh và Tự điển La tinh-Việt.
• 1838 (tại Serampore - Ấn Độ), xuất bản Dictionarium anamitico-latinum. Công trình này gồm phần Khái luận về tiểu từ và đại từ (Tractatus de variis particulus et pronominibus), Cách đếm (Nomina numeralia, 10 trang), Tự vựng chữ Hán (18 trang), Tự vựng chữ Nôm (111 trang), Tự vựng chữ Hán sắp theo mấu tự (106 trang), Thực vật chí Đàng Trong (Hortus Floridus Cocincinæ), Lược bày niêm luật làm văn làm thơ (Compendium versificationis anamiticæ) (14 trang).
‘‘Lược bày niêm luật làm văn làm thơ’’ gồm: vãn, niêm luật làm thơ, phán xét công bình Bắt đạo thơ. Cách thức đặt thơ năm chữ. Cách thức làm vãn khi người ta đã qua đời (văn tế). Cách phải giữ cho đặng làm văn vần bình, mẫu văn đặt vần trắc. Cách phải giữ mà đặt văn vần trắc. Vãn: Inê Tử đạo.
Trong phần dẫn chứng, ngoại trừ bài ngũ ngôn Tứ Thời (四 时) của Thôi Hiệu, các bài khác đều do Thánh Phan Văn Minh trước tác. Mỗi bài đều kèm theo bản dịch La tinh. Bài vãn Inê Tử đạo có bản dịch Anh ngữ, Pháp ngữ và La tinh, chứng tỏ thánh Phan Văn Minh không những là nhà điển ngữ (lexicologue) uyên bác mà còn là nhà bác ngữ học (polyglotte) am hiểu nhiều ngôn ngữ (Hán văn, La tinh, tiếng Pháp và tiếng Anh).
Bài Vãn làm theo thể lục bát phối hợp yêu vận của ta và cước vận của Tàu mở đầu phần Compendium versificationis anamiticæ chứng tỏ tác giả hằng tha thiết đến văn học nuớc nhà.
Bài Vãn gồm gồm 6 câu lục bát như sau:
Đội ơn Chúa cả ba ngôi,
Dựng nên muôn vật cho tôi hưởng dùng.
Chúa là vô thỉ vô chung,
Thường sinh thường vượng, không cùng không sai.
Chúa là toàn đức toàn tài,
Suốt trong trời đất không ai ví tầy.
Cũng như thơ Đường của Thôi Hiệu, bài lục bát Vãn Thiên Chúa Ba Ngôi được dịch sang tiếng La tinh như sau:
Trino unique Deo promo de pectore grates
Usus ad nostros clemens cuncta creans
Omnipotens sine principio sine fine manebit
Morte careens, sceptre frenat cuncta suo
Numen perfectum numen summeque peritum
Non similis coelo vel qua terra patet.
Phán xét công bình thơ làm theo thể thất ngôn bát cú, luật bằng như sau:
Hãi hùng kinh khiếp hỡi người ta,
Chúa xét công bình chẳng thứ tha.
Công bẵng mũi lông không khuất lấp,
Tội dầu hơi thở cũng nghiêm tra.
Bấy giờ ngãi tử giao thần thánh,
Khi ấy tội nhơn phú quỉ ma.
Bởi đó mười răng tua nắm giữ,
Rượu trà cờ bạc chớ mê sa.
Bài Bắt đạo thơ theo thể thất ngôn bát cú, luật trắc như sau:
Lừng lẫy oai hùm tiếng dã rân,
Chỉ truyền cấm đạo khắp xa gần.
Thánh đàng chốn chốn đều tiêu diệt,
Giáo hữu người người chịu khổ bần.
Linh mục giảo lưu, hình thảm khắc,
Cận thần trảm quyết lính đồ thân.
Há rằng vương đế làm nhơn chánh !
Sao nỡ phiền hà hại chúng dân.
Sau đó, thánh nhân trích dẫn hai bài văn tế, một vần bằng, một vần trắc. Vần bằng như sau:
Phép Chúa khiến đổi dời,
Cơ hội ấy ai không thảm thiết,
Hễ người đời sống thác,
Cớ sự này ốt đã rõ ràng.
Tưởng đến lòng nên chua xót,
Nghe thôi da rất thảm thương.
Vần trắc có câu:
Xưa có kẻ lui về Phật kiểng,
Chiếc dép hãy di tông
Nay như thầy thẳng tách thiên đàng
Nửa lời khôn phụ nhỉ
Trăm mình ý khó chuộc cầu,
Muôn kiếp no nao đặng thấy.
Kết thúc phần Compendium versificationis anamiticæ là bài vãn Inê Tử đạo, kèm theo bản dịch Anh, Pháp và La tinh. Sau đây là đoạn giới thiệu thân thế Thánh Inê tử đạo:
Gái thì đặng một Inê
Là con thứ tám trọn bề thảo ngay.
Vốn hiền từ bé nhẫn nay,
Nết na khiêm nhượng tính hay nhơn từ.
Bản dịch tiếng Anh:
Among the daughters, Agnes claims our attention;
She their eighth child, a model of virtue,
From her earliest infancy till death,
Was ever distinguished for modesty, meekness and humility.
Bản dịch tiếng Pháp:
Parmi leurs filles, Agnès est digne d’attention,
Elle fut le huitième enfant, et un modèle de vertu,
Depuis son enfance jusqu’à sa mort,
Elle se distingua toujours par sa modestie, son humilité et sa douceur.
Bản dịch La tinh:
Inter filias, memoria Agnetis est colenda,
Octava fuit parentum progenies, virtutum exemplar,
A teneris annis usque ad mortem præbuit
Semper modestia gravis, corde humilis ac mitis refulsit.
Theo Giáo sư Dương Quảng Hàm, ‘‘Cứ theo bộ tự điển của cố Alexandre de Rhodes soạn và in năm 1651 thì chữ quốc ngữ về hạ bán thế kỷ thứ XVII còn có nhiều cách phiên âm khác bây giờ và chưa được hoàn toàn tiện lợi. Theo cố Cadière, trong một bài thông cáo đọc ở Hội đồng Khảo cổ Đông Pháp ở Paris (Commission archéologique de l’Indochine) năm 1912 thì các hình thức hiện thời của chữ quốc ngữ chính là do Đức cha Bá Đa Lộc đã sửa đổi lại mà thành nhất định. Đức cha có soạn cuốn Tự diển An nam La tinh, tuy chưa xong hẳn, nhưng cố Taberd đã kế tiếp công cuộc ấy mà soạn ra cuốn Nam việt Dương hiệp Tự vựng (Dictionarium annamitico-latinum), in năm 1838. Trong cuốn này, cách viết chữ quốc ngữ giống hệt bây giờ: mỗi tiếng Nam đều có chua kèm chữ Nôm: cuốn sách ấy sẽ là một cuốn sách làm gốc cho các tự điển tiếng Nam sau này.’’ (Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn học Sử yếu, Bộ Giáo dục, Trung tâm Học liệu tái bản 1968, tr. 337-338). Kết quả này có được một phần là nhờ công lao của thầy Phan Văn Minh vừa am hiểu điển ngữ, lại là một nhà thơ. Nhờ điển ngữ, ngôn ngữ trong thơ Thánh Phan Văn Minh chuẩn xác. Với hồn thơ, trước tác của thánh Phan Văn Minh mang tình tự dân tộc, như được trình bày trong phần II: thánh Phan Văn Minh, nhà thơ.
II - THÁNH PHAN VĂN MINH, NHÀ THƠ:
Toàn tập Phi Năng Thi Tập của Thánh Philipphê Phan Văn Minh được in lại trong tập tài liệu văn học chữ quốc ngữ nhan đề ‘‘Về sách báo của tác giả công giáo (thế kỷ XVII-XIX)’’ do Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Thành phố HCM ấn hành năm 1993. Ngoài ra, Thư viện Đại Chủng viện Thánh Giuse Saigon lưu giữ Phi Năng Thi tập (Nước Trời Ca) của thánh Philipphê Phan Văn Minh, do ông Léon Nguyễn Văn Quý ấn hành năm 2003. Tài liệu thứ nhất gồm phần chú giải của nhà văn Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm, tài liệu thứ hai ngoài phần tiểu sử còn in lại Nước Trời Ca. Sau đây, ta sẽ xét qua về nội dung của hai tài liệu vừa nói trước khi bàn về giá trị văn học của Phi Năng Thi tập.
A) GIỚI THIỆU TÀI LIỆU:
1 - TÀI LIỆU CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC TỔNG HỢP:
1.1. Về hình thức: Tài liệu ấn hành khổ A4, dày 25 trang, do Linh mục Trần Anh Dũng tặng Thư viện Giáo Xứ Việt Nam Paris.
1.2. Về nội dung: Tập tài liệu in lại công trình nhan đề: Phi Năng Thi tập: Thánh Philipphê Phan Văn Minh của nhà văn Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm. bố cục như sau:
Dẫn nhập (tr. 88)
I. Quá trình truyền bản
1. Nguyên bản thủ bút
2. Bản sao tập IV của thầy Hầu trao tặng ông Paulus Nguyễn Cang Thường (tr. 89)
Nhan đề của tập IV như sau: Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853): Gia Tô Cơ Đốc (Jesus Christus). Tập IV Phi Năng Thi tập (tr. 90).
3. Bản sưu tập của thầy Trạch trao tặng ông Paulus Nguyễn Cang Thường
4. Bản sao của ông Paulus Nguyễn Cang Thường (tr. 91)
5. Bản sao của ông Thaddoœus Nguyễn Văn Nhạn.
- Trang 1: Nhan đề tập IV: Văn Thơ Công Giáo. Phi Năng Thi tập (Thế kỷ IXI). Tập IV: Sưu tầm của Nguyễn Cang Thường (1909-1962) (tr. 92).
- Trang 31: Nhan đề Phi Năng Thi tập do thầy Trạch sưu tầm: Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853) Vịnh Ê Vang. Phần sưu tầm của ông Nguyễn Cang Thường (1919-1962) (tr. 93).
- Trang 56: Nước Trời Ca. Phần II. Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853).
II - Công tác hiệu đính (tr.94)
1. Về cách sắp xếp trình bày
2. Về các trường hợp hiệu đính (tr. 95).
3. Về chú giải
III - Về nhận định tổng quát (tr.96)
1. Bối cảnh văn học
2. Bối cảnh tôn giáo và chính tri
3. Nhà thơ công giáo (tr.98)
4. Một thi đàn của đức tin (tr.101)
5. Sau Phi Năng Thi tập (tr. 103)
I1 - TÀI LIỆU CỦA ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE:
1.1. Về hình thức: Tài liệu ấn hành khổ A4, dày 81 trang, có chữ ký tặng của ông Léon Nguyễn Văn Quí biếu Đức Cha Nguyễn Văn Diệp. Thư viện Giáo Xứ Việt Nam Paris lưu giữ bản chụp.
1.2. Về nội dung: Trang 5 của tập tài liệu in bản đồ Việt Nam với lời chủ giải: Những hạt giống đức tin được gieo vào lòng đất Nam Kỳ.
Trang 7 viết chữ Hán nguyên văn như sau:
信 友 之 種 子
殉 道 者
Dịch âm:
Tín hũu chi chúng từử
TUẤN ĐẠO GIẢ
Trang 11: Lược sử Giảng đạo. Truyền đạo. Giữ đạo. Cấm đạo. Bắt đạo. Tử đạo.
Trang 15: Phần I: Niêu biểu và Tiểu sử
Trang 27: Nước Trời Ca
Trang 29: Thi đàn Phi Năng Thi tập
Trang 31: Nước Trời Ca
Trang 32: Xướng và Đáp họa
Trang 73: Trùm Họ Mặc Bắc Tử đạo
Trang 77: Phụ bản: Họ đạo Cái Mơn
NƯỚC TRỜI CA
Trong bài Đôi nét về Văn học Công giáo Việt Nam, tác giả Nguyễn Vy Khanh viết về Thánh Phan Văn Minh như sau: ‘‘Thánh Phi-líp Phan Văn Minh (1815-1853) đã để lại tác phẩm Phi năng Thi tập được truyền tụng đến nay, gồm 35 bài lục bát của ngài và 93 bài ngâm vịnh xướng họa của thi đàn. Đối với thánh nhân, thơ "ca tụng lòng lân mẫn vô biên của Thiên Chúa" (Lời phi lộ phần I), thi tập là "một bổn kinh nguyện". Như vậy, thánh nhân đã đồng hóa thi ca với lời cầu nguyện:
"Đội ơn Chúa Cả Ba Ngôi,
Dựng nên muôn vật cho tôi hưởng dùng.
Chúa là vô thủy vô chung,
Thường sinh thường vượng, không cùng không sai.
Chúa là toàn đức toàn tài,
Suốt trong trời đất không ai ví tầy"
"Gia Tô Cơ đốc đấng Con Trời,
Đặc cách lâm phàm cứu khắp nơi.
Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp,
Không dùng Vương Bá để xây đời.
(.. ) Dĩ nhược thắng cương minh chứng rõ:
Kiếp sau hiện hữu sống muôn đời. (Đấng Cứu Thế)
Trước khi tìm hiểu về thi phẩm của thánh nhân và Thi đàn Phi Năng, ta hãy nghe nhà thơ tự sự qua Lời Phi Lộ của thi tập Nước Trời Ca:
‘‘Lạy Chúa Giêsu, Chúa là phần gia nghiệp đời đời của tôi. Tôi xin chọn Thánh Danh Chúa làm chủ tể trong hội thi xướng họa này để tỏ lòng tha thiết kính yêu, và cũng là việc giải trí tốt đẹp trong đời sống thường ngày của hàng văn gia đất nước Đại Nam.
Bài học giáo lý của Cố Phan, tôi học khi còn thơ bé ở Cái Mơn có đoạn:
Đạo Đức Chúa Trời
Giảng dạy khắp nơi
Cứu khổ cho đời
Địa ngục khổ rồi
Khá giữ kịp thời…
Tôi xin chọn để gieo vần, vậy xin quý hữu có lòng mến Chúa Giêsu và yêu thơ xin đáp họa, hầu góp lại như bổn kinh nguyện ngâm lên ca tụng lòng lân mẫn vô biên của Thiên Chúa. Như trong Kinh Thánh đã kêu mời.
“Laudate Dominum, omnes gentes…”
(Thánh vịnh, CXVII, 1)
Phi-năng, ngày 25 tháng 12 năm 1894
Philipphê Phan Văn Minh’’
Thi nhân làm công việc khai sơn phá thạch, góp phần xây dựng nền quốc văn mới. Thánh Phan Văn Minh (1815-1853) hơn văn hào Trương Vĩnh Ký (1837-1898) 22 tuổi, hơn Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) 19 tuổi. Thánh nhân và Trương Tiên sinh cùng thôn Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay là tỉnh Bến Tre). Các bài thơ quốc ngữ của Thánh nhân mở đường cho văn học quốc ngữ nói chung, không phân biệt Nam Bắc, lương giáo. Ngôn ngữ thi ca của thánh nhân bình dị, chữ Nôm là chính, chữ Hán thường là các danh từ thần học. Qua Lời Phi Lộ chứng tỏ thánh nhân chiu ảnh hưởng sâu đậm của Thánh vịnh. Ngay dòng khai từ: Chúa là phần gia nghiệp đời đời của tôi gợi ý từ Thánh vịnh 16. Hiện chưa có công trình nghiên cứu nào liên quan đến bản dịch Thánh vịnh sang Việt ngữ nên không thể quyết đoán thánh Minh là người có công dịch ‘‘Yahvé, ma part d’héritage’’ (Psaume 16) ra tiếng Việt ‘‘Chúa là gia nghiệp’’. Cách dịch này đến nay vẫn giữ được thi vị đậm đà và sự trong sáng của tiếng Việt. Trong Kinh Thánh, Thánh vịnh là lời cầu nguyện bằng thơ (prière poétique) gồm nhiều đoạn. Vào đầu thế kỷ X trước Công nguyên, vua David đã soạn một số Thánh vịnh ngợi ca Thiên Chúa. Thánh Phan Văn Minh cho rằng Thi tập Nước Trời Ca là Kinh Thơ. Cách viết ‘‘Nước Trời’’ thay vì ‘‘Thiên Quốc’’ chứng tỏ tác giả muốn dùng ngôn ngữ riêng của ta để có thể phổ cập đến dân gian. Trong phần sau đây, ta sẽ nói qua về đặc điểm thi pháp và Thi đàn Phi Năng.
B - THI PHÁP PHI NĂNG THI TẬP:
Nhà văn Võ Long Tê cho rằng ‘‘ngôn ngữ thơ của thánh Minh (tiền bán thế kỷ XIX) xét ra khác hẳn ngôn ngữ thơ của thế hệ trước và có những mẫu số chung với ngôn ngữ thơ hiện đại’’. ‘‘Thánh Minh đậm đà tính chất phổ quát của đạo Công Giáo và truyền thống văn học dân tộc trong tiến trình canh tân”. Sau đây, ta sẽ bàn đến sự khác biệt giữa trước tác của thánh Minh và thơ cổ điển, những nét tương đồng với thơ mới.
A) Sự khác biệt với thơ cũ:
1) Khác biệt về đề tài:
Nhà thơ lấy chất liệu trong Phúc âm dệt thành thơ lục bát, gần gũi với ca dao:
Đội ơn Chúa Cả Ba Ngôi,
Dựng nên muôn vật cho tôi hưởng dùng.
Chúa là vô thủy vô chung,
Thường sinh thường vượng, không cùng không sai.
Chúa là toàn đức toàn tài,
Suốt trong trời đất không ai ví tầy.
Sáu câu lục bát trên đây lời lẽ bình dị, tuy có điểm xuyết một vài chữ Hán, nhưng là chữ Hán đã du nhập trong ngôn ngữ nước ta như: vật ( 物 ), hưởng ( 享 ); hoặc là các thành ngữ đối nhau: vô thủy vô chung ( 无 始 无 终 ) ≠ thường sinh thường vượng ( 常 生 常 旺 ).
Ngoài sự đổi mới về thể tài còn phải kể đến nỗ lực của thi nhân đưa thơ về với nguồn cội cầu nguyện. Trong Giáo hội, nhiều vị thánh đồng thời là thi nhân, như thanh Phanxicô thành Assise, Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu. Các thánh nhân thi sĩ phần nhiều đều là tu sĩ dòng chiêm niệm (ordres contemplatifs). Trong hàng giáo sĩ, nhiều linh mục là thi sĩ như Xuân Ly Băng (LM Lê Xuân Hoa), Cung Chi, Lương Nhi Tử (LM Đinh Đồng Thượng Sách), Trăng Thập Tự (LM Võ Tá Khánh), Nguyễn Tầm Thường (LM Nguyễn Trọng Tước). Nhiều giáo dân là nhà thơ nổi tiếng như Hàn Mặc Tử, Quách Thoại. Các giáo dân đều có tâm hồn thơ, mỗi chủ nhật được nghe Thánh vịnh. Đối với họ, cầu nguyện là vấn đề hệ trọng (la prière est une question de vie ou de mort) như nhận định của Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI Người ta thuật lại một giai thoại liên quan đến nhà văn Franz Kafka. Có người hỏi ông rằng: ‘‘Phải chăng thơ đưa (ta) về tôn giáo ? (la poésie tiendrait donc à la religion ?), Franz Kafka đáp: ‘‘Tôi không nói vậy, nhưng chắc chắn là tôn giáo dẫn ta về cõi thơ (Je ne dirai pas cela, mais à la poésie sûrement). Chính tâm tình mộ đạo đã thúc đẩy thánh Minh làm thơ.
2) Khác biệt về ngôn ngữ:
Thánh Minh hơn Cụ Nguyễn Đình Chiểu 7 tuổi. Cụ Đồ Chiểu sinh ở Gia Định, soạn truyện Lục Vân Tiên viết bằng chữ Nôm. Cũng như Lục Vân Tiên, thánh nhân soạn Inê Tử Đạo theo thể lục bát bằng chữ quốc ngữ. Tuy cả hai sống cùng thời, cùng miền Nam nhưng ngôn ngữ Inê Tử Đạo khác Lục Vân Tiên. Trong khi ngôn ngữ của Lục Vân Tiên có nhiều từ ngữ cổ của miền Nam và nhiều chữ Hán. Thí dụ: an nơi (câu 561, 1533) (yên chỗ), áo không bâu (1585) (áo không cổ), bảng lảng bơ lơ (1857) (không chú tâm), không hòa mùi chi (1112) (không ăn uống), tọa tiền chứng miêng (798) (ngồi trước bàn thờ mà chứng giám) v.v. Ngược lại, thánh Minh sử dụng ít từ cổ, ít dùng chữ Hán. Nhờ vậy lời văn nhẹ nhàng, dễ hiểu. Thơ của thánh Minh là cánh én, báo trước sự chuyển biến của văn học nước nhà, từ Hán-Nôm chuyển sang quốc ngữ. Sự chuyển hóa này còn kèm theo sự đổi mới về ngôn ngữ, ta về ta tắm ao ta. Đó chinh là ưu điểm văn thơ thánh Minh vậy.
Bài vãn ‘‘Inê Tử Đạo’’ thể lục bát gồm 562 câu là bản trường ca tử đạo nước Việt, ca ngợi nữ thánh Inê Đê tức Lê Thị Thành, tử đạo năm 1841, trước thánh Minh 12 năm
Mở đầu bài Vãn có những câu:
Có người đức hạnh danh Lam,
Dòng truyền giữ đạo nước Nam nên tài.
Carolo hiệu là người,
Diên Ninh ấy phủ, nhà nơi Lâm Tuyền.
Vợ hiệu Save là tên,
Giai lão kết nguyền, đạo đức kính tin.
Sinh đặng mười hai con hiền,
Bảy trai hai gái đã nên phước nhà.
Gái thì đặng một Inê,
Là con thứ tám trọn bề thảo ngay.
Đoạn tả Inê từ biệt chồng con, bị giam vào ngục thất như sau:
Inê lẳng lặng làm thinh,
Chồng càng than khóc vợ mình kể khuyên:
- Sắt cầm từ thuở ấu niên,
Nỡ nào ly biệt cho an tấc lòng.
Dầu chăng nên đạo vợ chồng,
Con thơ ai kẻ quan phòng dưỡng nuôi ?
Má hồng mặt bạc mày môi,
Mình vàng vó ngọc bỏ tôi chẳng nhìn ?
Em hỡi nghe lời anh khuyên,
Sắt cầm giai lão nhơn duyên hợp hòa.
.. . .
Anh thì ở lại chớ sờn
Thìn lòng giữ đạo chẳng hơn cũng tày.
Ngày sau ta lại hiệp vầy,
Thương thì cầu nguyện hồn ngay thẳng về,
Ấy là ngãi đạo phu thê,
Chớ ra lòng mọn lỗi thì chẳng nên.
Trước giờ bị hành quyết, thánh nữ không quên dặn dò con cái, câu thơ thể lòng thương yêu và ý chí can trường:
Bức thư này để lại cho con,
Sau khôn lớn mọi lời cho biết.
Con thì giữ đức nết hạnh khiêm nhường,
Bé thờ cha vâng giữ gia nương.
Lớn theo cậu ủi an dạy dỗ,
Cù lao báo bổ ơn ấy chớ nài.
Miễn là con giữ đạo thành tài,
Cho mẹ đặng ngày sau thấy mặt.
Dầu cha cải nghiệp kế mẫu qui đàng,
Hai con thìn khiêm nhượng kính đang.
Chớ khá ở bạc tình kiêu ngạo.
Lời lành dặn bảo thương mẹ thì nghe;
Áng vui chơi tửu sắc rượu chè,
Lời độc dữ gian tà lánh vẹn.
Mẹ rầy đã đến cõi thọ diệu quang,
Mọi lời sau trước rõ ràng,
Mẹ giã từ con còn ở thế.
Phần kết bài vãn là khải hoàn ca chung cho các anh hùng tử đạo nước Nam:
Bia vàng tạc chữ chí linh,
Để truyền sách ấy nối tình đời sau.
Inê là hiệu làm đầu,
Hiền kia Thánh nọ xem lầu bổ căn.
Ngoài 35 bài lục bát, thánh Phan Văn Minh còn để lại gần một trăm thơ Đường xướng họa của Phi năng Thi đàn. Việc thánh Minh sáng lập thi đoàn sẽ được đề cập trong phần sau đây.
III - HỘI TAO ĐÀN QUỐC NGỮ:
1) Ý nghĩa văn học: Vua Lê Thánh Tôn có công lập ra Hội Tao Đàn (Quốc âm). Tiếp nối công trình của tiền nhân, thánh Phan Văn Minh lập ra Hội Tao Đàn Quốc ngữ, đặt tên là Hội Thi Xướng Họa Phi Năng. Thiết tưởng cũng cần kể đến bối cảnh văn học đã đưa đến việc thành lập hội thơ.
Vua Lê Thái Tông ( 黎 聖 宗 ) (1442-1497) chọn 28 văn thần sung Hội Tao Đàn, gọi là nhị thập bát tú ( 二 十 八 宿 ), cổ võ quốc âm. Hồng Đức Quốc âm Thi tập tập hợp các bài thơ sáng tác vào giai đoạn này.
Vào thời thánh Phan Văn Minh, tuy chữ quốc ngữ do Linh mục Alexandre de Rhodes (1591-1660) đã sáng tác từ thế kỷ XVII với việc ấn hành Dictionarium annamiticum, lusitanum et latinum do Ấn quán của Tòa Thánh ở Roma ấn hành năm 1651, nhưng việc trước tác sử dụng mẫu tự la tinh vẫn chưa thông dụng. Cụ Nguyễn Đình Chiểu sống đồng thời với thánh Phan Văn Minh, sáng tác Lục Vân Tiên bằng quốc âm. Thánh Phan Văn Minh có công trong việc ‘‘sửa đổi cách viết chữ quốc ngữ giống hệt như bây giờ’’ (Dương Quảng Hàm), đồng thời quảng bá việc sử dụng chữ quốc ngữ để sáng tác văn học.
Tập Nước Trời Ca tập hợp các bài thơ xướng họa viết bằng chữ quốc ngữ do thánh Phan Văn Minh khởi xướng. Tác giả đã giải thích về tên thi tập ‘‘Nước Trời’’ như sau:
Đời trước, Thiên cơ bất khả lậu,
Đời nay, Con Chúa đã ra đời.
Nho gia không còn chi ẩn giấu,
Mà khắp bốn phương thấy rạng ngời,
Thiên cơ chính thật: NƯỚC TRỜI.
XƯỚNG I
Da-tô Cơ-đốc Đấng Con Trời,
Đặc cách lâm phàm cứu khắp nơi.
Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp,
Không dùng vương bá để xây đời.
Vâng lời Thiên mệnh đành thân diệt,
Gánh tội nhân gian chịu máu rơi.
Dĩ nhược thắng cường mệnh chứng tỏ,
Kiếp sau hiện hữu sống muôn đời.
Philipphê Minh
Bài thơ xướng trên đây làm theo thể thất ngôn bát cú, luật bằng, gồm 8 câu x 7 chữ = 56 chữ đã tóm tắt lịch sử cứu chuộc:
1) Đề ( 题 ):
w Câu phá đề giới thiệu nhân vật lịch sử, vào thế kỷ XIX phiên âm là Da tô Cơ đốc, ngày nay viết là Giêsu Kitô.
w Câu thừa đề nói đến việc Chúa xuống thế làm người.
2) Thực ( 真 ) giải nghĩa Chúa Giêsu không dùng ‘‘lợi danh’’ hoặc ‘‘vương bá để xây đời’’.
3) Luận ( 論 ): Chúa vâng lời Ngôi Cha (Thiên Mệnh) chịu khổ giá thập hình.
4) Kết ( 结 ): Chúa lấy nhu thắng cương, lấy nhược thắng cường cho kiếp sống đời đời.
Bài xướng cho thấy thi sĩ thừa hưởng truyền thống Nho gia khi sử dụng các thuật từ thiên mệnh ( 天 命 ), dĩ nhược thắng cường ( 以 弱 胜 强 ).
Bài xướng của thánh Phan Văn Minh đã có 48 bài họa. Các bài từ 46 đến 48 họa sau khi thánh Minh được phúc tử đạo.
Sau bài Xướng trên đây, tác giả sang tác bài ‘‘Khai Hội Thơ Vịnh E Vang’’. E Vang là phiên âm của Évangile, ngày nay gọi là Phúc Âm hoặc Tin Mừng. Thánh Minh sáng tác hơn 30 bài vịnh như sau:
KHAI HỘI THƠ
VỊNH E-VANG
Gia cang, đất nước với thân danh,
Tô điểm E-vang tận gốc nhành.
Cơ cấu nhân sinh theo Đạo thanh,
Đốc-hành thế sự với tân thanh.
Con đường bác ái khi chung sống,
Đức độ công bằng lúc đấu tranh.
Chúa đã hoằng khai nguồn cứu rỗi,
Trời cao không bỏ kẻ ngay lành.
SỰ XÉT ĐOÁN
(Mt.7, 3-3. Lc 4,41-42)
Một chàng nho nhã, mặt thông minh,
Chỉ biết hắn ta khá giả hình.
Cọng rác mắt người thì chỉ trích,
Cây xà tròng hắn chẳng phê bình.
Dám khươi cọng rác nơi người khác.
Mà vứt cây xà ở mắt mình!
Tiên xử kỷ rồi hậu xử bỉ,
Ở đời như thế mới công bình.
XEM TRÁI BIẾT CÂY
(Mt 7,16-20)
Đời nhiều giả dối phải đo lường,
Xem trái biết cây ấy lẽ thường.
Quýt chua ai hái ở cam đường,
Công bằng chẳng mọc miền tham nhũng,
Bác ái không đơm đất nhiễu nhương.
Cây xấu bao giờ sinh trái tốt,
Luôn luôn nhận xét kẻo lầm đường.
NƯỚC TRỜI ĐÂU ?
Nước trời họ hỏi ở đâu?
Chẳng như đối tượng làm sao mà nhìn.
Nói rằng: ở đó … chớ tin,
Ở đây… chớ vội đinh ninh mà lầm.
Nước Trời ở tại chân tâm,
Luôn luôn tỉnh thức mà tầm đạo ngay.
TIỆC CƯỚI
(Mt 13,1-14. Lc 14, 15-24)
Nước Trời như một đế vương,
Lịnh truyền mở hội tân hôn linh đình.
Những người mời trước ghi danh,
Lính vua đến thỉnh mấy lần chẳng đi.
Họ rằng mua bán kịp thì,
Người tìm thăm bạn, kẻ thì ruộng nương.
Có người đánh lính trọng thương,
Hoặc làm sỉ nhục, giết luôn chẳng từ.
Vua đem ngàn lính có dư,
Bao vây tàn sát chúng như giết ruồi.
Đoạn truyền lính đến khắp nơi,
Gặp ai bất cứ cũng mời tham gia.
Ngoài trong khách đến đầy nhà,
Vua vào chủ tọa, nhìn qua các bàn.
Có người ăn mặc xuyềnh xoàng,
Vua rằng: “ lễ phục đàng hoàng ngươi đâu?”
Dạy đem hắn nhốt nhà lao
Là nơi giam phạt kẻ nào khi quân.
Xưa nay kêu gọi rộn ràng,
Nhưng khi chọn lực là phần ít hơn.
LÚA VÀ CỎ
(Mt 13, 24-30)
Nước Trời đưa xuống cánh đồng?
Như đem lúa tốt gieo trồng xinh tươi.
Kẻ thù thừa lúc tối trời,
Lén đi rải hột khắp nơi cỏ lùng.
Cả hai đua mọc xanh um,
Gia nhân xin chủ, nhân công tẩy trừ.
Rằng: “ không phân biệt thực hư
Chờ mùa gặt đến nông gia ôm về;
Lúa vào kho trữ một bề,
Cỏ quăng vào lửa không hề tắt đi.”
HỘT CẢI
(Mt, 13, 31-32. Mc 4, 30-33. Lc 13,18)
Nước Trời ví với vật chi,
Ví như hột cải tí ti đen tròn.
Gieo vào đất một thời gian,
Mọc lên đâm tược, nẩy cành sum suê.
Chim trời bốn hướng bay về,
Nắng thì núp bóng, mưa thì ẩn thân.
MEN CHẤT
(Mt 13, 35. Lc 13, 20-21)
Nước Trời sánh với vật chi,
Ví như men tốt, bỏ vào bột trong.
Vài hôm cảm thấy hơn nồng,
Xem ra bột trắng đã cùng dậy men.
TAY LƯỚI
(Mt 13, 45-47)
Nước đem xuống thế gian,
Ví như tay lưới bủa quang biển đời.
Kéo lên các giống cá tươi,
Lựa ra tốt xấu, xấu thời bỏ đi.
Thế gian tới lúc chung thì,
Người lành kẻ dữ, phân thì hai nơi.
Lành thì kiếp kiếp thảnh thơi,
Dữ thì bị phạt đời đời hỏa thiêu.
TÌM TRƯỚC HẾT
(Mt 6, 33. Lc 12, 31)
Việc tìm trước hết ở đời,
Là lo đoạt được Nước Trời mà thôi.
Sống theo công chính giữa đời,
Còn muôn điều khác Chúa Trời sẽ ban.
HŨ VÀNG
(Mt 13I,44)
Nước Trời như một hũ vàng,
Giấu trong thửa ruộng, một chàng biết qua.
Chàng về bán hết cửa nhà,
Xin mua ruộng đó để mà hộ thân.
KIM CƯƠNG
(Mt 13, 45-46)
Nước Trời như hột kim cương,
Lái buôn kia biết tìm đường tới mua.
Bán nhà ruộng đất không chừa,
Quyết mua cho được mới vừa lương tâm.
TÁI SINH
( Jn 3, 3-5)
Nước Trời mắt thịt chẳng nhìn,
Nhờ ơn trên giúp, tái sinh hẳn hòi.
Mới trông thấy được Nước Trời,
Tức là phối hợp nguồn vui trường tồn.
NGOÀI MÔI MIỆNG
(Mt 7,1)
Tưởng rằng lạy Chúa không thôi!
Thì là chiếm được Nước Trời ai ơi?
Thật là đời sống mổi người,
Làm theo Thánh Ý Chúa Trời mới nên.
KẺ GIÀU CÓ
(Mt 19, 22 -24. Mc 10, 20-22. Lc 17,19-30)
Kẻ giàu vô được Nước Trời,
Khó hơn hang chuột bắt voi chui vào
Lạc đà chui lỗ kim thâu,
Dễ hơn những kẻ sang giàu qui thiên.
NGÓ LẠI SAU
(Lc 9, 61)
Cầm cày mà ngó lại sau,
Thì không xứng đáng vào chưng Nước Trời.
Sự đời để lại cho đời,
Biết đàng dứt khoát là người khôn ngoan.
LÒNG NGHÈO KHÓ
(Mt 5, 3. Lc 6, 20)
Ai người một dạ thanh bần,
Vì chưng sẽ được sống an Nước Trời.
Kẻ nghèo cam chịu thiệt thòi,
Hơn thua cũng chẳng mấy hồi ai ơi.
BÉ THƠ
(Mt 30, 14. Mc 9, 14)
Quí thay xích tử chi tâm ?
Ngây thơ, đơn giản, chẳng ham vị đời.
Dễ dàng chiếm lấy Nước Trời,
Vì chưng chốn ấy của người bé thơ.
HỒI TÂM
(Mt 21 31 - 32)
Kiêu căng cắt đứt mối giềng,
Quá dùng lý trí, hết phương tư thời.
Hồi tâm đĩ điếm khắp nơi,
Gian nhơn tỉnh ngộ Nước Trời được vô.
CHO DÂN KHÁC
(Mt 21, 43)
Nước Trời đến với dân này,
Đã không chấp nhận còn gây bạo tàn.
Cho nên cất khỏi toàn dân,
Giao cho dân khác mở mang trí lòng.
HOẠN NHÂN
(Mt 19, 12)
Thật là cao quí vô chừng,
Những ai chịu hoạn vì chưng Nước Trời.
Là điều khó hiểu cho đời,
Nhưng mà ơn Chúa giúp người độc thân.
CẢN TRỞ
(Mt 23, 13)
Khốn ai giáo lý cầm tay,
Cản người thiện chí vào ngay Nước Trời.
Dựa theo lý luận người đời,
Làm cho mờ ám lòng người ngây ngô.
LỚN NHỎ
(Mt 5, 19)
Giới răn Chúa dạy muôn loài,
Ai sai điều nhỏ mà bày kẻ theo.
Nước Trời kẻ ấy tí teo,
Còn ai giữ trọn mà kêu bảo người.
Họ là lớn nhứt Nước Trời,
Ai nghe xin hiểu những lời trên đây.
TẬP LUYỆN
(Mt 18I, 4)
Lời Thầy chí thánh dặn dò,
Tâm hồn của trẻ bé thơ nhứt đời,
Rán mà tập luyện kịp thời,
Đó là trọng vọng Nước Trời mai sau,
THẤY PHÉP LẠ
(Mt 12, 28. Lc 9, 20)
Da-tô dùng phép Thánh Linh,
Diệt trừ ma quỉ, huờn sinh loài người.
Nước Trời đã đến đây rồi,
Cho người đừng thấy, ấy đời tối tăm.
CỐ GẮNG
(Mt 11, 12. Lc16, 16)
Kể từ Giăng-Bạch qua đời,
Các thế Nước Trời, đón kẻ gắng công.
Còn ai tâm trí bất đồng,
Chẳng bao giờ được cảm thông Nước Trời.
Kể từ Giăng-Bạch hy sinh,
Kẻ nào đem hết sức mình không lơi.
Mới trông chiếm được Nước Trời,
Là trang dũng mãnh, là người khôn ngoan.
BÁO TIN
(Mt 10, 7. Lc 10, 9)
Hãy đi khắp các nẻo đường,
Báo tin thiên hạ Nước Trời đến đây.
Bốn phương Nam, Bắc, Đông, Tây,
Báo tin thế giới được hay Nước Trời.
Nước Trời đến giữa loài người,
Ngày nay ứng nghiệm các lời Sấm Kinh.
TỪ SA MẠC
(Mt 3, 2)
Tiếng từ sa mạc sơn lâm,
Vang lên kêu gọi: “Hồi tâm sẵn sàng.
Nước Trời nay đã đến gần,
Kiến nhi bất thủ như tầm dậm xa.”
ĐƯỢC MỜI
(Lc 19, 15)
Phúc thay những kẻ được mời,
Dự vào đại yến Nước Trời hiển vinh.
Vì chưng họ sống đức tin,
Cuộc đời xử sự: công bình, ái nhân.
BỊ ĐUỔI
(Mt 7I, 12. Lc 13, 28)
Áp-ram Gia-cóp tổ tông,
Tiên tri các Đấng ngồi trong Nước Trời.
Nhưng mà miêu duệ hậu thời,
Có phần bị đuổi ra nơi khổ hình.
Chỉ vì con cháu chẳng tin,
Chạy theo phù phiếm còn khinh ông bà.
ĐIỀU SAU CÙNG
(Mt 24, 14. Lc 13, 10)
Khi nghe ách nước tai trời,
Xảy ra khắp chốn liên hồi đó đây.
Cũng là biến cố xưa nay,
Loài người chưa phải đến ngày cáo chung.
Nhưng khi thiên hạ các vùng,
E-vang phổ cập đến cùng khắp nơi.
Muôn dân đủ các giống nòi,
Thảy đều thấy rõ Nước Trời siêu nhân.
Bấy giờ chấm dứt thời gian,
Đến thời chung phẩm, hạ màng thế gian.
Ngoài các bài vịnh Phúc âm, thánh Phan Văn Minh còn xướng họa với ông Đồ Ốc, dạy học, bốc thuốc ở Giồng Găng, Lâm Vồ, tỉnh Ba Tri (nay là tỉnh Bến Tre). Khoảng năm 1845, nhân thầy Phan Văn Minh về Ba Giồng chữa bệnh, ông Đồ Ốc đến thăm, xướng họa cùng thánh nhân.
XƯỚNG
Da-tô Cơ-đốc Đấng Con Trời
Đặt cách lâm phàm cứu khắp nơi.
Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp,
Không dùng vương bá để xây đời.
Vâng lời thiên mệnh đành thân diệt,
Gánh tội nhân gian chịu máu rơi.
Dĩ nhược thắng cường mệnh chứng tỏ,
Kiếp sau hiện hữu sống muôn thời.
Phil. Phan Văn Minh
HỌA
Thế gian vạn sự nói do Trời,
Nhưng tại làm sao vạn sự khổ khắp nơi?
Cứu khổ đã nêu bên đạo Chúa,
Giải nguy chưa thấy phía người đời.
Triều đình Nam-quốc xô không ngã,
Đạo trưởng Tây phương bám chẳng rơi.
Đã đẩy giáo nhơn vào thế khổ,
Vậy ai phải chịu bất tri thời.
Đồ Ốc
ĐÁP HỌA VẬN
Cai trị thế gian luật của Trời,
Có yên có khổ cũng tùy nơi.
Tranh danh: oán hận do người thế,
Giành lợi: chiến tranh lại thói đời.
Thuốc bổ vào người sinh thuận, nghịch,
Đạo ngay nhập thế có xuôi, rơi.
Xưa nay đau khổ do tham vọng,
Lịch sử chứng minh kẻ thức thời.
Phil. Phan Văn Minh
HỌA
Đau khổ xưa nay vốn tại Trời,
Thất mùa ôn dịch khắp nơi nơi.
Thủy tai chôn lấp bao nhiêu mạng,
Địa chấn nát tan mấy cuộc đời.
Khổ đó con người làm chẳng được,
Nạn này, Tạo Hóa trút đầy nơi.
Thiên tai, đại nạn, Trời làm cả,
Nhân loại chỉ gây giặc nhứt thời.
Đồ Ốc
ĐÁP HỌA VẬN
Sống ở thế gian chẳng khỏi Trời,
Khác nào loài cá khắp nơi nơi.
Sông sâu khỏe xác tha hồ lội,
Sông cạn, phơi thây há trách đời.
Cá có oán sông lên hoặc xuống,
Mình không biết nước lớn hay vơi.
Dĩ nhiên phải chịu vì không biết,
Thượng bất oán Thiên, lẽ thức thời.
Phil. Phan Văn Minh
2) Ý nghĩa tôn giáo: Ngoài ý nghĩa văn học, việc thành lập Tao đàn Phi Năng còn có ý nghĩa tôn giáo. Thánh nhân mời gọi thi nhân mặc khách tham gia Tao Đàn, họa thơ vừa để quảng bá chữ quốc ngữ còn ở giai đoạn sơ khai, lại vừa để cụ thể hóa Thánh vịnh 98.
Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.
Đàn lên mừng Chúa khúc hạc cầm dìu dặt,
Nương hạc cầm réo rắt tiếng ca.
Thánh vịnh 98 là kinh thơ tứ hải giai huynh đệ, thế giới kinh nguyện đại đồng trong Giáo Hội là ngôi nhà chung (Église collégiale), mỗi người chung lưng góp sức, thi nhân cùng góp vần thơ. Công việc của thánh nhân đã đạt được kết quả mong muốn, các bài họa nguyên vận không những nhiều về số lượng mà cả về phẩm chất. Tất cả đều thể hiện cố gắng chung là tạo không khí cầu nguyện bằng thi ca, theo truyền thống Thánh vịnh.
KẾT LUẬN:
Sự nghiệp văn học của thánh Philipphê Phan Văn Minh được đánh dấu bằng nhiều bài thơ quốc ngữ đủ thể loại, từ lục bát đến ngũ ngôn, từ song thất lục bát đến thất ngôn bát cú. Vì muốn giữ gìn sự trong sáng của chữ quốc ngữ trong buổi giao thời, khác với các văn nhân mặc khách cùng thời có khuynh hướng sử dụng chữ Hán, thánh nhân chú trọng đến việc dùng chữ quốc ngữ. Sự uyên bác Hán tự của thánh nhân chỉ được chứng tỏ qua mấy chữ Hán viết trên mộ bia. Niên biểu in trong Phi Năng Thi tập trình thuật cuộc khổ nạn của Thánh Minh: Qua sông Long Hồ bằng ghe, thánh nhân bị dẫn giải đến rạch Cái Mơn Bé, trở thành Pháp trường Đình Khao. Cha ngước mắt cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu cho con trong cơn lâm chung nguy biến này. Lạy Chúa, xin thương xót con. Xin chúa ban cho con đặng mạnh sức mà chịu đau khổ cho sáng danh Chúa. Lạy Chúa, xin tha muôn vàn tội lỗi cho con. Lạy Mẹ Maria, xin giúp sức cho con. Trời đang nắng chói chang bỗng dịu mát, quan giám sát hô to: Tà đao cứ việc. Đầu thánh Minh rơi xuống. Bổn đạo rước xác ngài về nhà thờ Cái Nhum an táng ngày 6-7-1853, thánh giá trên phần mộ khắc ghi:
Linh Mục Phi Lý Bá Minh Tử Vì Đạo
靈 牧 丕 理 播 明 死 爲 道
w Linh Mục Tử Vì Đạo: ý nghĩa đã sáng tỏ. Nhưng tại sao lại là Phi Lý ?
w Phi Lý là dịch âm: Philipphê. Nhưng Phi Lý không phải là phi lý theo ý nghĩa thông thường:
Phi 丕 (bộ Nhất 一) có nghĩa là lớn lao
Lý 理 (bộ Ngọc 玉) có nghĩa là cái đạo tự nhiên (Thiều Chửu)
Như vậy, từ ý nghĩa ‘‘không hợp lẽ phải‘’ (phi lý), Phi Lý trở thành đạo trời tự nhiên, cao cả.
Chúng tôi xin mượn bản tụng ca tán dương công đức của các anh hùng tử đạo nước Việt của thi sĩ Lương Nhi Tử để kết thúc cho bài nói chuyện hôm nay:
Họ là ai những anh hùng tử đạo ?
Là Quan cao, Cai, Đội, Tổng, thường dân,
Là Linh mục, là Tu sĩ, Giáo dân,
Là Chủng sinh, là Trùm họ, Thầy giảng.
Là Giám mục, y, thương gia, lính tráng.
Tóc hoa râm, tuyết trắng hay còn xanh
Là nam nữ nổi tiếng hay vô danh
Tên tuổi đủ hay mơ hồ khuyếm khuyết...
Họ là ai trong số ít được biết,
Thuộc dòng tộc Lê, Nguyễn, Phạm, Trần, Hoàng
Chi Đinh, Trương, Đỗ, Vũ, Tống, Bùi, Đoàn
Ngành Phan, Võ hay Hà, Hồ, Tạ, Đặng ?
. .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Họ là ai muôn đời quên sao được
Lấy máu đào viết Giáo Sử Quê hương
Gieo vào lòng đất mẹ hạt yêu thương
Bằng hàng trăm ngàn con tim bác ái…
Lạy tiên tổ vô cùng thánh ái,
Giúp chúng con vững chãi niềm tin.
Trung kiên thờ Chúa hết mình,
Đi đâu vẫn thắm mối tình Việt Nam.
Nguồn: http://www.vietcatholic.org/News/Html/55118.htm, http://vietcatholic.net/News/Html/55117.htm