Ảnh: Hát quan làng trong đám cưới người Tày
Đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc Tày Nùng ở vùng biên giới phía Bắc nước ta cực kỳ phong phú đa dạng. Những nét đẹp ấy đã được bao thế hệ người Tày chắt chiu gìn giữ và lưu truyền từ đời này sang đời khác, rồi ghi lại thành sách vở. Nhiều năm nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tổ chức các đoàn nghiên cứu sưu tầm và đưa về kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm hàng ngàn cuốn sách có giá trị. Trong đó có khá nhiều sách ghi chép tục lễ cưới xin của người Tày. Chẳng hạn như cuốn Ca đám cưới ký hiệu VNv.674. Sách có khuôn khổ trung bình 12 x 22cm gồm 122 trang, chữ viết chân phương dễ xem. Cuốn sách ghi niên đại là ngày 20 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 8 (1923). Sách ghi lại các bài ca kể về đoạn đường đi đón dâu của họ nhà trai từ lúc đi ra khỏi nhà cho đến khi tới nhà gái làm lễ và đón được con dâu về. Đầu tiên họ nhà trai chọn ra một người khéo léo linh hoạt giỏi ăn nói như thể người chủ hôn đại diện cho họ nhà trai gọi là Quan lang hoặc Quan làng, và hai người phụ nữ gọi là Pả me hoặc Pả mẻ. Viên Quan lang này ngoài tài ăn nói ra còn phải biết làm thơ ca, thuộc lòng một số bài ca đám cưới trong dân gian. Trong quá trình làm lễ đón dâu tất cả các nghi thức như: Màn chào hỏi nhà gái, dâng sính lễ, giới hiệu của hồi môn, giới thiệu chú rể… họ nhà trai đều phải trình bày bằng lời ca. Phía họ nhà gái khi đón tiếp họ nhà trai cũng ra sức tìm cách thử tài họ nhà trai bằng cách chăng dây, đóng cửa, đặt đòn gánh ngăn lối đi… bắt họ nhà trai phải đối đáp cho đúng cho hay rồi mới được đi. Quá trình hành lễ đôi đáp ấy có thể hình dung thành 4 chặng là:
Chặng thứ nhất: Chăng dây
Chặng thứ hai: Giữ cửa
Chặng thứ ba: Chặng hát trong nhà
Chặng thứ tư: Lễ chính thức
Đây là chặng cuối cùng phải thực hiện đầy đủ các nghi thức.
Dưới đây chúng tôi xin trích dịch giới thiệu đầy đủ các nghi thức đó từ trong bản Ca đám cưới ký hiệu VNv.674 và tuyển chọn 3 bài hát đối đáp giữ họ nhà trai và họ nhà gái.
Sách phân rõ các chặng:
Chặng thứ nhất: Chăng dây (khên lền). Khi họ nhà trai đến họ nhà gái dón dâu các cô bên nhà gái thường đón đường chăng dây hoặc chăng lưới cản lối nhà trai tới đón dâu. Nhà trai phải nộp lễ (hoặc tiền) các cô mới rút dây cho đi tiếp.
Chặng thứ hai gọi là chặng giữ cửa (thủ tu), nhà gái thường thử nhà trai bằng cách bày những vật chướng lạ trên đường lên nhà hoặc trước cửa nhà như đòn gánh, cái chổi hoặc thắp đèn treo lơ lửng trước của hoặc một vài vật vô lý nào đó như con dao, cái thớt… rồi là 4 chén rượu mang ra để Quan lang “rửa chân”. Cứ thế hai họ hát đối đáp với nhau, đối đáp không nổi sẽ bị coi là thua cuộc kém tài, kém lịch thiệp.
Chặng thứ ba: Sau khi vào nhà còn nhiều việc phải hát đối đáp như khi rải chiếu (pjái fục) nhà gái lại cố ý rải lệch, rải trái nhiều khi còn dựng nguyên chiếc chiếu lên vách hoặc đặt ở sàn nhà. Ông Quan lang nhà trai phải lập tức hát để chất vấn và đề nghị họ nhà gái chỉnh lại cho ngay ngắn. Khi mời trầu (nai mjầu) mời nước (nai nặm chà) cũng vậy người ta chất vấn, giải thích cho nhau nghe về nguồn gốc của nước trà, trầu cau.
Chặng thứ tư: Sau khi ăn trầu, uống nước xong thì đến việc làm lễ chính thức gồm các cung: 1. Cung nạp lễ; 2. Cung lễ tổ tiên; 3. Cung nộp vải khô ướt (Cung nộp can thấp); 4. Cung giải uế; 5. Mời ăn cơm (nai kin khẩu); 6. Cung lễ phụ mẫu; 7. Lễ tông thân…; 8. Cung xin đón dâu về nhà chồng.
BÀI 1:
HẮP TU VÂN CA (BÀI HÁT VỀ CỬA ĐÓNG)
Họ nhà gái hát:
Khỏi chiềng mừa các á cần nỏ!
Khỏi xo xam khéc lạ tàng cằn
Tỉ nẩy tu Đông Quân cẩm đoản
Háp cón cần pây bản hâư quây?
Ham háp nhựng cúa đây vô slổ
Khẩu slan them slửa lụa đây đu
Háp khẩu them háp mu mà quá
Y như vua xuất giá tấy binh
Hết rừ lạc lữ dinh tua khỏi
Xam cần rừ thất lội sai ngoa
Háp cón pây hâư mà quá nẩy?
(Tôi xin thưa các nàng đây nhé)!
Tôi xin hỏi khách lạ bên đường
Nơi đây cửa Đông Quân(1) cấm đoán
Gánh trước người đi bản nào xa?
Gồng gánh những của ang vô số
Gạo thơm cùng áo lụa đẹp thay
Rượu ngon cùng lợn quay khiêng vác
Y như vua xuất phát dấy binh
Sao lạc tới nữ dinh(2) tôi đấy
Hỏi người nào thất lỗi ai ngoa
Gồng gánh đi đâu mà về tới?
Họ nhà trai đáp:
Khỏi chiềng mừa các á cần nỏ!
Khỏi kể slậư vằn xưa hẩư chắc
Én Nam lẻ nhạn Bắc Đông Tây
Vằn còn mì tin pây tin tẻo
Sứ điệp pặt khảm kéo thông tin
Sloong bưởng đảy định rườn giá slủ
Hội hợp tởi Phục Hy tặt tạo
Chắng tặt pền slao báo dương gian
Tua cải cần điểm trang nả mjạc
Khóp tằng họ quý tộc chồm khua
Nhở én bên khảu mừa thông sự
Tua khỏi dú cách xứ viện phương
Xo cần khay tu luông hẩư khỏi. Thôi!
(Tôi xin cùng các ả trình thưa
Tôi kể chuyện ngày xưa cho biết
Én Nam thì nhạn Bắc Đông Tây
Ngày trước có tin qua tin lại
Sứ điệp vượt rừng núi thông tin
Hai bên được kết duyên giá thú
Hội hợp đời Bàn Cổ(3) truyền về
Phép tắc đời Phục Hy(4) đặt tạo
Mới đặt thành trai gái dương gian
Lớn lên người điểm trang xinh đẹp
Khắp họ hàng dân tộc mừng vui
Nhờ én bay tới nơi báo việc
Chúng tôi từ cách biệt phương xa
Xin người mở cửa cho tôi vào. Đi nhé!)
BÀI 2:
DÀO KHA VẤN CA (BÀI HÁT RỬA CHÂN)
Họ nhà gái hát:
Vằn nẩy cụng vằn đây Đại Xá
Canh Ngọ pi khắc hỏa Bính Thân
Pi Kỷ phạ lẹng hâng đại hạn
Bợi vằn cón vua Hản cheng công
Lưu Đài cắp Hán Xuân nhằng lé
Chut hương khửn lạy mẻ mường bân
Đại hạn đảy slip xuân khỏ lẳm
Lẹng hâng bấu mì nặm dào kha
Bợi Hoàng Trương ngâm nga kiện phạ
Chắng khỏ tằng thiên hạ tằng lai
Tản cần mà dặng đai tẩư lảng
Báo slao keo vội váng tung gia
Pây au nặm dào kha hẩư khoái
Pả mẻ dặng cà nẩy lểu hâng
Au lẩu mà hẩư cần dào cón. Thôi nỏ!
(Hôm nay tốt ngày - ngày Đại Xá(5)
Năm Canh Ngọ khắc hỏa Bính Thân
Năm Kỷ trời nắng lâu đại hạn
Bởi ngày trước vua Hán tranh công
Lưu Đài cùng Hán Xuân còn lẻ
Đốt hương lên lạy mẹ mường trên(6)
Đại hạn đã mười năm khổ lắm
Hạn lâu không có nước rửa chân
Bởi Hoàng Trương ngâm nga kiện trời
Mới khốn cho mọi người thiên hạ
Khách đến đều đứng cả dưới sàn
Gái trai kéo vội vàng lên gác
Lấy nước ra cho khách rửa chân
Bác mẹ đứng đã lâu đấy rồi
Lấy rượu ra cho người rửa trước. Thôi nhé!)
Họ nhà trai đáp:
Khỏi chiềng mừa các á cần nỏ
Cốc lẩu dú hâư oóc?
Choóc lẩu dú hâư mà?
Chắng pền lẩu dào kha giờ nẩy
Ngần chèn lẻ nẳng tẩư
Khẩu lẩu lẻ nắng mưa
Lẩu nẩy mừa tiển vua Ngọc Hoáng
Hết rừ au lồng lảng dào kha?
Thuổn nặm lẻ au cà mà lảu
Lẩy nẩy sle quí chức cần kin
Lồng thẻ nặm làng tin rừ đảy?
Cần cỏi ngặm đâư slẩy ngòi đu
Tua khỏi phuối thúc xu rụ bấu? Thôi nỏ!
(Tôi xin thưa các ả các cô
Gốc rượu ở đâu ra?
Chén rượu đâu mà tới?
Nay thành rượu đem tưới rửa chân
Bạc tiền là ở dưới
Cơm rượu ở bên trên
Rượu này đem tiến vua Ngọc Hoàng
Sao lại đem xuống sàn rửa chân?
Hết nước lẩy cỏ gianh mà cọ
Rượu này để quý họ người dùng
Đem thay nước rửa chân sao được?
Người hãy ngẫm trong dạ xem sao?
Tôi nói có vừa tai hay chẳng? Thôi nhé!)
BÀI 3:
NAI NẶM CHÀ (MỜI NƯỚC TRÀ)
Họ nhà gái hát:
Khỏi chiềng mừa Quang lang cần nỏ!
Củ tin cần khảu mà thâng các
Khỏi ná mì chà mjạc đảy nai
Chà đây dú đâư Keo
Noọng khỏi nhằng đang đeo pây xa bấu đảy
Chảm kin chà bâư mạy sơn lâm
Chảm kin chẻn chà bôm hết tiểng.
(Tôi trình cùng Quang lang người hỡi!
Bước chân người vào tới nơi đây
Tôi không có trà ngon đãi khách
Trà ngon ở bên Hác(7)
Trà mạn ở bên Kinh(8)
Tôi đây còn neo đơn đi tìm không được
Tạm uống trà rừng núi lá cây
Tạm uông chén trà đây lấy tiếng).
Nhà trai đáp:
Khỏi chiềng mừa phụ mậu sở sinh
Hợp đồng quan thân quý họ cần nỏ!
Rườn cần pây chợ háng mọi pan
Chà đây dú đâư Hác
Chà mjạc dú đâư Keo
Dự au đảy chà chuyên thết khỏi
Vằn nẩy việc giao hội trường sinh
Thết khỏi đảy chồm kin ơn tản.
(Tôi xin trình phụ mẫu sở sinh
Họ hàng cùng quan thân quí chức
Nhà người từng đi chợ các phiên
Trà ngon ở bên Hác
Trà mạn ở bên Kinh
Mua về được trà chuyên thết đãi
Hôm nay việc giao hội trường sinh
Mời tôi uống mừng vui ơn tạ.
Chú thích:
1. Đông Quân: chúa coi mùa xuân, trông nom các loài hoa nở.
3. Lữ dinh: nơi quân lữ đóng. Ở đây chỉ trong nhà của nhà gái.
4. Bàn Cổ: theo cổ truyền của Trung Hoa thì Bàn Cổ là thủy tổ của loài người.
5. Phục Hy: ông vua nước Tàu đời thượng cổ.
6. Đại Xá: tha hết cả tội lỗi cho mọi người.
7. Mường trên: mường trời, trên trời. Mẹ mường trên ở đây chỉ mẹ Hoa tức Cả ở mường trời có quyền lớn để ban phúc cho người trần gian.
8. Hác: chỉ người và đất Trung Quốc.
9. Kinh: chỉ người và đất ở miền xuôi nước Việt./.
Lưu Đình Tăng
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Nguồn: Thông báo Hán Nôm hoc, 2010, tr.318-325, phiên bản trực tuyến, ngày 19.10.2013.