Nhà văn Thu Loan
Tên thật: Nguyễn Thị Thu Loan, bút danh khác: Trọng Thu
Sinh năm: 1963 tại Hà Nam, Quê quán: Bình Định.
Chức vụ: Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Gia Lai, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Học ở Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh khóa 1981-1985
Tác phẩm:
Thơ: Một thời trăng (tập thơ, 1997), Sứ giả (tập thơ, NXB. Văn hóa dân tộc, 2006), Thơ Gia Lai tuyển chọn (NXB. Hội Nhà văn, 2009)
Tiểu thuyết: Sương làng chưa tan (tập truyện ngắn, NXB.VHDT, 2008), Một ngày của ký ức (tập truyện ngắn, NXB.QĐND, 1999), Núi rừng cưu mang (truyện vừa, NXB. Kim Đồng, 2001), Cuốn trong dòng lũ (tiểu thuyết, NXB.QĐND, 2001), Giữa cõi âm dương (tiểu thuyết, 2004)…
Nghiên cứu văn hóa dân gian: Lễ hội nông nghiệp của tộc người Bahnar ở Gia Lai (NXB. Văn hóa dân tộc, 2006)
Giải thưởng: Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Giải thưởng Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2000. Giải thưởng cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ quân đội năm 2000. Giải thưởng báo Thiếu niên Tiền phong và một số giải thưởng khác trên các báo và tạp chí.
Với Pleiku
Tôi lại về với Pleiku
Với mùa khô mịt mù bụi đỏ
Những nẻo đường bốn mùa lộng gió
Núi đồi trập trùng
như câu hát trầm bổng ngân nga…
Tôi gửi lại đây năm tháng tuổi thơ
Quên làm sao những hàng thông che ô
rợp con đường đi học
Mưa triền miên bầu trời ẩm ướt
Tiếng ve kêu nứt nẻ mùa hè
Những mùa sương phủ trắng lối đi
Thị xã mơ màng như lâu đài trong cổ tích
Quên làm sao những miền đất rẫy
Trên vai mẹ hai mùa mưa nắng quay tròn
Mẹ mặc áo xanh non cho đồi núi
Dáng tảo tần tựa cây bắp địu con
Hạt gạo trắng thơm có vị mồ hôi mặn
Tôi đi xa quay quắt suốt đời…
Tôi trở về xao xuyến tiếng mưa rơi
Ôi thiên nhiên Pleiku như vòng tay ấm áp
Những con đường vẫn nở hoa vàng hoa trắng
Ánh trăng dịu dàng đánh thức khát khao
Pleiku, Pleiku,
Tôi trở về
Làm đất phù sa dưới chân người gieo hạt
Nuôi triệu mầm bé bỏng lên xanh…
SỨ GIẢ
Trọn đời lăn lóc Tây Nguyên
Chưa hiểu hết người khác tộc.
Tim tôi rung nhịp cồng chiêng
Yêu pơlang* bùng sắc đỏ
Nhà sàn ấm lửa tôi đến trú
bài hơri, tiếng đuổi chim, viên sỏi nhỏ
ngụ hồn tôi
tôi triệu phú bao giờ!
Tôi tựa bóng mát Kơnia như mẹ như em tựa bóng
Uống nước Biển Hồ, tắm dòng Sê- San như làng
Cùng bộn vui kho chật ních lúa vàng
Cùng thót lòng lũ xô cây trốc gốc.
Mong một ngày người sánh vai vững bước
Hết độn rau rừng
Hết mặc áo vỏ cây
Hết bập bẹ tính phép tính thông thường bằng vạch dấu cây
Hiện hiện tâm hồn suối nguồn trong vắt.
Người tặng tôi hồn rừng sắc nắng.
Tôi nâng niu Người rước ra cõi sáng
Nguyện rũ bụi lầm
Nguyên khơi trầm tích...
ANH
Anh hiện bên ta khoảng trời ánh sáng
Ngọn lửa nóng ran ấm áp mái nhà
Bỗng thấy sống chẳng cần gì hơn thế
cần gì hơn
vệt - đất - mờ
trong mắt biển xa.
Ta đốt muộn phiền như đốt lá
Có hề chi mặt nạ quanh đời
Mở tung cửa đón trăng non cùng ngủ
Và hong khô vệt vệt mưa rơi.
Con mắt xanh nhuộm tươi lá nõn
Tim lần nữa rạo rục thuở đôi mươi.
CHÂN DUNG MẸ
BỨC TRANH
Những bà mẹ còng lưng địu củi không đầu không mặt, không mắt , im lặng bước qua hoàng hôn, con đường ầm ầm xe chạy, dãy phố chằng chịt mắt cửa, các khu biệt thự ngời ngời ánh điện, bữa ăn cá thịt vun đầy, cái nhìn vội vã, thờ ơ e ngại thương cảm, day dứt, không bận tâm, áy náy…
Những bà mẹ không đầu, không mặt, không mắt. Gùi củi ngự lặng đè nặng, lo âu đè nặng, gió núi lạnh, mùa quả lép, mùa khô hạn, đất nứt nẻ, căn bệnh chưa rõ nguyên nhân, gùi lúa cuối cùng đã nhẵn... nhu cầu thường trực dệt lưới nhện nhằng nhịt, nghiến.
Không đầu không mặt không mắt, những bà mẹ còng lưng địu củi. Chẳng còn gì đổi ra tiền, nụ cười rạng rỡ. mắt long lanh, váy hoa, đêm say ngủ. Bấu rừng, rừng teo. Bám rẫy, rẫy trơ đá gan gà. Dựa phố, phố âm u hù dọa. Còn tay sậm chai sần, chân trần không mỏi sẵn sàng mở lối mọi nẻo xa...
Những bà mẹ còng lưng đầu củi. Bước tất bật, mẹ tiến về núi đồi nắng ngày đang tắt, rừng nhập nhoà bóng cây, sương mờ đang mơ ngủ. Mẹ đi bằng sức hút ngàn năm trên đường số mệnh, khắc vào chiều dáng hình xứ sở.
Những bà mẹ còng lưng địu củi không đầu không mặt không mắt. Mẹ - bóng núi cuối ngày, đổ dài, xô lệch. Niềm tin CON NGUỜI vỗ cánh bay lên...
ĐÀN BÀ NÚI
Đàn bà núi
Lầm lụi
Gùi củi xếp chật sân
Bếp lửa chín quanh năm
Than ủ đượm hơi ấm.
Đàn bà núi
Suốt đời soi gương đất
Nắng rám mặt, mưa rát lưng
Da nẻ tay thô
Chân tòe móng quắp
Mồ hôi lặn đẵm đất
Đất hiện hình muôn mặt
Mùa sinh sôi rộn ràng.
Chồng vươn vai với làng
Sánh ngang trời - sông - núi
Lượn thịt no say chồng hưởng trước
Cồng chiêng tưng bừng mời lả lướt
Người ơi cứ thỏa cơn say
Tay êm - gối mềm sẵn đây
Chờ nâng trứng
Chờ hứng hoa
Cũng như con nít thơm nức thịt da
Hân hoan khoe đất thẳm trời xanh núi dài sông rộng.
Đàn bà núi
Cát bụi bóng nhòa.
NHỮNG BÀ MẸ TÂY NGUYÊN
Những bà mẹ Tây Nguyên chân đất lưng trần
Gùi trời xanh, rừng xanh, suối xanh, gương mặt trẻ thơ xanh
Mẹ lẫn vào âm thanh ồn ã, khói xe mịt mù
Mẹ hiển hiện sự mộc mạc của làng, sự vững vàng của núi, sự trong veo của suối
Mẹ -ký ức thời tro tranh thay muối cơm bằng củ chuối măng le.
Một thời làng buôn như cánh võng chở che
Mắt dõi rừng phập phồng hy vọng
Mẹ xẻ chia sự sống
Đoàn quân bất diệt như cây cỏ đại ngàn.
Có đứa con nhà cửa cao sang
Có đứa con nuôi suối sắn lùi nuôi lớn đã quay lưng chốn cũ
Sống một ngày bù ngàn ngày quắt quay quanh lửa
Chơi một lần bù vạn lần rau củ cầm hơi.
Kham nhẫn bên cuộc sống nổi sôi không thở than trách móc
Yêu thương không cần đền đáp yêu thương
Lặn vào mẹ cát bụi gió mưa khét đắng
Mấy gùi rau đổi manh áo thải ven đường.
Những bà mẹ Tây Nguyên chân đất lưng trần
Thờ ơ nhìn váy đầm, xe con, tòa nhà cao ốc
Lầm lũi đi
Như vẫn đi lầm lũi lối mòn dọc ngang rừng hoang đồi trọc.
Tôi muốn quỳ dưới chân và khóc.
Những bà mẹ Tây Nguyên.