Tin buồn bất ngờ với giới văn chương và độc giả, nhà văn Linda Lê vừa qua đời sáng nay 9-5, tại Paris, Pháp ở tuổi 59.

Nhà văn Linda Lê - Ảnh: VŨ HỒI NGUYÊN

Thông tin được tuần báo Nouvelobs - một trong số những tạp chí lớn nhất của Pháp - đưa tin chiều nay, giờ Việt Nam.

Nhà văn Vũ Hồi Nguyên từ Pháp cho biết ông nhận tin buồn từ một người bạn thân thiết người Pháp của Linda Lê.

Đây là tin rất đột ngột với ông Nguyên bởi mới cách đây 1-2 tháng nữ nhà văn còn ra mắt độc giả cuốn sách mới nhất.

Đài phát thanh France24 cho biết Linda Lê bệnh nặng từ một năm nay.

Nhà văn Vũ Hồi Nguyên cho biết Linda Lê hoàn toàn sống bằng công việc văn chương. Ngoài viết văn thì bà làm việc cho một nhà xuất bản lớn ở Pháp.

Ngoài tài sáng tác, bà rất giỏi tiếng Pháp, được các tờ báo lớn của nước Pháp đánh giá trình độ tiếng Pháp của bà ở mức sáng tạo ngôn từ tiếng Pháp.

Sinh ở Đà Lạt năm 1963 nhưng bà sang Pháp sinh sống từ sớm, say mê văn chương Pháp nên tiếng Pháp của bà rất giỏi.

Bà chọn độc giả Pháp là thị trường văn chương của mình và đồng thời độc giả Pháp cũng dành cho bà chỗ đứng rất cao trong nền văn chương của họ.

Năm 2012, cuốn tiểu thuyết Lame de fond (Sóng ngầm) của Linda Lê là một trong bốn cuốn lọt vào vòng chung kết giải Goncourt 2012 - giải thưởng văn chương số 1 tại Pháp. Cuốn sách đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam.

Một số cuốn tiểu thuyết nổi tiếng khác của bà cũng đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam như Vượt sóng, Tiếng nói, Thư chết, Lại chơi với lửa, Vu khống…

Từng phỏng vấn sâu với Linda Lê ở Hà Nội, theo dõi đời sống văn chương người Việt tại Pháp với vai trò là một người viết, ông Vũ Hồi Nguyên đánh giá Linda Lê là nhà văn gốc Việt số 1 tại Pháp. Nhưng bà có đời sống riêng nhiều thăng trầm.

Linda Lê hiếm khi xuất hiện ồn ào trong văn giới nhưng những tác phẩm đầy rẫy hồn ma của bà thì để lại dấu ấn mạnh mẽ trên văn đàn.

Linda Lê vậy là đã gia nhập cái thế giới bóng tối từng ám ảnh tác phẩm của mình.

Sinh tại Đà Lạt năm 1963, Linda Lê đến Le Havre, Pháp năm 1977.

Ở tuổi 14, cô cựu sinh yêu Balzac và Victor Hugo trường Pháp tại Sài Gòn, dĩ nhiên là đã chọn học ngành văn chương. Tiếp tục đến Paris, cô vào trường Henry IV nổi tiếng và sau đó là Đại học Sorbonne. Tiểu thuyết đầu tiên của Linda Lê (Un si tendre vampire) xuất hiện năm 1986, nhưng sau đó bị chính nhà văn chối từ trong danh sách tác phẩm chính thức của mình.

Trong giai đoạn đầu, dưới ảnh hưởng lớn từ nhà văn Áo Thomas Bernhard, văn chương Linda Lê mang đến một giọng văn cuồng dại bị kìm nén trong những câu văn chắt lọc tỉ mỉ. Đó là trường hợp của những tác phẩm như Vu khống hay Les dits d’un idiot.

Dần dần, văn của bà trở nên u sầu hơn, bị chia cắt bởi sự trống rỗng và vắng mặt. Thư cho đứa trẻ không ra đời thừa hưởng di sản đó và nhận giải Renaudot cho mục sách khổ nhỏ năm 2011.

Trong văn chương của mình, Linda Lê luôn hé lộ, gián tiếp hay trực tiếp, ít nhiều về bản thân mình. Trong Voix, bà kể lại những trầm cảm, những cơn điên và bệnh viện tâm thần nơi mình đã từng sống trong thời gian ngắn.

Trong đó bà kể: "Tôi nhận thấy cái chết, cái chết của tôi, là kiệt tác duy nhất tôi có thể thực hiện". Vô phương, bị đày ải trong chính sự tồn tại của mình, cũng như trong một xã hội mà bà ghê tởm sự tàn bạo, Linda Lê thích xem mình như "con gấu ngủ trong hang", đã lựa chọn văn chương làm nơi nương náu. Căn hộ của bà ở Paris chất đầy sách vở.

Vốn là một người đọc đam mê và không ngừng nghỉ, Linda Lê đã viết vô số lời tựa và vinh danh vô số những nhà văn quan trọng đối với mình.

Trong Les Chercheurs d'ombre, bà bày tỏ sự mến mộ dành cho "những kẻ ngờ vực", tức là những nghệ sĩ, cũng như bà, "tuyên bố không bao giờ trục lợi sự chắc chắn của mình".

Trong số "những lính gác bóng đêm" này có nhà văn Việt Nam Bảo Ninh và Nỗi buồn chiến tranh, có tiểu thuyết gia và thi sĩ huyền bí Cristina Campo và có cả Bruno Schulz.

Nhận giải Wepler cho tác phẩm Cronos năm 2010 và giải Hoàng tử Monaco cho toàn bộ sự nghiệp vào năm 2019, Linda Lê vừa xuất bản De personne je ne fus le contemporain tháng 2 vừa qua.

NGUYỄN VŨ HƯNG (thành viên hội đồng Graduate School 31 - Université Paris) dịch rút gọn từ L’Obs

 

 

(Kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn Võ Hồng)

Có ý kiến cho rằng Võ Hồng là người đứng ngoài vòng thời đại. Nhưng có đọc tác phẩm của Võ Hồng, mới thấy ông luôn đồng hành với đất nước, dân tộc. Như một người hiền của phương Đông, văn chương của ông đã vượt lên những thiên kiến chính trị hẹp hòi để bày tỏ chữ Hiếu đối với quê hương, đất nước của mình. Vì thế mà văn chương của ông đã tồn tại bền bỉ với thời gian.

Nhà văn Võ Hồng (1921 – 2013)

1. Mở đầu

Nhận xét về Võ Hồng, Trần Hoài Thư (2005), một nhà văn rất quyết liệt trong phẩm bình văn chương, đã viết như sau: “thành thật mà nói, hồi ấy (trước 1975), tác phẩm của Võ Hồng ít để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm trí của tôi… Bởi tác phẩm vủa Võ Hồng ít đề cập thẳng về chiến tranh và những suy nghĩ thao thức của một thế hệ…”.

Đặng Tiến (2013) thì nhận xét về văn chương Võ Hồng như sau: “kết cấu không hấp dẫn, tình tiết không éo le, cốt chuyện thàng thàng, ai ai cũng có thể trải nghiệm qua mà không vướng bận. Nhân vật thì thường thụ động, chậm chạp, không phát huy sáng kiến, thậm chí không kịp thời phản ứng. Họ chỉ ngồi im, ước mơ rồi tiếc rẻ. Không có cá tính rõ nét. Võ Hồng kể chuyện kháng chiến, từ thời Nhật thuộc đến hết thời Pháp thuộc, mà ông đã trải qua. Nhưng như khách bàng quan, không dấn thân mà cũng không phê phán. Trong khi thời đại chờ đợi, đòi hỏi một lập trường, một quan điểm”.

Đặng Tiến (2013) cũng tỏ ra ngạc nhiên trước tính cách của Võ Hồng, bởi vì Đặng Tiến cho rằng “đồng hương Khu Năm với ông phần đông là những người có ý chí, lập trường, động cơ chính trị mạnh mẽ, thậm chí quá khích, không chống bên này thì chống bên kia”.

Nhiều người tỏ ra khó hiểu vì ông là người Tây học, giỏi tiếng Pháp, nhưng hầu như trong văn chương của ông không có dấu vết gì từ các trào lưu tư tưởng thời thượng của thời kỳ đó. Trong khi cả miền Nam đang lên cơn sốt với như chủ nghĩa hiện sinh, hiện tượng luận, phân tâm học, với những trang viết đậm màu sắc tình dục thì ông vẫn thủ thỉ tâm tình về quê hương, về tuổi thơ. Có lẽ chính nghề dạy học đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn chương của ông. Giản dị, mực thước, thận trọng, kỹ lưỡng nhưng cũng không kém phần tươi mát, nên thơ, đó là những biểu hiện trong tác phẩm của ông.

2. Nội dung

Võ Hồng chừng như lạc lõng trong sinh hoạt văn học vốn đa dạng, phức tạp của miền Nam. Đặng Tiến (2013) cho rằng “trong hiện tình văn nghệ bị phân hóa ngày nay, trường hợp Võ Hồng là một biệt lệ hy hữu”. Nguyễn Vy Khanh (2019b) trong bộ sách Văn học miền Nam 1954-1975: Tác giả (Quyển hạ) xuất bản ở Mỹ đã đánh giá rất cao Võ Hồng: “Trong thời chiến tranh và phân chia đất nước cũng như gần hai thập niên gần đây, tác phẩm của Võ Hồng lúc nào cũng được trân quý, chứng tỏ chúng thật có giá trị tinh thần và lịch sử và đã trãi qua được sàng lọc của thời gian. Ông đã là nhà văn lớn của nửa hậu bán thế-kỷ XX, bề thế văn nghiệp của ông lớn không phải ở những triết lý, học thuyết có thể đề xướng trong các tác phẩm mà là ở sự già dặn, phong phú và chân thật của tácgiả”. Thế nhưng trong phần tổng quan ở quyển thượng, Nguyễn Vy Khanh (2019b) đã không xếp Võ Hồng vào bất cứ khuynh hướng nào của văn học miền Nam giai đoạn 1954 – 1975.

Thật ra Võ Hồng không phải hoàn toàn đứng ngoài thời cuộc. Huỳnh Như Phương (2013) đã khẳng định: “Ở miền Nam trước đây, ít có nhà văn nào viết về cuộc kháng chiến chống Pháp vừa chân thực vừa khẳng khái như Võ Hồng”. Võ Hồng đã dấn thân tích cực vào cuộc kháng chiến chống Pháp, một việc mà người Việt Nam yêu nước nào thời đó cũng tham gia. Với ông, cuộc kháng chiến chống Pháp là một vận hội của sự đoàn kết dân tộc lẽ ra không nên bỏ lỡ. Ông đã từng làm hiệu trưởng trường Lương Văn Chánh, một trường trung học trong kháng chiến chống Pháp ở Phú Yên và sống thời kháng chiến ở quê hương nghèo khó mà anh dũng của ông. Các tác phẩm của ông cho thấy ông cũng đã lăn lộn với cuộc kháng chiến chống Pháp thần thánh của dân tộc, cũng đau với nỗi đau của những người dân quê nghèo khó vì chiến tranh mà tan nhà nát cửa.

Trong Người về đầu non, Võ Hồng đã nói về cuộc chiến tranh ở quê hương ông: “Chiến tranh tràn lan mỗi ngày một rộng, làng tôi thành bãi chiến trường. Ðồng bào tản cư, bỏ nhà bỏ cửa, ruộng vườn để cỏ mọc hoang. Bác gái lần mò vào được với chúng tôi, mừng gặp con cháu nhưng mắt vẫn hướng về ngôi nhà cũ và về ngôi mộ bơ vơ ở lại một mình…”. Trong đó có cảnh người chết cũng không được an táng yên ổn, có cảnh người vợ bên xác chồng và đứa con dại có đôi mắt ngây thơ, đầu mang chiếc khăn tang giữa hương trầm mộ chí. Tiểu thuyết Như cánh chim bay có thể xem là biên niên sử về con người Phú Yên trong kháng chiến chống Pháp. Những phong trào chống giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt. Những cảnh tập luyện quân sự, canh gác, phá đường; phong trào tăng gia sản xuất, trồng khoai, trồng sắn; phong trào bình dân học vụ… đã được ông miêu tả hết sức sinh động trong tác phẩm.

Ông cũng không bỏ qua cuộc sống điêu linh của người dân trong cuộc chiến tranh ác liệt trước năm 1975. Tiểu thuyết Nhánh rong phiêu bạt có nhân vật là bé Thúy, một nạn nhân của chiến tranh, gia đình bị bom chết hết, em phải bỏ làng lên tỉnh lưu lạc, lúc làm đầy tớ, con ở, lúc giữ em, đi bán trứng, bán bong bóng dạo, bị đánh đập, hành hạ đủ điều. May mà cuối cùng gặp được người quen cũ của cha mẹ em nên được nhận làm con nuôi, được đi học trở lại. Trong truyện ngắn Bên đập đồng cháy, có cảnh những người dân quê lam lũ gồng gánh nhau chạy giặc, tản cư. Cả hình ảnh những người lính Đại Hàn, đồng minh của quân Mỹ cũng xuất hiện trong truyện ngắn của ông. Truyện Như con chim sơn ca lên án sự phi lý của chiến tranh khi kể về cái chết của Ái Lan, một cô bé nông dân sống ở vùng “giải phóng” có tâm hồn hồn nhiên, vô tư “như con chim sơn ca mổ hạt lúa và con sâu ở cánh đồng bên này rồi bay vụt qua cánh đồng bên kia, lại mổ con sâu, hạt lúa”. Ái Lan đi lên núi gài chông gặp đúng lúc lính Đại Hàn đi càn, Ái Lan chạy về đạp trúng ngay bàn chông mình gài. Truyện Chuyến về Tuy Hòa viết về một người quân nhân Đại Hàn “có vẻ mặt khó hiểu” cùng đi trên chuyến xe đò về thị xã Tuy Hòa, tỉnh lỵ của Phú Yên.

Xã hội miền Nam với trật tự xã hội bị đảo lộn do ảnh hưởng của Mỹ cũng hiện diện trong những tác phẩm của Võ Hồng. Khoảng mát kể về nhân vật Bân vốn là con của ông Thông phán, cháu nội của một Lãnh binh nay phải làm nghề thu tiền rác, người yêu cũ thì đi lấy Mỹ.  Truyện Gió cuốn viết về một xã hội bị hủy hoại bởi đồng đô la Mỹ, về những “nạn nhân của một xã hội thiếu thần tượng chói sáng”. Cả phong trào tranh đấu của Phật giáo và biến động miền Trung, chuyện tuổi trẻ hăng say và những hụt hẫng do ảo tưởng cũng được tác giả ghi lại trong Con suối mùa xuân.

20220508 4Từ phải sang, các nhà phê bình, nhà văn: Võ Văn Nhơn, Nguyễn Thị Thu Trang, Phạm Phú Phong, Hà Minh Châu, Phan Hoàng, Bùi Thanh Truyền, Đoàn Hoài Trung tại Hội thảo Khoa học quốc gia “Hoài cố nhân – 100 năm sinh nhà văn Võ Hồng” ở Phú Yên 24.4.2022

Hầu hết tác phẩm của Võ Hồng đều gắn bó với quê hương Phú Yên của ông, lúc chìm trong khói lửa chiến tranh như trong Như cánh chim bay đã nói ở trên, lúc là những ký ức đẹp đẻ về quê hương, về tuổi thơ trong Hoài cố nhân, Hoa bươm bướm. Trả lời phỏng vấn của tạp chí Văn trước 1975, ông đã tâm sự: “Nếp sống của quê tôi chưa hề được một nhà văn nào nhắc đến… Thế hệ của chúng tôi bị chiến tranh tàn phá quá nhiều, một số lớn đã chết, những nếp sống cũ bị lần lượt xoá đi, thay thế bằng nếp sống mới. Tôi nghĩ rằng nếu tôi dâng trọn cả cuộc đời của tôi để dựng lại cái Dĩ vãng đó cũng vẫn còn chưa đủ… Vậy viết về những kỷ niệm Dĩ vãng tôi nhằm vào việc lấp một cái hố trống. Tôi muốn các thế hệ đàn em có dịp thiết tha gắn bó với quê hương hơn”. (Võ Hồng, 1972). Ông thấy mình có trách nhiệm phải viết về quê hương Phú Yên của ông đến nổi ông cho đó là chữ Hiếu mà ông phải trả quê nghèo của ông: “Suốt cuộc đời tôi, chỉ có một tâm niệm duy nhất là trả được Hiếu cho quê hương qua từng trang sách. Tôi còn nợ quá nhiều, tôi sẽ cố gắng ”. (Nguyễn Lệ Uyên, 2005).

Mộc mạc, dung dị nhưng chân thật, không làm dáng, văn chương của Võ Hồng đã tạo được sự tin cậy nơi người đọc. Không phải ngẫu nhiên mà ông được nhiều độc giả yêu mến, thăm viếng, thư từ vào bậc nhất. Nhiều người trân trọng gọi ông bằng “thầy” mặc dù không hề thọ giáo với ông. Đó là bởi nhân cách và văn chương chân thật của ông, khiến độc giả luôn thấy thân thuộc, gần gũi với ông già nhỏ bé sống lặng lẽ trong ngôi nhà số 51 Hồng Bàng của thành phố Nha Trang yên bình. Trừ Võ Phiến (1999), người bạn thân cũ, có vẻ gay gắt với Võ Hồng trong bộ Văn học miền Nam: “Võ Hồng quả được an thân. Sống từ chế độ này qua chế độ kia, thế cuộc bao phen đổi thay, ông vẫn an, vẫn nhàn, vẫn khỏe. Vẫn viết lách để răn đời. Răn toàn điều lành…”, còn nhìn chung dư luận khá đồng thuận, công bình khi viết về ông và văn chương của ông.

Có lẽ cũng vì thế mà Trần Hoài Thư, mặc dù không mấy ấn tượng với văn chương của Võ Hồng, nhưng trong một chuyến xuất viện sau khi bị thương lần thứ hai tại mặt trận Bình Định năm 1969 đã đến thăm Võ Hồng tại Nha Trang và có bài phỏng vấn ông đăng ở báo Văn, để  rồi hơn ba mươi lăm năm sau (2005) đã thực hiện một số báo đặc biệt về Vũ Hồng, một số báo được nhận xét là ưu ái, nghiêm túc, nhận được sự ủng hộ, hợp tác với nhiều người trong và ngoài nước, nhiều thế hệ khác nhau: “Những tư liệu, hình ảnh cung cấp quá nhiều, đủ biết là tình thương mến của những người thuộc thế hệ đàn em của ông dành cho ông là to lớn đến chừng nào. Và chính những anh em cầm bút cũ ở trong nước đã đề nghị chúng tôi làm số chủ đề này”. (Trần Hoài Thư, 2005). Để cuối cùng Trần Hoài Thư đã tổng kết về văn chương Võ Hồng như sau: “tác phẩm ông trước sau vẫn ca tụng tình yêu chung thủy, tình yêu quê hương, cái đẹp của tâm hồn, cổ súy đạo nghĩa, ca ngợi và mang lại niềm tự hào của thế hệ ông trong thời kỳ chống Pháp, không kích động hận thù, không xúi dục kẻ khác lao đầu vào cõi chết”. (Trần Hoài Thư, 2005), một tổng kết đáng chú ý bởi người viết nó vốn rất rạch ròi, có lúc có phần cực đoan trong đánh giá văn chương, một tổng kết sau gần ba mươi năm nghiền ngẫm tác phẩm Võ Hồng.

Người ta nói có thứ văn chương có thể giúp chữa lành những vết thương, văn chương của Võ Hồng là liều thuốc ấy. Những người mang căn bệnh nhớ quê hương, nhớ những hương vị  gắn bó máu thịt của mình của một thời đã xa có thể tìm đến văn chương của ông để xoa dịu vết thương cho mình. Không phải ngẫu nhiên mà có người đã tìm đến với ông để được an ủi, để được thấy bình yên khi gặp những tai ương trên đường đời. Viết về văn chương của ông, Trần Hữu Tá (2003) đã có sự cảm nghĩ rất tinh tế: “Khi đọc truyện của Võ Hồng, cái buồn dịu dàng như cứ phảng phất đâu đây. Nhưng thật kỳ diệu, tâm trạng của người đọc không bị chùng xuống, yếu đi, mất lòng tin vào cuộc sống, mà ngược lại, như bình tĩnh, thanh thản hơn. Bởi lẽ nhà văn như muốn gửi tặng người đọc một điều trãi nghiệm: dù trong hoàn cảnh bi đát đến đâu, con người vẫn có thể tìm được một hạnh phúc giản dị nhưng cần vô cùng, miễn là ai cũng luôn có thái độ cảm thông, có sự tôn trọng yêu thương nhau, quan tâm chu đáo, hết lòng vì nhau”.

3. Kết luận

Hình dung về Võ Hồng, tôi nghĩ đó là một ông già mảnh khảnh, khắc khổ nhưng luôn có một nụ cười hiền hậu trên môi, kiểu người hiền của phương Đông, thông tuệ nhưng kiệm lời, yêu thương. Văn học không thể tách rời chính trị, trường hợp Võ Hồng cũng không phải là ngoại lệ, ông là người yêu nước sâu sắc, biết đau với nỗi đau của dân tộc, với những người dân Việt Nam vốn thống khổ vì chiến tranh. Nhưng văn chương của ông đã vượt trên những thiên kiến chính trị hẹp hòi để một lòng với đất nước, quê hương, vì thế đã bất chấp những biến thiên của thời cuộc để tồn tại bền bỉ với thời gian.

Võ Văn Nhơn

Nguồn: Vanvn.vn, ngày 25.4.2022

----

Tài liệu tham khảo:

– Đặng Tiến. (12/04/2016). Hoài cố nhân, Võ Hồng (1923-2013). Diễn Đàn.

 https://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/hoai-co-nhan-vo-hong

– Huỳnh Như Phương. (02.04.2013). Võ Hồng trong trí nhớ. Người Lao Động.

https://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/vo-hong-trong-tri-nho-20130402093920179.htm

– Nguyễn Lệ Uyên (12/04/2016). Võ Hồng, người luôn nặng lòng với quê hương. Diễn đàn.

https://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/vo-hong-nguoi-luon-nang-long-voi-que-huong

– Nguyễn Vy Khanh. (2019a). Văn học miền Nam 1954-1975: Tổng quan (Quyển thượng). San Jose: Nhân Ảnh.

– Nguyễn Vy Khanh. (2019b). Võ Hồng. Trong Văn học miền Nam 1954-1975: Tác giả (Quyển hạ), tr. 1572 – 1576. San Jose: Nhân Ảnh.

– Trần Hoài Thư. (2005). Tản mạn về Võ Hồng. Thư Quán Bản Thảo, 21, tr. 44, 48, 50-51.

– Trần Hữu Tá. (2003). Lời giới thiệu. Tuyển tập Võ Hồng, tr.8. Thành phố Hồ Chí Minh: Văn Nghệ – Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.

– Võ Hồng. (1972). Nhà văn Võ Hồng. Nguyễn Nam Anh phỏng vấn. Văn, 209, tr. 1-8.

– Võ Phiến. (1999). Văn học miền Nam, Truyện, tập 3, tr. 1718. California: Văn Nghệ.

Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm qua đời ở tuổi 82 sau thời gian chống chọi với bệnh ung thư, sáng 14/1.

Lễ viếng nhà thơ diễn ra từ tối 14/1 tại nhà riêng ở Phan Đăng Lưu, quận Phú Nhuận. Linh cữu ông sau đó hỏa táng tại Phúc An Viên ở quận 9 vào ngày 14h30 ngày 16/1.

Nguyễn Hồng Quang - con trai nhà thơ - cho biết ông mắc ung thư đại tràng từ năm 2017, sau đó di căn sang gan, phổi. Cách đây ba tuần, bệnh trở nặng khiến sức khỏe ông suy giảm, không thể ăn uống và yếu dần. Ngày 8/1, gia đình đưa nhà thơ vào viện để truyền dịch nhưng không có tiến triển, bác sĩ cho ông về nhà hôm 13/1. Ông ra đi trong vòng tay của các con, cháu.

Suốt thời gian điều trị, nhà thơ giữ tinh thần lạc quan và miệt mài hoạt động sáng tác. Tháng 12/2021, ông phát hành tiểu thuyết Người tài hoa khờ dại, lấy nguyên mẫu là nhà thơ Nguyễn Thanh Tùng. Trước đó, ông ra mắt trường ca Văn đàn bi tráng & Thơ chọn lọc gồm những tác phẩm hay nhất được chọn ra từ 10 tập thơ đã xuất bản.

Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm. Ảnh: Facebook Vu Tiem Nguyen

Nhà văn Nguyễn Trường cho biết lần cuối gặp nhau cách đây hơn một tháng, ông được nhà thờ ký tặng cuốn Văn đàn bi tráng & thơ chọn lọc. Khi đó, sức khỏe suy giảm nhưng Nguyễn Vũ Tiềm vẫn minh mẫn, say mê bàn chuyện văn chương. Đầu tuần, nghe tin ông nhập viện, Nguyễn Trường và nhà thơ Lê Quang Sinh đến thăm nhưng không được gặp do yêu cầu phòng chống Covid-19 của bệnh viện.

"Nguyễn Vũ Tiềm luôn tìm tòi, đổi mới thi pháp. Ông nghiên cứu sâu về thơ đến nỗi trở thành nhà phê bình văn học, đã có tên trong hội đồng lý luận văn học Hội Nhà văn Việt Nam khóa 9. Đặc sắc nhất là công trình Đi tìm mật mã thơ", nhà văn nói.

Nguyễn Vũ Tiềm sinh năm 1940 tại Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội. Trước năm 1975, ông dạy học ở Gia Lâm. Thời kỳ này ông bắt đầu sáng tác thơ về nghề dạy học và phong cảnh nông thôn. Sau năm 1975, ông chuyển vào TP HCM sống và làm việc. Các tác phẩm của ông thời kỳ này đa dạng chủ đề, thể loại như: Nữ hoàng trái cây, Thương nhớ tài hoa, Người thám hiểm thời gian, bút ký May quá, lòng tốt vẫn còn đây, sưu tầm biên khảo Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1993.

Sau khi về hưu năm 2002, ông thể hiện bút lực dồi dào với loạt thơ, trường ca, ký sự, lý luận - phê bình, biên soạn và cả tiểu thuyết kỳ ảo. Một số tác phẩm phát hành như: Văn đàn bi tráng, Sương Hồ Tây, mây Tháp Bút, Hoài nghi và tin cậy, Hoàng Sa, tiểu thuyết Bắn cung Hoàng hậu, Người trong cõi tâm linh, tiểu luận Đi tìm mật mã thơ, nghiên cứu phê bình Tiếp cận mật mã thơ... Ông từng nhận giải thưởng Hội Nhà văn TP HCM với tập thơ Minh triết đất đai, năm 2015.

Nguồn: https://vnexpress.net/nha-tho-nguyen-vu-tiem-qua-doi-4416266.html

(Kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn Võ Hồng)

Chúng tôi thật sự cảm kích khi đại dịch Covid-19 còn căng thẳng, Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Yên đã chấp thuận và tạo điều kiện để Trường Đại học Phú Yên phối hợp với Viện Nghiên cứu Phát triển Phương Đông, Trường Đại học Thái Bình Dương và Viện Khoa học Giáo dục – Văn hóa – Thể thao – Du lịch tổ chức hội thảo kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Võ Hồng.

20220502Nhà văn Võ Hồng (1921 – 2013)

20 năm sau truyện ngắn đầu tay Mùa gặt (1939), in trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy với bút hiệu Ngân Sơn, tập truyện đầu tiên Hoài cố nhân (1959) của Võ Hồng được xuất bản. Từ ấy đến nay đã có gần hai trăm bài viết bàn về sự nghiệp và tác phẩm của ông. Hơn tám thập niên đi vào đời sống, văn chương Võ Hồng đã khắc họa chân dung tinh thần của tác giả như một nhà văn có vị trí vững chắc trên văn đàn nửa cuối thế kỷ XX. Nay là dịp thuận lợi để chúng ta đào sâu suy nghĩ tìm ra những phẩm chất văn chương đặc biệt ở Võ Hồng và góp phần làm một tổng kết về sự nghiệp của ông.

Võ Hồng có nhiều kỷ niệm với Quy Nhơn, Huế, Hà Nội, Đà Lạt nhưng sâu đậm nhất vẫn là với quê mẹ Phú Yên. Vậy mà từ khi định cư ở Nha Trang ông rất ít khi về thăm lại quê nhà. Hình ảnh trong Chuyến về Tuy Hòa là hình ảnh từ chất liệu thực tại hay từ tưởng tượng? Có thể nhà văn quá bận bịu dạy học, viết văn, nuôi dạy con cái, rồi tuổi già, sức khỏe, thời gian không cho phép. Cũng có thể ông muốn lưu giữ nguyên vẹn ký ức thiếu thời về quê hương, không muốn khuấy động làm xáo trộn thế giới mà ông biến thành vĩnh cửu bằng nghệ thuật sáng tạo của mình.

Đây là lời của nhân vật người kể chuyện trong Mùa xuân nghe tiếng chim: “Không chỉ mồ côi cha mẹ, tôi còn mồ côi cả ngôi nhà thơ ấu, khu vườn xanh tươi, bến sông heo hút và những ngõ xóm quanh co. Trong chiến tranh, nhà tôi bị bom tàn rụi, nhớ quê hương, nhớ bà con làng xóm mà không dám về thăm. Nhiều hôm ngồi nhớ, nước mắt âm thầm. Trong trí nhớ, ngôi nhà, khu vườn hiện lên rõ ràng như trải ra trước mắt. Nhưng nếu về thăm thì cảnh còn sót lại trong trí nhớ sẽ vĩnh viễn mất luôn”.

Thế nhưng Võ Hồng luôn hiện diện với Tuy An, Tuy Hòa, Sông Cầu… trong những tác phẩm của ông. Chính hôm nay anh linh ông cùng chúng ta trở về Phú Yên, về với dòng sông, cây cầu, lò gốm, ngõ chợ, bến xe… Trong không khí đầm ấm này, tôi xin mạo muội nêu ra với hội thảo mấy đề nghị sau đây.

Một, xin đề nghị gia đình nhà văn Võ Hồng ủy quyền cho Trường Đại học Phú Yên lưu trữ và quản lý toàn bộ bản thảo, sách vở của ông. Trường Đại học Phú Yên vui lòng nhận nhiệm vụ sưu tầm, tập hợp, phục hồi nguyên dạng văn bản và sắp xếp tác phẩm Võ Hồng theo thể loại/ thứ tự thời gian để lần lượt tái bản: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, suy niệm – tản văn – phỏng vấn.

Sở dĩ chúng tôi có đề nghị này là vì hiện nay vẫn còn những di cảo của Võ Hồng chưa được công bố. Một số tác phẩm của ông được tái bản nhưng có nhiều lỗi kỹ thuật do in ấn. Trong những cuốn sách được Võ Hồng tặng mà chúng tôi lưu giữ, có nhiều chỗ ông sửa chữa bằng bút chì, bút mực, bút xóa, thậm chí có chỗ ông bổ sung cả một đoạn văn hay một chương sách (chẳng hạn, tiểu thuyết Nhánh rong phiêu bạt). Ngoài ra, cũng thật buồn mà nói rằng Võ Hồng ít có những cuốn sách được trình bày mỹ thuật và in trên giấy tốt.

Chúng tôi chưa dám đề cập đến một Toàn tập tác phẩm Võ Hồng vì điều này đòi hỏi đáp ứng những tiêu chí nhất định và sự đầu tư nhiều thời gian và công sức. Vả chăng, những toàn tập in trang trọng, bìa dày, có giá thành cao thường khó tiêu thụ và tiếp nhận trong độc giả hiện nay. Gia đình có thể trực tiếp ký kết hay ủy quyền cho Trường Đại học Phú Yên để nơi đây hợp đồng với một nhà xuất bản hay công ty làm sách, với những thỏa thuận chặt chẽ về tác quyền, để lần lượt in lại tác phẩm Võ Hồng theo một định dạng thống nhất về hình thức, cách trình bày và mẫu bìa trang nhã, giản dị đúng như tính cách của nhà văn.

Hội thảo này ghi nhận một thư mục tác phẩm Võ Hồng khá công phu do PGS. TS. Nguyễn Thị Thu Trang thực hiện. Một thư mục khác cũng có giá trị tham khảo về những tác phẩm của nhà văn và những công trình viết về ông do nhà nghiên cứu Ngô Văn Ban tập hợp. Dựa trên hai thư mục này, Khoa Ngữ văn của Trường Đại học Phú Yên có thể tổ chức cho giảng viên và sinh viên triển khai những công trình nghiên cứu, luận văn, khóa luận về Võ Hồng, tiếp nối những thành tựu đã có.

Hai, xin đề nghị các nhà biên soạn sách giáo khoa bậc tiểu học và trung học quan tâm chọn lựa văn bản tác phẩm Võ Hồng để giảng dạy cho học sinh. Ở miền Nam trước 1975, tác phẩm Võ Hồng đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Hiện nay trong các bộ sách giáo khoa được biên soạn chính thức, có nhiều văn bản của các tác giả miền Bắc, ít tác giả miền Nam, càng ít tác giả miền Trung. Dù không tán thành chủ nghĩa địa phương và sự bình quân, chúng ta cũng nên lưu ý đến bức tranh đa dạng vùng miền trong một nền văn học thống nhất.

Trong chương trình văn học địa phương, Võ Hồng đương nhiên là tác gia quan trọng của văn học Phú Yên. Nhưng tác phẩm của ông, với cảnh sắc và con người Nam Trung bộ, với giá trị nhân văn và ngôn ngữ nhuần nhị, cần được giới thiệu cho học sinh cả nước như một trong những thành tựu của văn học thế kỷ XX. Một số bài thơ trong tập Hồn nhiên tuổi ngọc rất phù hợp với tâm lý học sinh tiểu học. Nhiều trích đoạn trong các tác phẩm Áo em cài hoa trắngTrận đòn hòa giảiVùng trời thơ ấuVẫy tay ngậm ngùiThương mái trường xưa và những truyện ngắn, tiểu thuyết khác của cùng tác giả có thể thành văn liệu cho sách giáo khoa trung học cơ sở, với tư cách bài trích giảng hay bài đọc thêm.

Không bao giờ phủ nhận rằng làm văn học cũng là làm giáo dục và không đối lập nghệ thuật với đạo đức, ngòi bút Võ Hồng đem lại sự “thanh lọc tâm hồn” cho độc giả thiếu nhi và ta chỉ có thể nhận ra giá trị của tác phẩm từ góc độ của tình thương yêu. Thiết nghĩ, với tài năng hóa thân vào những nhân vật trẻ em của tác giả, những tác phẩm này vẫn có thể tìm được sự đồng cảm của bạn đọc thiếu nhi ngày nay.

Ba, Võ Hồng là niềm tự hào của quê hương Phú Yên và vùng đất Nam Trung bộ, vì vậy tôi mạnh dạn đề nghị hai thành phố Tuy Hòa và Nha Trang nên có con đường mang tên Võ Hồng. Tỉnh Phú Yên, đặc biệt là huyện Tuy An, nên có trường tiểu học hay trung học mang tên Võ Hồng. Việc ứng xử này đã có tiền lệ dành cho các văn nhân nổi tiếng ở một số địa phương khác như Á Nam Trần Tuấn Khải, Đông Hồ, Bích Khê, Nguyễn Hiến Lê…

Do hoàn cảnh gia đình, ngôi nhà và phòng văn của Võ Hồng trên đường Hồng Bàng (Nha Trang) không còn được lưu giữ như một kỷ niệm. Với sự hỗ trợ về tư liệu, hiện vật của gia đình nhà văn, các văn hữu và độc giả, khi đủ điều kiện, Trường Đại học Phú Yên có thể tổ chức một triển lãm về Võ Hồng. Những tư liệu và hiện vật này nên tập hợp trong phòng lưu niệm của nhà trường về các danh nhân lịch sử – văn hóa của tỉnh Phú Yên, nơi mà công chúng, nhất là thế hệ trẻ, có thể đến tham quan, tìm hiểu về những nhà văn, nhà hoạt động văn hóa tiêu biểu của quê hương. Với cách làm này, Trường Đại học Phú Yên sẽ trở thành một địa chỉ văn hóa nằm trong bản đồ du lịch, thu hút các du khách đến với tỉnh nhà.

Huỳnh Như Phương

______________

Trích tham luận “Võ Hồng – phẩm hạnh của văn chương” gửi Hội thảo kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Võ Hồng, tổ chức tại Phú Yên ngày 24.4.2022.

Bài đã đăng Tạp chí Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, số 20, ngày 21.4.2022.

Thẳng thắn, kiệm lời, mộc mạc và cương trực... là ấn tượng mà Phan Thúy Hà - cây bút “phi hư cấu” rất đáng đọc trong 5 năm trở lại đây với 5 cuốn sách ít nhiều gây xôn xao (4/5 cuốn đã tái bản 1-4 lần) - mang lại khi chúng tôi trò chuyện online. Phan Thúy Hà rõ ràng không thích bộc lộ mình, có lẽ vì vậy mà khi tôi ngỏ lời phỏng vấn, cô từ chối. “Hà rất ngại trả lời phỏng vấn, vì những gì muốn nói đã nói trong sách rồi. Đó là những cuốn sách cho tất cả mọi người chứ không phải của Hà”. Song, giữa những ngày dịch bệnh đầy bất an, từ Hà Nội, cô nhắn cho người bạn mới quen ở Sài Gòn: “... Cũng nên nói đôi điều về công việc tôi đã làm 5 năm qua”.

20211222 2

 Ảnh: Tự Trung

Hội thảo khoa học quốc gia "Hoài cố nhân - kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Võ Hồng" vừa diễn ra chiều 24-4 tại tỉnh Phú Yên, quê hương nhà văn.

TS Trần Lăng - hiệu trưởng Trường ĐH Phú Yên - trình bày đề dẫn hội thảo - Ảnh: DUY THANH

Hội thảo do Trường ĐH Phú Yên phối hợp với Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông, Viện Khoa học giáo dục - văn hóa - thể thao - du lịch Đà Lạt, Trường ĐH Thái Bình Dương tổ chức.

Tham dự hội thảo có các nhà nghiên cứu, nhà văn, học trò của ông đến từ nhiều nơi trong cả nước.

Hội thảo được tổ chức nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố nhà văn Võ Hồng, khẳng định những đóng góp của ông với văn chương và giáo dục; trao đổi thông tin về những công trình nghiên cứu mới về Võ Hồng, đánh giá mối quan hệ giữa văn học và văn hóa thông qua những tác phẩm viết về quê hương và những nơi ông từng sống, học tập, làm việc.

Võ Hồng là một nhà văn đôn hậu, yêu quê hương và con người. Ông kể chuyện đời cũng như kể chuyện mình: trầm tĩnh, thận trọng và khiêm nhường.

Tự điển Văn học (bộ mới, NXB Thế Giới; 2004)


20220426

Gia đình nhà văn Võ Hồng - Ảnh tư liệu chụp năm 1956

Gia tài văn chương đáng nể

Phát biểu đề dẫn hội thảo, TS Trần Lăng - hiệu trưởng Trường ĐH Phú Yên - cho biết nhà văn Võ Hồng sinh tại làng Ngân Sơn (xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên). Giấy khai sinh ghi ông sinh ngày 5-5-1921, nhưng theo lời chính ông kể thì ngày sinh đúng của ông là 21-1-1923.

Đề dẫn đã giới thiệu Võ Hồng là nhà văn có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam, nhất là giai đoạn 1954 - 1975 ở miền Nam. 

Hơn nửa thế kỷ cầm bút, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, Võ Hồng là mẫu nhà giáo - nhà văn lương thiện, trong sáng và tận tụy với nghề. Ông đã để lại một di sản văn chương đồ sộ gồm 6 tiểu thuyết và truyện dài, hàng trăm truyện ngắn và rất nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi.

Hoài cố nhân (1959) là tác phẩm đầu tiên được xuất bản của Võ Hồng, như "giấy thông hành" đưa ông vào con đường văn chương, với tinh thần hoài niệm như một đặc trưng xuyên suốt các trang viết của ông.

Có hơn 60 bài tham luận của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, người thân, học trò... của Võ Hồng gửi đến hội thảo, tập trung vào 5 nhóm chủ đề: "Võ Hồng - văn và đời", "Những vùng đất trong văn chương Võ Hồng", "Võ Hồng viết cho thiếu nhi", "Gia đình và nhà trường trong sáng tác của Võ Hồng", "Mấy phương diện nghệ thuật văn xuôi Võ Hồng" đã cho thấy sự quan tâm của giới nghiên cứu đối với đời văn của Võ Hồng.

Thế đứng đặc biệt của Võ Hồng 

PGS.TS Trần Hoài Anh (Trường ĐH Văn hóa TP.HCM) trong tham luận "Nhà văn Võ Hồng và sự hiện hữu trong đời sống văn học miền Nam 1954 - 1975" đã nêu sự chọn lựa hiện sinh của Võ Hồng trong hành trình sống và viết là hành trình khẳng định nhân vị: nhà văn - nhà giáo của mình trước cuộc đời.

Theo ông, "Võ Hồng không muốn mình là một phóng thể lẫn vào đám đông của một xã hội còn nhiều vấn đề làm đau nhói trái tim nhân hậu và yêu thương luôn khắc khoải ưu lo trước phận số con người của ông. 

Không những thế, hành trình sống và văn chương Võ Hồng còn là sự kết tinh từ những giá trị văn hóa truyền thống luôn hướng về cội nguồn và tình tự dân tộc để thực hiện kỳ vọng thức nhận trong tâm thức người đọc, nhất là thế hệ trẻ, những giá trị đạo đức luân lý cao đẹp của dân tộc nhằm góp phần giữ gìn "sinh mệnh văn hóa" Việt trong bối cảnh có nhiều sự "chênh chao" văn hóa ở miền Nam lúc bấy giờ".

Trong tham luận "Võ Hồng - phẩm hạnh của văn chương" gửi tới hội thảo, GS.TS Huỳnh Như Phương (Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM) đã khảo sát, bình luận về đời văn và tác phẩm của Võ Hồng từ ba mối quan hệ: truyền thống và hiện đại, chính trị và văn hóa, đạo đức và nghệ thuật.

"Nhà văn trân quý truyền thống mà không bàng quan với hiện đại, không tách rời chính trị nhưng lấy văn hóa làm chọn lựa căn bản, coi trọng đạo đức nhưng vẫn giữ tư chất nghệ thuật. Có thể nói đó là thế đứng đặc biệt của Võ Hồng trong một giai đoạn phức tạp, bi tráng của lịch sử đất nước và lịch sử văn học dân tộc" - ông Phương viết.

Nhớ Võ Hồng, người đánh thức thiên lương - Ảnh 4.

Bài viết của GS Huỳnh Như Phương trên Tạp chí Văn Nghệ TP.HCM

PGS.TS Võ Văn Nhơn (Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM) trong tham luận của mình đã nêu rằng nhiều người tỏ ra khó hiểu vì Võ Hồng là người Tây học, giỏi tiếng Pháp, nhưng hầu như trong văn chương của ông không có dấu vết gì từ các trào lưu tư tưởng thời thượng của thời kỳ đó. 

"Trong khi cả miền Nam đang lên cơn sốt với những chủ nghĩa hiện sinh, hiện tượng luận, phân tâm học, với những trang viết đậm màu sắc tình dục thì ông vẫn thủ thỉ tâm tình về quê hương, về tuổi thơ. Có lẽ chính nghề dạy học đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn chương của ông. Giản dị, mực thước, thận trọng, kỹ lưỡng nhưng cũng không kém phần tươi mát, nên thơ, đó là những biểu hiện trong tác phẩm của ông" - ông Nhơn nhận định.

Nhà nghiên cứu Phạm Phú Phong (Trường ĐH Khoa học Huế) trong tham luận "Võ Hồng - người đi đường dài không mỏi" nhấn mạnh rằng: "Qua trang viết, Võ Hồng thường biểu lộ mọi điều tốt lành cho mọi người, mọi nhà... Thế giới nhân vật của ông là thế giới của những con người yêu thương, độ lượng. Dưới ngòi bút của ông, nhân vật nào cuối cùng cũng có thể trở thành con người tốt. Ông đánh thức thiên lương ở mỗi người, bằng cách kéo tất cả những gì tốt đẹp về phía mình, những người tốt bụng về đứng chật tâm hồn nhân ái, ấm áp tình người của mình".

Kết luận hội thảo, TS Trần Lăng nhận xét rằng 100 năm đã qua, một ngàn năm cũng sẽ qua, nhưng những gì nhà văn Võ Hồng để lại cho hậu thế là quan trọng, là giá trị văn chương, văn hóa không thể phủ nhận. "Ông đã ra đi, hóa thân thành cát bụi, nhưng vui mừng là tác phẩm của nhà văn vẫn đang sống tiếp cuộc đời của người sinh ra nó" - ông Lăng nói.

Nhà thơ NGUYỄN QUANG THIỀU (chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam):

Võ Hồng làm hiển lộ phẩm hạnh của văn chương

Tôi tâm đắc với tiêu đề tham luận của nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương "Võ Hồng - phẩm hạnh của văn chương".

Trong cách nhìn của tôi đối với tác phẩm của Võ Hồng, tôi cho đây là một định nghĩa vô cùng chính xác. Ông là một trong những người làm hiển lộ phẩm hạnh của văn chương - đó cũng chính là phẩm hạnh của con người.

Sứ mệnh của văn chương là làm cho con người sống đúng phẩm hạnh của mình. Trong thời buổi mà không ít người sống với những tranh giành, mưu mô, ích kỷ, vô cảm, giá lạnh, hận thù, thì tôi nghĩ những tác phẩm của nhà văn Võ Hồng đã góp phần vào sứ mệnh phục sinh những tâm hồn bị tàn phá.

Khi biết tin tôi vào Phú Yên dự hội thảo kỷ niệm 100 năm ngày sinh Võ Hồng, một nhà văn nói với tôi là "Võ Hồng cũ lắm rồi". Tôi nói với anh ấy rằng: "Không, chúng ta nhìn nhầm. Võ Hồng không phải viết về những cái cũ, mà ông đưa chúng ta về những giá trị vĩnh hằng nhất, xuyên qua mọi thời đại, mọi biên giới".

Duy Thanh

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 25.4.2022.

 

Nhà thơ Trúc Thông, tác giả tập thơ "Chầm chậm tới mình", qua đời sáng ngày 26-12, sau một thời gian dài bị tai biến, hưởng thọ 82 tuổi.

Nhà thơ Trúc Thông tên thật là Đào Mạnh Thông, sinh năm 1940, quê quán Hà Nam. Sau khi tốt nghiệp Khoa Văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông về công tác tại Ban Văn nghệ, Đài tiếng nói Việt Nam cho đến lúc nghỉ hưu. Sau đó ông tham gia Ban biên tập Tạp chí Thơ của Hội Nhà văn Việt Nam.

20211226

Nhà thơ Trúc Thông, tác giả tập thơ "Chầm chậm tới mình",

qua đời sáng ngày 26-12, sau một thời gian dài bị tai biến, hưởng thọ 82 tuổi.

Độc giả yêu mến thơ Trúc Thông thường nhắc tới bài thơ lục bát "Bờ sông vẫn gió" viết tặng mẹ nổi tiếng của ông. 

"Lá ngô lay ở bờ sông/ Bờ sông vẫn gió người không thấy về/ Xin người hãy trở về quê/ Một lần cuối… một lần về cuối thôi/ Về thương lại bến sông trôi/ Về buồn lại đã một thời tóc xanh/ Lệ xin giọt cuối để dành/ Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha/ Cây cau cũ, giại hiên nhà/ Còn nghe gió thoảng sông xa một lần/ Con xin ngắn lại đường gần/ Một lần… rồi mẹ hãy dần dần đi". 

Bài thơ này được giới phê bình văn học coi là một trong những bài thơ hay nhất viết về mẹ trong thi ca Việt Nam hiện đại.

Gia tài tác phẩm của nhà thơ Trúc Thông gồm các tập thơ và lý luận: "Chầm chậm tới mình", "Maratong", "Một ngọn đèn xanh", "Văn chương ngẫu luận", "Vừa đi vừa ở", "Mẹ và em"… Ông nhận Giải thưởng Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội 1990 – 1995, Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2000, Giải B Hội Nhà văn Việt Nam năm 2000. Ông cũng được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đợt 5 - năm 2016. 

Ông Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, ví sự ra đi của nhà thơ là "chuyến xe mây về cõi vĩnh hằng". Ông nhận định Trúc Thông là một trong những người đi đầu trong việc làm mới thơ ca ở miền Bắc. Theo nhà thơ Quang Thiều: "nhà thơ Trúc Thông sống được đến bây giờ là một phần quan trọng bởi thơ ca. Thơ ca thực sự là máu chảy trong huyết quản ông. Tôi nghĩ nếu ông dừng nghĩ đến thơ, máu ông sẽ ngừng chảy. Cả đời ông sống trong im lặng. Chỉ có thơ ca là rền vang trong con người ông".

Nhà thơ Trúc Thông bị tai biến mạch máu não vào năm 2008, phải nằm cấp cứu nhiều tháng liền ở Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô. Sau đó, ông còn bị tai biến thêm 5-6 lần nữa nhưng may mắn, ông có một người vợ tận tụy và đảm đang, suốt đời lo lắng, chăm sóc cho chồng, con, nên đã qua được cơn hiểm nghèo. Nhà thơ vẫn có thể nhúc nhắc đi lại, người thân hỏi câu gì ông vẫn có thể đáp lại bằng cử chỉ, ánh mắt hoặc cố gắng nói dù khó khăn. Nhưng tháng 8-2020, cơn tai biến tiếp theo đã quật ngã ông, khiến nhà thơ phải nằm một chỗ.

Vào tháng 1-2021, chương trình "Mai Vàng nhân ái" do Báo Người Lao Động tổ chức với sự đồng hành của Ngân hàng TMCP Nam Á đã đến thăm nhà thơ Trúc Thông.

Lễ viếng nhà thơ Trúc Thông diễn ra từ 15 giờ ngày 26-12 tại nhà riêng ở Cầu Giấy. Lễ động quan vào 8 giờ 15 ngày 27-12. Linh cữu nhà thơ được hỏa táng tại Đài hóa thân Hoàn Vũ, Văn Điển và an táng tại quê nhà Bình Lục, Hà Nam.

Yến Anh

Nguồn: Người lao động, ngày 26.12.2021.

Tóm tắt: Kịch bản Tuồng Cha Minh in năm 1881 tại nhà in Tân Định, Sài Gòn, được sáng tác bởi Marie-Antoine Louis Caspar (cố Lộc), một thừa sai người Pháp. Vở kịch viết về thánh tử đạo Phan Văn Minh, cũng là người Việt Nam đầu tiên biên soạn từ điển khi góp sức cùng giáo sĩ Taberd biên soạn hai cuốn Từ điển Việt - La tinhTừ điển La tinh - Việt xuất bản năm 1838. Qua việc phân tích kĩ thuật xây dựng xung đột và nhân vật của vở kịch, có thể khẳng định đây là vở kịch hiện đại viết bằng chữ quốc ngữ sớm nhất của Việt Nam. Vở kịch này do đó là một cột mốc rất đáng ghi nhận trong lịch sử sân khấu Việt Nam nói riêng và lịch sử văn học Việt Nam nói chung.

Từ khóa: Tuồng Cha Minh, Marie-Antoine Louis Caspar, cố Lộc, Phan Văn Minh, kịch hiện đại, chữ quốc ngữ.

____________________________________________________________

Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, nên sớm tiếp xúc với văn minh văn hóa phương Tây. Công giáo đến từ phương Tây, nên cũng góp phần mang văn hóa văn học phương Tây đến Việt Nam. Bên cạnh Thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản được xem là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên, kịch bản Tuồng Cha Minh in năm 1881 tại nhà in Tân Định, Sài Gòn cũng có thể là vở kịch hiện đại viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam[1].

1. Tuồng Cha Minh – Những khía cạnh lịch sử

1.1. Về tác giả Tuồng Cha Minh

Chưa có tài liệu nào nói về tác giả của vở kịch Tuồng Cha Minh, nhưng theo chúng tôi, đó có thể là Marie-Antoine Louis Caspar, tên Việt Nam là cố Lộc, một thừa sai người Pháp, bởi trên trang bìa của Tuồng Cha Minh, dưới tên vở kịch có ghi mấy chữ viết tắt là J.M.J. Đây cũng là những chữ viết tắt được ghi trên Dictionnaire Annamite-Français (Từ điển Việt - Pháp) in năm 1877 mà người biên soạn là Marie-Antoine Louis Caspar. Hoàng Dũng trong bài viết “Chữ Quốc – thực tiễn phát âm và lịch sử chữ viết” cũng khẳng định “J.M.J. là viết tắt chỉ Giám mục Marie-Antoine Louis Caspar (cố Lộc)” [6, tr.652].

Marie-Antoine Louis Caspar sinh ngày 23/3/1841 tại Obernai, vùng Bas Rhin, gần biên giới Pháp - Đức; được cử sang Việt Nam vào ngày 15/02/1865, phục vụ ở địa phận tây Đàng Trong (gồm các tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long), với tên Việt là Lộc, được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện Sài Gòn. 15 năm sau, từ năm 1880 đến năm 1907, ông được chỉ định cai quản địa phận bắc Đàng Trong (bao gồm: nam Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên). Năm 1906, ông từ giã giáo phận Huế đi Rôma và được Đức Giáo hoàng ban phép về nghỉ dưỡng bệnh tại quê nhà. Ông qua đời năm 1917.

Liệu một người Pháp như Marie-Antoine Louis Caspar có thể sáng tác được một vở kịch bằng chữ quốc ngữ như Tuồng Cha Minh không?

Việc người phương Tây thông thạo tiếng Việt không phải là hiếm. Giáo sĩ người Italia là Geronimo Maiorica (1591-1656) đã từng chủ trì biên soạn bộ Các Thánh truyện, kể về các thánh tử vì đạo bằng văn xuôi chữ Nôm. Người phương Tây thông thạo chữ quốc ngữ càng không phải là hiếm, bởi chữ quốc ngữ đã được sáng tạo, hình thành và sử dụng trước tiên trong các nhà thờ Công giáo. Bằng Giang trong công trình biên khảo Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ, bên cạnh việc khẳng định Canavaggio chính là dịch giả Tam quốc trên báo Nông cổ mín đàm từ năm 1901 đã dẫn thêm các trường hợp khác như Aubaret đã từng biên soạn Vocabulaire Francais-Annamite et Annamite-FrancaisGrammaire de la langue Annamite và dịch Gia Định thành thông chí ra tiếng Pháp; Landes từng dịch Nhị độ mai sang tiếng Pháp [7, tr.237-238]. 

Các tài liệu cho thấy Marie-Antoine Louis Caspar trong hơn bốn mươi năm ở Việt Nam đã dành nhiều thời gian nghiên cứu tiếng Việt, Hán Nôm và lịch sử Việt Nam. Nhà Việt Nam học, nhà Huế học lừng danh Leopold Cardière đã nói về Đức cha Caspar như sau: “Đó là một ông thánh, một nhà bác học. Tôi học người rất nhiều. Chính người đã dẫn nhập tôi về các nghiên cứu ngôn ngữ, lịch sử và khoa học tôn giáo. Người đã khai mào, khích lệ, hướng dẫn tôi. Không những người am tường khoa học ngôn ngữ và chữ Nho, mà còn rất tường tận về mặt lịch sử của xứ này” [2, tr.19].

Vì vậy, trường hợp của cố Lộc Caspar, người từng biên soạn Dictionnaire annamite-francais (Từ điển Việt-Pháp, Tân Định, Sài Gòn, 1877) và Notions pour servir à l’étude de la langue annamite (Những khái niệm giúp học tiếng Việt, Tân Định, Sài Gòn, 1879) là tác giả vở kịch quốc ngữ được viết theo kĩ thuật phương Tây là điều có thể hiểu được. Thực tế cũng cho thấy một vở kịch mang tính hiện đại được viết bởi một nhà văn Việt Nam ở cuối thế kỉ XIX là điều khó thể hình dung trong thời điểm ấy.

1.2. Về nhân vật chính của vở kịch

Nhân vật cha Minh trong vở kịch chính là linh mục Philipphê Phan Văn Minh. Ông sinh năm 1815, quê quán ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay là Bến Tre), sống cùng thời với Nguyễn Đình Chiểu và đồng hương với Trương Vĩnh Ký. Năm 1828, ông được giám mục Taberd nhận vào chủng viện Lái Thiêu. Sau đó, ông được gửi đi du học tại đại chủng viện của Hội Thừa sai Paris ở Penang (Malaysia).

Philipphê Phan Văn Minh là người đã góp sức cùng giáo sĩ Taberd biên soạn và ấn hành hai cuốn Dictionarium Anamitico - Latinum (Tự điển Việt - La tinh) và Dictionarium Latinum - Anamitico (Tự điển La tinh - Việt) xuất bản năm 1838. Với các công trình này, ông được xem là người Việt Nam đầu tiên biên soạn từ điển. Dương Quảng Hàm đã đánh giá về cuốn từ điển trên như sau: ‘‘Trong cuốn này, cách viết chữ quốc ngữ giống hệt bây giờ: mỗi tiếng Nam đều có chua kèm chữ Nôm: cuốn sách ấy sẽ là một cuốn sách làm gốc cho các tự điển tiếng Nam sau này’’ [8, tr.338].

Ông còn là một nhà thơ với một số tác phẩm bằng quốc ngữ như Nước trời ca, Phi năng thi tập... Võ Long Tê và Phạm Đình Khiêm cho rằng ‘‘ngôn ngữ thơ của thánh Minh (tiền bán thế kỉ XIX) xét ra khác hẳn ngôn ngữ thơ của thế hệ trước và có những mẫu số chung với ngôn ngữ thơ hiện đại’’ [12, tr.100]

Philipphê Phan Văn Minh bị quan quân triều Nguyễn bắt ngày 26/02/1853 tại họ đạo Mặc Bắc (nay thuộc tỉnh Trà Vinh). Ngày 03/7/1853, ông bị chém tại pháp trường Đình Khao, gần Vĩnh Long. Thi hài ông được an táng dưới nền nhà thờ đã bị đốt ở Cái Mơn. Ngày 09/12/1960, di cốt của ông được dời về Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn trong dịp lễ cung hiến. Giáo hoàng Lêô X đã suy tôn chân phước cho linh mục Philipphê Phan Văn Minh vào ngày 27/5/1900. Ngày 19/6/1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ông lên bậc hiển thánh.

Vở kịch Tuồng Cha Minh đến trước 1975 vẫn được diễn ở các nhà thờ vùng Vĩnh Long - Bến Tre. Cuộc đời ông cũng đã được đưa lên màn ảnh qua bộ phim Áo dòng đẫm máu sản xuất năm 1960 ở Miền Nam, do linh mục Nguyễn Hoàng Yến viết kịch bản, nghệ sĩ Năm Châu làm đạo diễn [9, tr.344].

2. Tuồng Cha Minh – Những khía cạnh kĩ thuật sáng tác

Hồ Ngọc Cẩn, vị giám mục thứ hai của Việt Nam, nhà nghiên cứu văn học ở đầu thế kỉ XX, đã phê phán các vở kịch viết theo lối mới, trong đó có Tuồng Cha Minh như sau: “Đời nay thiên hạ có bày tuồng hát kiểu nói nôm na, không văn hoa đối đáp; chỉ nói đơn sơ như cách nói chuyện, ví dụ như tuồng Cha Minh, tuồng Thương khó, v.v... song chính kiểu tuồng thói nước ta dùng bấy lâu nay, thì chẳng phải đặt cách thể ấy đâu” [3, tr.117].

Qua ý kiến của Hồ Ngọc Cẩn, chúng ta thấy Tuồng Cha Minh đã có những cách tân quá mới mẻ và chưa được sự đón nhận của công chúng độc giả Nam Kỳ, vốn thời điểm đó quen với truyện thơ, với câu văn biền ngẫu du dương, đăng đối. Đó cũng là trường hợp của Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản bên tiểu thuyết.

Nhà nghiên cứu tuồng Hoàng Châu Ký, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sân khấu, sau khi nghiên cứu Tuồng Cha Minh đã khẳng định đây là một vở kịch nói kiểu Tây phương hoàn chỉnh, nghĩa là nó hội đủ những đặc điểm của một vở kịch:

Thứ nhất: Nó thuộc loại tự sự. Khác với kịch cổ điển tuân thủ một cách nghiêm ngặt luật tam nhất, Tuồng Cha Minh chịu ảnh hưởng của kịch thế kỉ XVIII chỉ duy nhất trong hành động, còn để không gian và thời gian mở rộng.

Thứ hai: Về bố cục, vở kịch này đã được Việt Nam hóa. Một vở kịch nói Tây phương kiểu Tây phương thường gồm nhiều hồi (acte), mỗi hồi có nhiều lớp (scène), khi thay nhân vật là thay lớp. Nhưng Tuồng Cha Minh lại dùng ngôn ngữ của tuồng cổ Việt Nam khi gọi “thứ” thay cho hồi, gọi “tuồng” thay cho lớp, mỗi tuồng chỉ nhằm giải quyết một sự kiện.

Thứ ba: Về ngôn ngữ, văn trong các câu đối thoại của Tuồng Cha Minh tương đối dài, nhưng rất gần với lời ăn tiếng nói của nhân dân, thường dùng từ thuần Việt hơn là từ Hán Việt. So với câu văn thế kỉ XIX và của đầu thế kỉ XX sau này vốn còn rất dài dòng, du dương, đăng đối theo lối văn biền ngẫu, thì cách hành văn của Tuồng Cha Minh trong sáng và hiện đại hơn nhiều [11, tr.131-132].

Sau đây chúng tôi xin phân tích cụ thể kĩ thuật sáng tác theo kiểu phương Tây của Tuồng cha Minh.

2.1. Cách xây dựng xung đột kịch

Trong mọi vở kịch, xung đột kịch là tác nhân thúc đẩy cốt truyện phát triển. Xung đột kịch ở Tuồng Cha Minh có cả hai hình thức, xung đột bên ngoài song song diễn tiến cùng xung đột bên trong.

Với các xung đột bên ngoài, cốt truyện lược thuật theo diễn tiến như sau:

Mở đầu: Bếp Nhẫn không được cha Lựu cho vay tiền nên lập mưu cáo cha với quan để lấy thưởng. Cha Lựu nghi ngờ Nhẫn có ý xấu nhưng vẫn bình tâm phó thác mọi sự trong tay Chúa.

Thắt nút: Cha Lựu rời nhiệm sở. Cha Minh chuyển đến. Nửa đêm, lính theo chỉ điểm của Bếp Nhẫn, ập vào nhà Trùm Lựu bắt bớ, tra tấn để tìm thầy đạo Thiên Chúa.

Phát triển: Xét xử lần 1: Cha Minh không lay chuyển trước sự trấn áp tinh thần và chiêu trò khiêng qua thập ác do quan Án và quan Bố bày ra.

Xét xử lần 2: Cha Minh không lay chuyển trước dụ dỗ của quan Tổng đốc.

Đỉnh điểm: Án tử.

Mở nút: Các quan Tổng đốc, Án, Bố đều bày tỏ sự khâm phục trước tư cách của Cha Minh.

Kết thúc: Thiên đàng.

Xét ở xung đột bên ngoài, cốt truyện trong Tuồng Cha Minh thể hiện mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội trong niềm tin tôn giáo: bên này là Cha Minh với đức tin Thiên Chúa duy nhất, bên kia là một thiết chế cấm đạo hà khắc tại một xứ sở đã sẵn truyền thống đa tín ngưỡng và tôn giáo bản địa. Tương quan giữa hai nhóm nhân vật khác biệt rất lớn: Cha Minh, Cha Lựu, các giáo dân… chỉ có duy nhất đức tin để đương đầu với quyền sinh sát, bức hại, tra tấn… của triều đình.

Dựa trên mâu thuẫn bề mặt giữa chính sách cấm đạo và giáo dân, vở kịch là những thất bại liên tiếp của tuyến nhân vật yếu thế. Thất bại đầu tiên là Cha Minh, Trùm Lựu và hai ông quới chức[2] bị bắt. Sau nhiều ngày chịu không nổi tra khảo, hai ông quới chức đành chấp nhận bước qua cây thập giá, cam lòng từ bỏ đức tin. Đây là thất bại thứ hai. Sau nhiều lần tra tấn, thuyết phục Cha Minh bỏ đạo không thành công, triều đình đã châu phê án tử. Cái chết của Cha Minh là thất bại thứ ba, đóng lại vở kịch. Như vậy, qua ba tầng tăng tiến, các xung đột bên ngoài khép lại. Thoạt nhìn, tưởng như một sự thất bại… Thế nhưng vở kịch không khép lại mà sẽ mở ra một tầng nghĩa thứ hai, gắn với những xung đột bên trong. Xung đột bên trong này ráp vừa khít và hợp lí với thứ kết mang tên “Thiên đàng”: “Thứ sau hết là Thiên đàng (Apothéose) – dọn cho rực rỡ và hát xướng cho hay. Hát tiếng Annam hay tiếng Langsa cũng đặng” [10, tr.67]. Thiên đàng hay khúc hoan ca của đức tin báo với chúng ta rằng xung đột bên trong của vở kịch mới là xung đột chính yếu, mới là điều tác giả thật sự muốn kể.

Các xung đột bên trong gắn với sự phân vân, giằng xé và chuyển hóa trong nội tâm nhân vật để đưa đến hành động bên ngoài. Đọc Tuồng Cha Minh với các xung đột bên trong, chúng ta thấy một cốt truyện đồng dạng với cốt truyện ở trên nhưng sai biệt nhất định về ý nghĩa, như sau:

Mở đầu: Bếp Nhẫn đến gặp Cha Lựu, không được vay tiền nên quyết cáo cha để lấy thưởng. Cha Lựu nghi ngờ nhưng phó thác mọi sự trong tay Chúa với sự tha thứ tuyệt đối:

Trùm Lựu: - Dạ bẩm Cha, như mà con nghe quả thằng Nhẫn lên tỉnh mà cáo, con sai trẻ qua đốt nhà nó.

Cha Lựu: - Ủa? Ông Trùm nói gì lạ vậy? Xưa Đ.C.G[3] đã biết thằng Judà sẽ bán Người, Người có sai tông đồ đi đốt nhà nó không? Lại khi ông thánh Vêrô vì lòng mến Chúa, chém đứt tai một đứa quân dữ, Chúa liền quở ông thánh ấy, nay ta là đầy tớ Người, không muốn bắt chước Người sao?” [10, tr.9-10]

Thắt nút: Cha Lựu rời nhiệm sở. Cha Minh vừa chuyển đến thì gặp vụ bắt bớ. Thương xót Trùm Lựu tuổi già bị tra khảo, Cha Minh đứng ra nhận:

Lãnh: - Quân (Dạ) tấn riết, phen này mi không khai, tao tấn bỏ thây Da tô cho bay coi.

Ông trùm: - Hi hi… Xin nhà quan rộng lượng thương con dân Lựu là tôi, khốn cho thân già tôi hi hi hi…

Tức thì Cha Minh xưng mình rằng:

Cha Minh: - Thầy đạo Thiên Chúa quan tìm này là tôi, xin quan bắt, dung cho ông già này tội nghiệp” [10, tr.25].

Phát triển: Xét xử lần 1 hay giáo lí Gia tô được lên tiếng: Cha Minh một lòng quyết giữ đạo, vì vậy, phiên xét xử trở thành buổi thuyết giảng của Cha về đạo Gia tô. Qua đối thoại đó, bản chất của các tuyến nhân vật đều phô bày ra: Cha Minh cương trực, cứng cỏi; quan Án và quan Bố là những cỗ máy thừa hành của triều đình.

Xét xử lần 2 hay sự toàn thắng của đức tin: Trong phiên xét xử, nhân vật Tổng đốc tỏ ra là một người điềm đạm, sâu sắc trong lời ăn tiếng nói, từng bước một, cứ phải thoái lui trước sự rắn rỏi của Cha Minh: Tổng đốc thuyết phục Cha Minh thờ Phật: không thành công à không thờ Phật thì thờ vua: không thành công à không thờ vua, thì chỉ cần bước qua thập ác: không thành công. Trong khi tuyến nhân vật triều đình liên tục phải nhượng bộ thì Cha Minh chỉ một lòng “có dong thì dong, bằng có giết thì giết, vì tôi đã sẵn lòng chịu chết vì đạo Chúa tôi” [10; tr.57]

Đỉnh điểm: Tử vì đạo - như tự nguyện của Cha Minh.

Mở nút: Quan Tổng đốc, Án, Bố đều bày tỏ sự khâm phục trước tư cách của Cha Minh – hạt giống thiện lành đã được gieo.

Kết thúc: Thiên đàng.

Trong Tuồng Cha Minh, xung đột chính yếu bên ngoài của kịch được thiết lập dựa trên sự đối đầu giữa một cộng đồng yếu thế với một thế lực nắm ưu thế tuyệt đối. Cán cân quyền lực càng thiên lệch bao nhiêu, độ căng của xung đột càng lớn bấy nhiêu và người xem càng trông chờ sự bất ngờ ở cái kết. Cách xây dựng xung đột này tương tự cách xây dựng xung đột trong truyện cổ tích, nơi mà cái ác không ngừng tấn công sự thiện lương. Sự thiện lương lại không có khả năng phản kháng. Truyện cổ tích xử lí xung đột nhờ vào thế lực siêu nhiên hoặc sự phản tác trong các thủ đoạn của cái ác, không phải từ sự phản kháng của các nhân vật lương thiện. Tuồng Cha Minh cũng được xây dựng cùng một mô hình như vậy. Giáo dân hoàn toàn không có khả năng phản kháng trước thế lực nghiêng trời của quan quân triều đình. Phản kháng mạnh mẽ nhất của Cha Minh và Trùm Lựu chỉ là từ chối bước qua thập giá. Tuy nhiên, khác với truyện cổ tích, ở Tuồng Cha Minh, không có phép màu nào xảy ra. Bởi vì cái chết và sự an nhiên trước cái chết chính là phép màu. Cái chết ấy là sự sáng bừng của đức tin, không mang ý nghĩa cái chết nữa mà là sự sống đời đời ở nước Chúa.

Cốt truyện thứ hai là kết quả của xung đột bên trong – xung đột giữa niềm ham muốn sống cuộc đời tầm thường và niềm tin vào sự cứu chuộc linh hồn ở nước Chúa. Với đức tin mãnh liệt, không thể lay chuyển của Cha Minh, thế lực của triều đình phải liên tục lùi bước. Cuối cùng, thế lực này phải thực hiện đúng như nguyện vọng của Cha là được “chết vì đạo thánh Chúa” [10, tr.65].

Cũng nên nói một chút về kĩ thuật cài cắm tình tiết đã được tác giả sử dụng rất đắc lực trong việc dẫn dắt cốt truyện. Sau khi tiếp xúc với Bếp Nhẫn, Cha Lựu bất giác cảm thấy bất an và chia sẻ nỗi nghi ngờ ấy với Trùm Lựu. Nỗi bất an này không chỉ là cơn cớ để Trùm Lựu tiết lộ gia cảnh của Bếp Nhẫn, để Cha Lựu có cơ hội nhắc lại giáo lí Gia-tô “yêu người như mình ta vậy” [10, tr.10] nhưng quan trọng hơn, trong diễn biến cốt truyện, đây là tình tiết cài cắm báo trước Bếp Nhẫn sẽ làm phản.

Từ rất sớm, tác giả đã có ý thức về việc chọn lọc chi tiết trong cốt truyện, một khi nhân vật đã thấy bất an, nỗi bất an ấy ắt phải được sử dụng về sau. Tương tự, trong cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Cha Minh và Cha Lựu khi luân chuyển giáo xứ, Cha Minh thốt nhiên nhắc lời thánh Phao-lồ: “Tôi ước chết cho đặng hiệp làm một cùng Chúa tôi” [10, tr.19]. Trong diễn tiến cốt truyện thời điểm ấy, trích dẫn này hoàn toàn tự nhiên khi hai nhân vật đang động viên nhau phụng sự. Mặt khác, chi tiết ấy cũng chính là sự cài cắm, báo trước về cuộc tử đạo của Cha Minh về sau.

Như vậy, xung đột bên ngoài và bên trong hô ứng cùng nhau để bồi đắp trải nghiệm thẩm mĩ của người xem trọn vẹn, đầy đặn hơn. Với giả thuyết rằng Tuồng Cha Minh là vở kịch hiện đại đầu tiên của Việt Nam, chúng ta đã có một kịch bản đầu tiên khá đầy đặn, kĩ thuật xây dựng xung đột phong phú và chặt chẽ so với thời điểm ra đời.

2.2. Cách xây dựng nhân vật kịch

Hành động tử vì đạo của Cha Minh đồng dạng với cái chết cứu chuộc của Đức Jesus. Và cũng như tích thương khó, Tuồng Cha Minh là câu chuyện khán giả đã biết trước đoạn kết, mà vẫn xem đi xem lại nhiều lần. Những vở kịch như vậy, sức hấp dẫn chủ yếu không nằm ở cốt truyện mà ở diễn xuất, ở lời thoại, ở sự ngưỡng mộ một kiểu nhân vật tư tưởng nào đó.

Cha Minh chính là kiểu nhân vật tư tưởng từ đời thật bước lên sân khấu và từ sân khấu giúp người ta ngẫm nghĩ lại cuộc đời. Nhân vật tư tưởng đại diện cho một phẩm chất của con người và thường cũng là nhân vật bất biến trong toàn bộ vở kịch. Cha Minh, Cha Lựu… là những nhân vật tư tưởng đại diện cho đức tin không đổi dời.

Sáng tạo quan trọng của kịch tác gia là đã trao cho nhân vật một đời sống nội tâm phong phú, thể hiện qua các độc thoại. Sau đây là độc thoại của Cha Lựu trước thời điểm rời khỏi giáo phận:

“A Chúa Dêu tôi! Tôi thấy bầy chiên Chúa trong Nam Việt này ngơ ngáo chẳng đủ kẻ chăn thì lòng tôi rất phiền não là ngần nào! Kìa đang khi tôi mắc đây, biết mấy kẻ thờ phượng Chúa mong sinh thì, mà khi chẳng gặp cha gặp thầy làm phước an ủi trông cậy Chúa tôi. Biết mấy người giáo hữu bị quan quân bắt gia hình dụ ép bỏ đạo Chúa tôi, mà thờ lạy bụt thần quái dị, chớ chi có linh mục nào ở đó mà an ủi cho kẻ ấy vững vàng giữ đạo Chúa tôi! Mà lạy Chúa, tôi đây lấy ai an ủi? Mấy bạn Linh mục tôi phải tan tác một người một nơi; tôi mới tới đây ở chưa an, bây giờ lại đi chốn khác. Chốn ấy có an chăng? Tôi nói gì vậy? Lạy Chúa, Chúa dạy tôi, tôi chẳng vưng sao? Tôi phú thác trót mình tôi cho Chúa, xin Chúa hãy gìn giữ, mà nếu sau vua quan có bắt giáo hữu, xin Chúa cho phô kẻ ấy đặng lòng vững vàng mà xưng danh Chúa Khi-ri-xi-tô là Chúa chúng tôi, A-men”  [10, tr.10-11].

Độc thoại của Cha Lựu, chiếm toàn bộ tuồng thứ ba của thứ thứ nhứt, rất giàu chất kịch. Giàu chất kịch vì độc thoại hướng đến nhiều đối tượng, có không gian cho hoạt động của diễn viên. Qua độc thoại này, chúng ta thấy ba mối trăn trở trong nội tâm của Cha Lựu: 1/ nỗi trăn trở về con chiên không người chăn dắt, 2/ nỗi trăn trở về sự tan tác của các đạo hữu, 3/ nỗi trăn trở về sự an nguy của chính bản thân. Qua các độc thoại nội tâm như vậy, những suy tư, dằn vặt của nhân vật được hé lộ. Từ những suy tư ấy, độc giả nhận diện được nhân vật với đời sống tâm lí tròn trịa, gần với cuộc đời, gần với con người, chứ không phải chỉ thẳng tắp một đức tin.

Trong một độc thoại khác của Cha Minh trước phiên xét xử lần hai, chúng ta thấy hiện ra cả hai mảng suy tư vừa đối lập, vừa nhất quán trong cùng một con người. Một Cha Minh tỏ ra cứng cỏi ở phiên xử thứ nhất – đúng như một người con Chúa, qua độc thoại, đã tự thú về sự yếu đuối của mình, cần được ơn trên phù trì – đúng như tâm lí của một con người bình thường. Một Cha Minh đang mang xiềng trăn – trong hình hài một phạm nhân, vẫn xin Chúa hãy cứu rỗi kẻ đã cáo mình với quan, tha thứ cho những kẻ đã yếu lòng chối bỏ đạo – thể hiện lòng từ ái quên mình:

“Ớ Đ.C.G Khi-ri-xi-tô là đứng rất chơn thật hằng có đời đời! Kìa thánh ý Chúa định cho tôi chịu mang xiềng trăn trói này, tôi xin vưng. Song xin Chúa hãy ban ơn cho tôi đặng vững vàng bến đỗ, vì sức riêng tôi rất yếu đuối. Tôi xin hiệp những sự này cùng sự thương khó Chúa, xin Chúa hãy thêm sự cực vì tôi đã sẵn lòng vác thánh giá mà theo chơn Chúa. Lạy Mẹ rất nhơn lành là Nữ vương các thánh tử đạo, xin Mẹ hãy giúp sức phù trì cho con là kẻ mồ côi cô độc. Xin Chúa hãy ban ơn cho mấy kẻ non lòng yếu sức chối Chúa tôi đặng trở lại, cùng kẻ đã sa chước ma quỷ mà nộp tôi, xin Chúa cho nó trở lại kẻo mất linh hồn Chúa đã chuộc. A men” [10, tr.48].

Do đặc thù của kịch là nhân vật tự thể hiện mình qua hành động và qua lời thoại nên độc thoại chính là những thời điểm không nhiều để khán giả trực tiếp khám phá thế giới nội tâm của nhân vật. Như trong trường hợp này, nhân vật Cha Lựu, Cha Minh hiện ra đa chiều kích hơn qua độc thoại, đức kham nhẫn, từ ái, sự bao dung, nỗi âu lo… được nhân vật trực tiếp giãi bày trong độc thoại. Độc thoại được đặt ở vị trí hợp lí, giúp khán giả quan sát được nhân vật một cách toàn diện và sâu sắc hơn. Với kiểu nhân vật tư tưởng như Cha Minh, Cha Lựu, độc thoại cũng rất phù hợp để phát ngôn về thông điệp tôn giáo mà tác giả muốn gửi gắm.

Tuy nhiên, độc thoại cũng khiến tiến độ kịch giảm xuống. Trong kĩ thuật dựng thoại, kịch tác gia tỏ ra khá vững vàng với điểm mạnh và yếu của từng kiểu thoại. Trước phiên xét xử thứ hai, tác giả hư cấu một cuộc gặp gỡ giữa hai nhân vật Cha Minh và Cha Lựu. Hai người cùng một lí tưởng, đối thoại với nhau về niềm tin Thiên Chúa, qua đó, chẳng những đức tin Công giáo thêm rực rỡ, mà đoạn đối thoại còn thể hiện sự ấm áp của tình bạn, tình đạo hữu. Tương tự, khoảnh khắc tình cờ gặp nhau ở bến sông khi Cha Lựu chuyển đi và Cha Minh dọn đến cũng là một cuộc gặp gỡ mừng mừng tủi tủi, nhiều cảm xúc. Đặt giả thuyết tác giả không xây dựng những cuộc gặp gỡ này mà thay bằng độc thoại của các Cha hướng về Thiên Chúa, nội dung thoại có thể không thay đổi nhiều nhưng hiệu quả của hành động kịch sẽ không giàu cảm xúc như mong đợi.

Bên cạnh kiểu nhân vật tư tưởng, đa số nhân vật còn lại trong vở kịch là nhân vật chức năng – thực hiện một nhiệm vụ, vai trò nào đó để thúc đẩy xung đột kịch. Do đặc thù này, các nhân vật chức năng thường không có đời sống tâm lí, họ chỉ đơn thuần đảm nhiệm một chức năng trong vở kịch mà thôi. Thú vị là trong Tuồng Cha Minh, một vở kịch rất sớm, vài nhân vật chức năng bước đầu đã được đặt trong những tình huống kịch, giúp nhân vật thể hiện được một số nét tính cách đặc thù. Chẳng hạn trong đoạn thoại dưới đây, hai vị đại diện triều đình – quan Án và quan Bố – hiện ra như hai kẻ hủ nho, thiển cận, thậm chí có phần hài hước:

Bố: - Thầy rằng đi nước lạ phương xa, mà xa mô?

Cha Minh: - Chỉ vua truyền như vậy, tôi bèn sang Mả-cao vì trong nước ấy vua quan không có bắt kẻ giữ đạo ngay Thiên Chúa như trong quê nhà tôi.

Án: - Mả-cao đâu xa ngài?

Bố: - Tôi cũng không biết đâu, thảy nói xa thì hay rằng xa” [10, tr.32].

Cũng hai viên quan này, trước phiên xét xử Cha Minh đã trao đổi với nhau về cách làm việc như thế này:

Bố: - Hôm nay hệ ngày, mắc xử mấy thằng tù Da tô, nghỉ không đặng.

Án: - Không hề gì, ta tra sơ, bắt đạp thập ác, bằng thuận thì ta dong, bằng chẳng thì ta bẩm với ông lớn, ngài định, chớ biết làm sao, mà lạ chớ, ngài, chỉ đức vua truyền cấm Da tô đạo, lại xưa nay ta nghe đâu, thì cũng đã bắt chém hết nhiều, sao nay lại còn?” [10, tr.28].

Thái độ làm việc qua loa cho có: “tra sơ”, “bẩm với ông lớn”, “chớ biết làm sao”… hoàn toàn phù hợp với hành động bừa bãi của hai ông ở cuối phiên xét xử là lệnh cho lính nhấc hai đầu gông, khiêng Cha Minh qua cây thập ác, cho xong việc. Để rồi quan lí luận một cách vừa ngang ngược, vừa hài hước rằng: “Thầy đã bước qua rồi, không, sao mà qua bên kia?” [10, tr.39]

Hai viên quan triều đình xuất hiện trong vở kịch ở những tình huống rất ngớ ngẩn: không biết đạo Da-tô là gì [10, tr.28], không biết Mả-cao ở đâu [10, tr.32], không biết con dân Nam Việt từng thờ phụng thế nào trước khi thờ Phật [10, tr.35] nhưng lại rất biết bày chiêu trò kiểu cả vú lấp miệng em khiêng phạm nhân qua thập giá, để tiện việc cho mình. Quan Án, quan Bố trong địa vị nhà quan nhưng tự biến mình thành vai hề do bị khoác cho một cái áo trọng trách tra án quá lụng thụng so với năng lực nhỏ bé của hai ông.

Điều đó cho thấy khả năng quan sát và xây dựng tình huống kịch của tác giả rất tốt. Năng lực này một lần nữa thể hiện ở nhân vật Trùm Lựu. Ông Trùm là người cương trực, khẳng khái, giàu tình nghĩa, trước sau thái độ không đổi dù với quan trên hay kẻ dưới, dù trong lúc lao tù hay tự do tự tại.

Khi quan hỏi, về việc che giấu thầy đạo, Trùm Lựu đáp “… có thầy nào đằng đạo Thiên Chúa vào mà ở, thì tôi nuôi như khách khứa tới nhà, tôi đuổi sao đặng, lại đuổi sao trọn nghĩa thầy trò” [10, tr.41]. Về việc bỏ đạo, Trùm đáp “… nếu nhà quan cho tôi về mà lập nên cơ nghiệp thì tôi vui lắm; song phải bước qua chối đạo mới đặng về, thì tôi không thèm, chết như tôi, không ai nói rằng: chết tức, vì nay mai cũng phải chết” [10, tr.41]. Khi hai người đồng đạo không chịu nổi roi đòn, đành bước qua thập giá, Trùm vẫn chỉ một lời: “Bẩm ông lớn, sống thác không rời, con theo cha, trò theo thầy tận lực, mới gọi là trung” [10, tr.45].

Cũng vẫn khẩu khí cứng cỏi ấy khi Trùm chưa bị bắt và biết Cha Lựu nghi ngờ Bếp Nhẫn: “Dạ bẩm Cha, như mà con nghe quả thằng Nhẫn lên tỉnh mà cáo, con sai trẻ qua đốt nhà nó” [10, tr.9].

Trùm Lựu là nhân vật sống động, giàu chất liệu cuộc đời bậc nhất vở kịch. Từ hành động, lời nói đến cách tư duy đều đậm chất lão nông Nam Bộ, cần nói thì nói chuyện thẳng thắn, bộc trực; không cần nói thì chỉ tấm mẳn, chăm chỉ làm ăn. Nửa đêm nghe tiếng súng, tiếng đập cửa bất thường, ông già 68 tuổi phản ứng nhạy bén đúng kiểu một người quen lao động, một ông chủ gia đình sẵn sàng đổ máu để bảo vệ người thân và gia sản:

Ông Trùm: - Ba, Tư, ăn cướp, con. Trao cái mác đây tao.

Lãnh: - Khai môn cho mau, quan tỉnh xuống.

Ông Trùm: - Ủa, quan tỉnh xuống, mà việc chi đêm hôm không phóng trác cho hay cà? Ba, hé cửa coi con…”. [10, tr.23-24].

Tác giả chỉ cần một câu thoại duy nhất để nhân vật ông Trùm bộc lộ sự rạch ròi giữa yêu và giận: “Thật cha khéo ra nộp mình, để con chịu chết cho rồi thì thôi, mày đá Nhẫn hử!” [10, tr.26] khi Cha Minh ra nộp mình để cứu ông.

Trong nhà lao, ngoài nỗi đau bị đòn roi, nỗi băn khoăn của ông cũng đầy chất con người: “… mà không biết nhà cửa vườn tược mấy đứa con ở nhà làm sao, quan quân họ có cho nó lại món gì mà làm ăn không?” [10, tr.47].

Trùm Lựu là hình ảnh tiêu biểu của một con chiên ngoan đạo, tháo vát trong cuộc sống, không hướng về Thiên Chúa để xin an ủi khổ đau mà để được chăm sóc phần hồn.

3. Tạm kết

Vở kịch tập trung tái hiện giai thoại Cha Minh rơi vào tay triều đình và thái độ điềm tĩnh của Cha những ngày cuối cùng trước khi về với Chúa. Tích truyện được xây dựng với mục đích tôn vinh và lan tỏa đức tin của người con Chúa, vì vậy, Cha Minh, Cha Lựu… được xây dựng ổn định một tính cách, bất biến từ đầu đến cuối kịch. Trong xây dựng nhân vật, tính cá thể hóa của từng nhân vật chưa hoàn toàn sắc nét nhưng nhân vật nào thể hiện đúng đặc trưng của nhóm nhân vật ấy. Trong các nhân vật tư tưởng, dấu vết sắp đặt của tác giả còn lộ rõ nhưng người viết cũng đã ít nhiều lưu ý đến chất người, đến sự ấm áp của cuộc sống khi xây dựng cho các nhân vật tình đạo hữu, sự yếu đuối của cá nhân trước cường quyền.

Khi khảo sát về cách xây dựng xung đột và xây dựng nhân vật của Tuồng Cha Minh, giả thuyết cố Lộc Caspar, một linh mục người Pháp, là tác giả kịch bản này có vẻ càng thuyết phục. Các xung đột trong Tuồng Cha Minh, tất nhiên, chưa đủ sắc sảo và gay cấn nhưng với đầy đủ xung đột bên ngoài và nhiều tầng xung đột bên trong, kịch bản ắt phải được xây dựng từ một tác giả có nhiều trải nghiệm với nghệ thuật sân khấu phương Tây.

Vở kịch Tuồng cha Minh, được thừa sai người Pháp Marie-Antoine Louis Caspar sáng tác và xuất bản tại Sài Gòn năm 1881, trong tình hình tư liệu hiện nay, có thể xem là vở kịch hiện đại viết bằng chữ quốc ngữ sớm nhất của Việt Nam. Vở kịch này do đó là một cột mốc rất đáng ghi nhận trong lịch sử sân khấu Việt Nam nói riêng và lịch sử văn học Việt Nam nói chung.

Tài liệu tham khảo

[1] Lê Đình Bảng (2010), Văn học Công giáo Việt Nam – những chặng đường, Nxb. Từ điển Bách khoa, TP. Hồ Chí Minh.

[2] Leopold Cadiere (2020), Hồi ký của một ông già Việt học (Đỗ Trinh Huệ biên khảo), Nxb. Thế giới, Hà Nội.

[3] Hồ Ngọc Cẩn (1919), Văn chương thi phú An Nam, Imprimerie de la Société des Missions-Etrangères (Nhà in của Hội Thừa sai), Hồng Kông.

[4] Hồ Ngọc Cẩn (1933), Văn chương An Nam, Imprimerie de la Société des Missions-Etrangères (Nhà in của Hội Thừa sai), Hồng Kông.

[5] Huình Tịnh Của (1895), Đại Nam quấc âm tự vị, Imprimerie Rey, Curiol & Cie, Sài Gòn.

[6] Hoàng Dũng (2018), “Chữ Quốc – thực tiễn phát âm và lịch sử chữ viết”, trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Ngôn ngữ học Việt Nam - Những chặng đường phát triển và hội nhập quốc tế, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Đà Nẵng.

[7] Bằng Giang (1998), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ: 1865-1930, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

[8] Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu (tái bản), Bộ Giáo dục- Trung tâm Học liệu xuất bản, Sài Gòn.

[9] Hội đồng Giám mục Việt Nam - Ủy ban Văn hóa (2019), Bốn trăm năm hình thành và phát triển chữ quốc ngữ trong lịch sử loan báo tin mừng tại Việt Nam (tài liệu hội thảo).

[10] J.M.J. (1924), Tuồng Cha Minh, Imprimerie de la Mission (Nhà in Hội Thừa sai), Sài Gòn.

[11] Nhiều tác giả (1993), Về sách báo của tác giả Công giáo (thế kỷ XVII – XIX), Khoa Ngữ văn Trường Đai học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[12] Võ Long Tê (1965), Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam (cuốn I), Nxb. Tư duy, Sài Gòn.

 


[1] “Tuồng” ở đây là cách gọi các kịch bản sân khấu nói chung của khán giả Nam Kỳ - Nam Bộ, đó có thể là kịch bản hát bội, nhưng cũng có thể là kịch bản cải lương, kịch bản kịch nói.

[2] Quới chức (tức "quí chức"): tiếng xưng tặng người có danh phận, có phẩm hàm [5, tr.847].

[3] Viết tắt của Đức Chúa Giêgiu (Jesus).

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn học số 3 (601) tháng 3 - 2022, tr. 33 - 41

Theo tin từ gia đình, nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương vừa trút hơi thở cuối cùng lúc 4h sáng nay (24-12) vì tuổi cao sức yếu, nhiều bệnh nền và sau hơn một tháng nằm viện do xuất huyết dạ dày.

20211225

Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương tại tư gia - Ảnh: tư liệu

Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương tên đầy đủ là Công Tằng Tôn Nữ Hỷ Khương, sinh năm 1935 tại Vỹ Dạ - Huế, là ái nữ của nhà thơ nổi tiếng Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

Nối dòng thi thư, bà Tôn Nữ Hỷ Khương từ trước 1975 đã nổi tiếng trên văn đàn miền Nam với giọng thơ hoài cổ và tinh thần nhân ái phương Đông.

Cùng với những thăng trầm của thời cuộc và trải nghiệm bản thân, thơ Tôn Nữ Hỷ Khương mang màu sắc triết lý vừa thâm thúy tinh tế vừa như một sẻ chia và kết nối với khách tri âm.

Nhiều người yêu thích và thuộc lòng bài thơ Còn gặp nhau của bà, với những câu đi vào lòng người như một lời tâm niệm: Còn gặp nhau thì hãy cứ vui/ Chuyện đời như nước chảy hoa trôi/ Lợi danh như bóng mây chìm nổi/ Chỉ có tình thương để lại đời...

Tâm huyết của bà dành hết cho thơ, cũng là nối chí gia phụ, tiếp tục mạch nguồn của dòng thơ Hương Bình thi xã khởi từ hai nhà thơ lão luyện xứ Thần kinh là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương, với nhiều thi phẩm để lại cho đời.

Năm 1960, khi cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị bước vào tuổi 84, cô Tôn Nữ Hỷ Khương thực hiện tập thơ Đời Thúc Giạ tập hợp các tác phẩm của người cha đáng kính. Tập thơ này được Nhà xuất bản Bốn Phương của thi sĩ Đông Hồ bấy giờ ấn hành năm 1961. Sau này, Tôn Nữ Hỷ Khương còn một quyển hồi ký về cha nữa là Hồi ức về cha tôi Ưng Bình Thúc Giạ Thị (NXB Trẻ, 1996).

Khi rời quê hương định cư ở Sài Gòn, Tôn Nữ Hỷ Khương tham gia Tao Đàn Bạch Nga, Thi đàn Quỳnh Dao và cộng tác với nhiều tờ báo danh tiếng thời bấy giờ, trong đó tạp chí Phổ Thông là nơi Tôn Nữ Hỷ Khương in thơ nhiều nhất. 

Sau ngày đất nước thống nhất, nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương nhiều lần cùng giáo sư Trần Văn Khê trò chuyện với công chúng về thơ, ẩm thực và văn hóa dân tộc. Bà vẫn sáng tác và sinh hoạt cùng Hội Nhà văn TP.HCM.

Trong nhiều cuộc trò chuyện, khi hỏi đến quan niệm về thơ hay một số vấn đề có tính chất "lý luận", bà Hỷ Khương đều cười xòa và dẫn lại câu thơ của cụ Ưng Bình như một quan niệm khiến bà tâm đắc: Rượu có mùi hương nên uống mãi/ Thi là thuốc bổ cứ ngâm chơi.

Bà vốn không ưa lý luận, thơ với bà như máu thịt như tâm hồn. Nay nhà thơ giã biệt thi đàn để về với cõi thơ vĩnh hằng, sẽ còn nhiều người nhớ bà và những "lời cho nhau" thật thấm thía.

Lam Điền

Tác phẩm của Tôn Nữ Hỷ Khương có thể kể đến các tập thơ: Đợi mùa trăng (1964), Mộng thanh bình (1970), Còn gặp nhau (1999), Bâng khuâng tình khúc (2001), Hãy cho nhau (2004), Nước vẫn xanh dòng (2004).

Hiện linh cữu nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương đang được quàn tại nhà (339/10 Lê Văn Sỹ, P.13, Q.3, TP.HCM), sáng nay 24-12 nhập quan, lễ viếng bắt đầu từ chiều 24-12; 8h sáng ngày chủ nhật 26-12 sẽ di quan đi hỏa táng tại Bình Hưng Hòa, TP.HCM.

Lẽ vô thường
Biến thiên là lẽ vô thường

Cuộc đời như giấc mộng trường đó thôi!

Quên buồn, đổi lấy niềm vui

Cho non sông ấm nụ cười tao nhân

Hãy cho nhau

Một cơn gió nhẹ thoảng qua

Dễ đưa ta đến lìa xa cõi đời

Để kết thúc một kiếp người,

Mong manh như hạt sương rơi đầu cành!

Thế mà cứ mãi quẩn quanh,

Ghét ghen, sân hận, tranh giành, hơn thua.

Đang là bạn, hóa ra thù,

Đang thân thiết, bỗng thờ ơ lạnh lùng.

Cùng trong cõi tạm sống chung

Chơi vơi bể khổ - mênh mông đất trời.

Hãy cho nhau những nụ cười.

Hãy cho nhau trọn tình người - niềm vui

Hãy cho nhau vị ngọt bùi,

Hãy cho nhau vạn ngàn lời yêu thương,

Tròn câu hiếu đạo, cương thường.

Tôn Nữ Hỷ Khương

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 24.12.2021

Trong đời sống văn học Nam Bộ 1945 - 1954, kịch (kịch nói và kịch hát) có bước phát triển hết sức mạnh mẽ với sự xuất hiện của nhiều tác giả cùng các tác phẩm nổi bật. Kịch được đồng bào Nam Bộ đặc biệt ưa thích. Bài viết này tập trung trình bày phần kịch ở hai “không gian” có phần đối nghịch nhau: vùng kháng chiến do cách mạng nắm giữ và vùng đô thị do chính quyền tay sai cai quản.

Hoạt động sân khấu của kịch nói và kịch hát truyền thống diễn ra khá sôi động ở chiến khu và bưng biền Nam Bộ trong những ngày cách mạng còn tươi rói. Những đoàn hát bội, cải lương đi bằng ghe thuyền lưu diễn hàng tháng trời ở hầu khắp các vùng nông thôn Nam Bộ. Những tên tuổi nghệ sĩ tài danh của đô thành Sài Gòn như Năm Phỉ, Phùng Há, Tư Chơi, Năm Châu, Ba Vân, Tám Danh, Tư Út… vẫn tiếp tục mang Nhạc Phi, Trương Phi, Lưu Kim Đính, Lục Vân Tiên… đến với đồng bào nông thôn như họ vẫn làm từ trước khởi nghĩa. Nhiều nghệ sĩ tên tuổi của sân khấu đô thị đã hòa mình vào cơn lốc cách mạng, trở thành những người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, dùng chính tài năng sân khấu của mình cổ vũ kháng chiến. Bên cạnh những nghệ sĩ - chiến sĩ hoạt động ở đô thành như Nguyễn Thành Châu (nghệ sĩ Năm Châu), Huỳnh Thủ Trung (nghệ sĩ Tư Chơi), Huỳnh Năng Nhiêu (nghệ sĩ Bảy Nhiêu), có những nghệ sĩ dứt áo rời bỏ đô thành ra chiến khu giữa những tháng ngày sôi động nhất của cuộc khởi nghĩa như: Trần Hữu Trang (nghệ sĩ Tư Trang) làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến xã Phú Kiết (Chợ Gạo); Nguyễn Phương Danh (nghệ sĩ Tám Danh) làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến xã Mỹ Khánh (Long Xuyên), sau đó hoạt động trong Đội Biệt động số 8, rồi Phòng Chính trị Khu 8; Nguyễn Văn Xe (nghệ sĩ Tư Xe) và Phan Văn Hai (nghệ sĩ Ba Du) công tác tại Cơ quan Văn nghệ Khu 8…

20220314

Trình diễn cải lương trước năm 1975 ở Sài Gòn. Ảnh: TL

Tuy nhiên, bước vào chặng đầu kháng chiến (1946 - 1951), hoạt động của sân khấu kịch hát truyền thống ở nông thôn và vùng kháng chiến đã không còn sôi động nữa. Mãi đến sau Hội nghị tuyên truyền văn nghệ ở miền Tây Nam Bộ tháng 6/1951, hoạt động sáng tác và biểu diễn cải lương, hát bội mới trở nên sôi động trở lại với các vở Cánh tay cứu quốc, Mười năm khởi nghĩa, Vẹn tình cá nước, Trần Hưng Đạo bình Nguyên, Lửa đỏ lòng son, Nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, Nợ nước tình nhà, Cô Hai Nữ... Đặc biệt vở tuồng Trần Hưng Đạo bình Nguyên của Trần Bạch Đằng diễn lần đầu ở chiến khu Dương Minh Châu năm 1952 được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ nhiệt liệt và sau này vẫn còn được dựng diễn ở nhiều nơi.

Trong khoảng thời gian kịch hát truyền thống bị “thất sủng”, kịch nói hiện đại lại được tạo điều kiện phát triển ở vùng chiến khu. Theo Hoài Anh, Thành Nguyên và Hồ Sĩ Hiệp (1988), kịch ngắn liên tục được sáng tác và trình diễn khắp vùng bưng biền kháng chiến giai đoạn này. Khác với kịch trường đô thị quy mô và chuyên nghiệp, nơi mà kịch ngắn thường sáng tác để đọc chứ không phải để diễn, kịch ở vùng chiến khu tuy thiếu điều kiện kinh tế nhưng lại thừa nhiệt tình tập thể đã sản sinh ra nhiều tác phẩm sáng tác nhanh, diễn xuất gọn, phản ánh kịp thời đời sống kháng chiến và cổ vũ tinh thần đấu tranh của quân dân Nam Bộ. Các vở kịch ngắn tiêu biểu đã được diễn ở chiến khu gồm có vở Cụ Hồ (1 màn, 1 cảnh) diễn tại Khu 8 năm 1946, vở Năm cánh sao vàng (1 màn, 1 cảnh) do Đoàn văn công Trà Vinh diễn năm 1947, vở Trai thời loạn (1 màn, 1 cảnh) diễn ở Trà Vinh năm 1948, vở Những bàn tay xây dựng (2 màn) và Hả dạ (2 màn) của Bảo Định Giang diễn ở Đồng Tháp Mười, vở Vì dân của Nguyễn Văn Vịnh và vở Tại ai? (1 màn, 2 cảnh) cũng diễn ở Đồng Tháp Mười, vở Chuyến công văn (1 màn, 2 cảnh) và Bảo vệ Liên Xô (1 màn, 2 cảnh) đều diễn năm 1951 ở rừng U Minh…

Đề tài của kịch kháng chiến Nam Bộ thường hướng vào thực tiễn sản xuất, chiến đấu, tập trung nhất là hình ảnh người chiến sĩ bưng biền, tinh thần tranh đấu của đồng bào Nam Bộ và tình quân dân cá nước. Vở Năm cánh sao vàng ngợi ca tình đoàn kết công nhân, nông dân, thương nhân, bộ đội và trí thức qua biểu tượng năm cánh sao trên lá cờ Tổ quốc; vở Trai thời loạn đề cao chí làm trai của người thanh niên miền Nam giữa thời khói lửa; vở Vì dân của người chỉ huy quân sự Nguyễn Văn Vịnh như một lời ngầm khuyên răn bộ đội phải hết lòng phục vụ nhân dân, chiến đấu vì dân; vở Chuyến công văn lấy cảm hứng từ gương anh hùng của một chiến sĩ giao liên được tuyên dương trong đại hội phong trào; vở Lòng dân của Nguyễn Văn Xe (nghệ sĩ Tư Xe) tập trung ca ngợi tinh thần cách mạng của những người dân vùng địch hậu ra sức bảo vệ cán bộ cách mạng, bất chấp những hi sinh…

Bên cạnh những vở kịch lấy cảm hứng từ đời sống kháng chiến đương thời, kịch chiến khu còn cho ra đời một vở rất đặc biệt phóng tác từ văn học nước ngoài, đó là vở kịch Người mặt cháy do Bảo Định Giang viết dựa theo truyện ngắn Tính cách Nga của nhà văn Nga Alexei Tolstoy. Truyện nói về một người lính Hồng quân đi chiến đấu chống quân đội Đức bảo vệ Tổ quốc, chẳng may bị thương, cháy nám khuôn mặt. Ngày chiến thắng trở về, anh mang mặc cảm vì gương mặt của mình, không dám gặp lại người yêu và mẹ già. Nhận thấy truyện có nhiều nét tương đồng với hoàn cảnh chiến đấu của ta, Bảo Định Giang đã chuyển thể thành vở kịch Người mặt cháy và cho dựng diễn ở chiến khu Đồng Tháp Mười. Vở Người mặt cháy sau đó được soạn giả Nguyễn Phương chuyển thể cải lương, nghệ sĩ Năm Châu dàn dựng và cho công diễn ở Sài Gòn với tên gọi là Người trở về, bị ngụy quyền ra lệnh cấm sau khi đã diễn được 3 đêm ở rạp Kim Chung. Vở kịch Người mặt cháy sau đó được chỉnh lí và diễn ở nhiều địa phương miền Đông Nam Bộ.

Trong phong trào kịch quần chúng rất phổ biến hình thức kịch lửa trại, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ hình thức kịch ứng diễn (kịch cương). Vào hoàn cảnh nhu cầu diễn kịch, xem kịch rất lớn mà nguồn kịch bản lại hạn chế, kịch cương đáp ứng năng động, linh hoạt đòi hỏi của văn nghệ kháng chiến. Kịch cương gần gũi, phản ánh sát sườn đời sống chiến đấu, kể những câu chuyện người thật việc thật, kết hợp với ứng xử linh hoạt của diễn viên đã thu hút sự yêu mến của đông đảo quần chúng. Tuy nhiên, do sáng tác tự phát nên kịch cương còn thiếu tính nghệ thuật, kết cấu lỏng lẻo, ngôn ngữ và hành động kịch còn nhiều thô vụng.

Để khắc phục những nhược điểm của kịch cương, hình thức kịch sáng tác tập thể ra đời, góp phần nâng cao chất lượng của kịch quần chúng. Khác với kịch cương, những vở kịch trước khi ra mắt đã được thai nghén và hoàn chỉnh cơ bản trong một quá trình sáng tạo tập thể. Phương thức này phát huy được trí tuệ, vốn sống của nhiều người, kết hợp được tính năng động của ứng diễn ban đầu với sự nâng cao của lời kịch có bổ sung sửa chữa, đồng thời kết hợp được năng lực của tập thể với khả năng của nhà chuyên môn về sân khấu nên đã nâng cao được chất lượng kịch bản.

Thời kì này, ở chiến khu cũng có những vở kịch thơ đáng chú ý như vở Những người cộng sản của Phạm Minh Hòa nói về cuộc đấu tranh anh dũng của những người tù Côn Đảo, vở Thủ khoa Huân được giải thưởng của Viện Văn hóa Nam Bộ năm 1949 và vở Áo đêm trăng của Nguyễn Bính. Kịch thơ Áo đêm trăng được công diễn lần đầu tiên vào đêm 20/1/1948 trong lễ phong công hàm cho Trung tướng Nguyễn Bình ở chiến khu Đồng Tháp Mười, ra mắt cùng lúc với bài hát Tiểu đoàn 307 lừng danh.

Đối với khu vực đô thị, trước 1945, hoạt động trình diễn kịch, bao gồm cả kịch nói và kịch hát truyền thống đã khá khởi sắc. Theo Hoài An, Thành Nguyên và Hồ Sĩ Hiệp (1988), thời kì đêm trước cách mạng, phong trào văn nghệ trong giới học sinh, sinh viên nổi lên khá rầm rộ với ban Kịch Sinh viên do Bùi Kiêm Bích làm Trưởng ban, tập hợp các diễn viên không chuyên từ các trường học và các công tư chức yêu nước. Ban kịch này tổ chức diễn những vở kịch lịch sử do thành viên của ban tự sáng tác nhằm cổ vũ tinh thần tranh đấu của nhân dân như Đêm Lam Sơn, Nợ Mê Linh của Huỳnh Văn Tiểng, Đời chiến sĩ của Bùi Kiêm Bích… Đêm Lam Sơn làm sống dậy cuộc khởi nghĩa Lê Lợi chống quân Minh, Nợ Mê Linh khai thác nỗi lòng của Hai Bà Trưng trong những ngày phất cờ nương tử đánh đuổi quân thù và Đời chiến sĩ nhóm lên ngọn lửa yêu nước trong lòng mọi lứa tuổi, thúc giục mọi người lên đường cứu nước. Bên cạnh đó, ban Kịch Sinh viên còn diễn những vở về người nghệ sĩ như bi kịch thơ 5 màn Lương Kha của Huỳnh Văn Tiểng diễn tả thảm cảnh của một họa sĩ chân chính bị xã hội ruồng bỏ đến nỗi phải tự tử. Huỳnh Văn Tiểng còn có vở hài kịch văn xuôi Những người đau khổ nhất thế giới châm biếm những nhà báo rởm sống phè phỡn trong khi những nhà báo chân chính chịu cảnh thất nghiệp khó khăn.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp 9/3/1945, ban Kịch Sinh viên đổi thành ban Kịch Việt Minh, cho ra đời thêm 4 vở kịch thơ mới: Hội nghị Diên Hồng, Con thỏ ngọc của Huỳnh Văn Tiểng và Nỗi lòng Hưng Đạo, Tâm sự Lương Khê của Bùi Kiêm Bích. Nỗi lòng Hưng Đạo ngợi ca Trần Quốc Tuấn dẹp thù riêng vì nghĩa lớn, xếp lời trăn trối báo thù cá nhân của cha già để toàn tâm cùng triều đình nhà Trần chống giặc xâm lăng giữ gìn cương thổ. Tâm sự Lương Khê lấy việc Phan Thanh Giản thất bại trong chủ trương thỏa hiệp với Pháp để phê phán quốc gia thân Nhật.

Ngay sau đó, Hội Nghệ sĩ được thành lập do Nguyễn Thành Châu (tức soạn giả, diễn viên cải lương Năm Châu) làm Chủ tịch, Diệp Minh Châu làm Phó Chủ tịch, Bùi Kiêm Bích làm Thư kí cùng với một số ủy viên. Hội đã đưa ra chương trình hành động trong đó có việc tổ chức một trường đào tạo nghệ sĩ và xây dựng những đoàn hát cách mạng.

Đến tháng 3/1946, Nguyễn Thành Châu và cha vợ là nghệ sĩ Huỳnh Năng Nhiêu (Bảy Nhiêu) thành lập gánh hát Con Tằm, thu hút các nghệ sĩ chuyên nghiệp như Nguyễn Thành Châu, Phùng Há, Ba Vân, Thanh Loan, Duy Lân, Tư Út, Từ Linh, Ngọc Sương… Gánh Con Tằm diễn nhiều vở đã nổi tiếng từ trước Cách mạng của Trần Hữu Trang (nghệ sĩ Tư Trang) và Nguyễn Thành Châu như Hồn bướm mơ tiên, Một tối tân hôn, Nỗi lòng chị bếp, Gieo gió gặt bão, Đời cô Lựu

Năm 1947, sau khi gánh Con Tằm phải ngừng hoạt động vì khó khăn tài chính, gánh Phụng Hảo xuất hiện quy tụ Phùng Há, Ba Vân, Tư Út, Hai Tiền, Mười Bửu, Sáu Lực… nổi tiếng với các vở tuồng phỏng tác từ truyện Tàu như Hận Kinh Kha, Máu nhuộm Phụng Hoàng cung của Văn Ngân, Tượng trưng công lí của Ba Vân…

Năm 1948, Mai Văn Bộ, Nguyễn Thành Châu, Trần Hữu Trang và nhiều nghệ sĩ yêu nước khác xây dựng đoàn Việt kịch Năm Châu. Đây cũng là cơ sở của Việt Minh đầu tiên trong giới nghệ sĩ sân khấu thành phố, là nơi tập hợp liên lạc của giới nghệ sĩ, trí thức kháng chiến nội, ngoại thành. Đoàn chuyên diễn những vở tuồng xã hội và những vở phỏng tác từ tiểu thuyết phương Tây như Gió ngược chiều, Tình ghen vương giả, Người với người, Thái tử Hàm Lê (phỏng theo Hamlet của Shakespeare), Túy hoa vương nữ (phỏng theo Marie Tudor của Victor Hugo)… của Nguyễn Thành Châu; Khi đào hát trả ơn (phỏng tác từ Angelo của Victor Hugo) của Nguyễn Thanh Hiệp; những vở kịch xã hội Hậu chiến trường, Đời cô Lựu của Trần Hữu Trang; Khi người điên biết ghét do Nguyễn Thành Châu, Trần Hữu Trang, Lê Hoài Nở (Năm Nở) hợp soạn; Vó ngựa truy phong, Hội yêu chồng, Anh chị ăn mày, Nỗi lòng chị bếp, Ông huyện hâm hâm, Ngày về của Lê Hoài Nở; và có cả vở phỏng tác tích Tàu như Tây Thi gái nước Việt của Hoàng Mai và Nguyễn Thành Châu… Nguyễn Thành Châu chủ trương trường phái cải lương “thật và đẹp”, bao trùm từ lối trình diễn trên sân khấu đến lối sống đời thường của từng cá nhân trong đoàn hát. Để lôi cuốn khán giả, Việt kịch Năm Châu đưa kĩ thuật ánh sáng lên sân khấu với ánh đèn nguyên tử. Thời kì này, một số nhân sĩ trí thức được tăng cường về để hỗ trợ cho hai đoàn hát lớn Phụng Hảo và Việt kịch Năm Châu, gồm có Bùi Kiêm Bích, Lê Thương, Nguyễn Thanh Hiệp lo về văn hóa giáo dục; các họa sĩ Trần Đình Thụy (anh trai của nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh), Nguyễn Siêng, Nguyễn Quyền lo về trang trí; về y tế, khám chữa bệnh cho nghệ sĩ có các bác sĩ Lê Văn Ngôn, Trương Ngọc Hon…

Việt kịch Năm Châu là nơi công diễn đầu tiên vở cải lương Tây Thi gái nước Việt, được Nguyễn Thành Châu chuyển thể từ kịch thơ cùng tên của Hoàng Mai. Hoàng Mai là một trong những bút danh của nhóm Hoàng Mai Lưu (hay Huỳnh Mai Lưu) gồm Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng và Mai Văn Bộ. Theo sưu khảo của Đặng Tấn trên báo Sân khấu, kịch thơ Tây Thi gái nước Việt được chính ông Mai Văn Bộ gửi gắm cho soạn giả Năm Châu để chuyển thể cải lương, có sự đóng góp về tân nhạc của nhạc sĩ Lê Thương. Trong tuồng cải lương này, Phùng Há giả trai đóng vai Phạm Lãi, Bảy Nhiêu vai Ngũ Tử Tư, Năm Châu vai Ngô Phù Sai và Kim Cúc (con gái nghệ sĩ Bảy Nhiêu và là vợ của nghệ sĩ Năm Châu) nhận vai Tây Thi. Tây Thi gái nước Việt là một trong những tác phẩm kịch thơ có giá trị của Nam Bộ thời đó, và việc chuyển thể sang cải lương - loại hình sân khấu thịnh vượng nhất Nam Bộ thời bấy giờ - đã mang đến cho nó một sức hút mãnh liệt và một sức sống khá dài lâu.

Từ năm 1953, Việt kịch Năm Châu khởi diễn vở tuồng Văn sĩ Nguyệt Hoa của Bùi Đức Tịnh (tức Bùi Kiêm Bích), đả kích mạnh mẽ các nhà văn đồi trụy, góp phần không nhỏ vào phong trào chống âm mưu đầu độc tinh thần nhân dân ta của đế quốc Mĩ và thực dân Pháp lúc bấy giờ. Vở này ra đời trong sự hưởng ứng phong trào chống sản phẩm khiêu dâm và văn hóa đồi trụy dưới sự cổ vũ của Hội Chống sản phẩm khiêu dâm (ra đời tháng 11/1950) sau mở rộng thành Hội Chống sản phẩm đầu độc tinh thần dân tộc (13/5/1953).

Giữa năm 1951, Thành Nguyên ra khỏi trại tù binh Phú Lâm liên hệ lại với Nguyễn Văn Hiếu lập ra Chi bộ Văn Giáo nghệ sĩ gồm Nguyễn Thành Châu, Trần Hữu Trang và Thành Nguyên (Bí thư). Thành Nguyên cũng tranh thủ mở được trang “Kịch trường” hằng tuần vào ngày thứ sáu trên báo Tiếng chuông, kí Quốc Bửu, và trang “Học sinh” kí Phụ huynh học sinh vào ngày thứ hai cũng trên Tiếng chuông. Ông có nhiều bài phê bình văn học chống sản phẩm khiêu dâm đồi trụy rải rác trên Tiếng chuông, Dân thanh, Tân thanh, Lòng dân… Trang “Kịch trường” có sự tham gia viết bài của một số nghệ sĩ, trong đó có nghệ sĩ lừng danh Bảy Nhiêu.

Từ năm 1946, trên các tạp chí, tuần báo và nhật báo, các nhà văn thành thị cũng sáng tác nhiều vở kịch ngắn văn xuôi và văn vần, nổi bật là nhà văn Lý Văn Sâm và Dương Tử Giang… Những vở kịch này chỉ phục vụ bạn đọc của các báo chứ không được dựng diễn. Dương Tử Giang cũng sáng tác tuồng trào phúng mang tên Chuồng báo trên Việt báo, đả kích những chủ bút và nhà văn chạy theo lợi nhuận, bán rẻ lương tâm. Một số kịch cổ động cho tiếng Việt cũng được đăng trên Việt bút (1949), Việt Nam giáo khoa tập san (1950), Nhân sinh (1950) và nhiều tuần báo khác. Tháng 12/1946, báo Dân quyền mở một cuộc thi kịch ngắn để cổ động cho phong trào chống nạn mù chữ và phong trào vận động đời sống mới.

Giai đoạn 1945 - 1954 cũng chứng kiến sự ra đời của khá nhiều vở kịch thơ ở Nam Bộ. Theo ghi nhận của chúng tôi, các vở kịch thơ sau đã được công bố trên báo chí, in thành sách, công diễn hoặc trình bày trên đài phát thanh: Tâm sự Lương Khê và Nỗi lòng Hưng Đạo của Bùi Kiêm Bích (1945); Hận nghìn thu (1944 - 1945), Dòng thác lũ (1947), Lữ Gia (1947), Hồ Quý Ly (1948), Tiếng trẻ khóc (1949 - 1951), Quán bên sông (1952) và Lão ăn mày (1954) của Nguyệt Cầm; Trần Bình Trọng (1948) của Hồ Thị; Tây Thi gái nước Việt (1949) của Hoàng Mai; Giặc cờ đen (1949) của Ninh Huy; Tráng sĩ Việt Nam (1949) của Ngao Châu; Đại phá quân Thanh (1949) của Phương Tùng; Phất cờ nương tử (1949) của Thọ Vân; Hận cầu Lam (1949) của Tô Yến Các; Tây Đô (1949) của Quốc Dân; Ai tìm lí tưởng (1952) của Hồ Đình Phương; Lá thu rơi (1952) của nhóm Xây Dựng và nhóm Khánh Sơn; Ông Ba Kẹ (1953) của Lê Xuân Nhuận...

Số lượng tác phẩm được liệt kê trên đây khá nhiều song thực tế chỉ tập trung ở một vài tác giả. Hơn nữa, Nam Bộ cũng không có tác giả chuyên viết kịch thơ, nổi tiếng nhờ kịch thơ mà chỉ có những tác giả thỉnh thoảng sáng tác một vài vở. Nguyệt Cầm Lê Xuân Nhuận có số lượng tác phẩm phong phú so với những cây bút khác nhưng tác phẩm của ông không gây được tiếng vang lớn. Như vậy, Nam Bộ chưa hình thành lực lượng kịch tác gia chuyên kịch thơ ở giai đoạn 1945 - 1954.

Khác với khu vực phía Bắc, nơi một số kịch thơ được viết ra để đọc chứ không phải diễn, kịch thơ Nam Bộ đa phần hướng đến sân khấu, có vở được chuyển thể cải lương và gây được tiếng vang nhờ sân khấu cải lương, như trường hợp kịch thơ Tây Thi gái nước Việt. Một số khác được diễn trên đài phát thanh, chứ không phải trên sân khấu kịch, như các vở của Nguyệt Cầm. Điều đó cho thấy việc tìm đất diễn cho kịch thơ ở Nam Bộ khá chật vật và với tình hình đó, kịch thơ cũng không đến được với công chúng một cách trọn vẹn.

Nguyễn Thị Phương Thúy

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 13.3.2022.

Như Thể thao và Văn hóa (TTXVN) đã đưa tin, trong tuần trước, kỳ họp Đại hội đồng UNESCO lần thứ 41 đã thông qua danh sách về danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2022 – 2023. Và, cùng với 58 hồ sơ trên khắp thế giới, 2 thi sĩ của Việt Nam là Hồ Xuân Hương và Nguyễn Đình Chiểu đã có tên trong danh sách này.

Nhìn từ sứ mệnh của UNESCO, PGS-TS Đoàn Lê Giang (Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.HCM) bàn về tầm ảnh hưởng của Hồ Xuân Hương và Nguyễn Đình Chiểu trong văn hóa, đời sống.

* Như vậy, trong năm 2022 tới, UNESCO sẽ cùng Việt Nam kỷ niệm 250 năm sinh, 200 năm mất của Hồ Xuân Hương và 200 năm sinh của Nguyễn Đình Chiểu. Theo ông, vì sao 2 nhà thơ này được chọn vinh danh?
- Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu đều là những nhà thơ lớn của Việt Nam, được đông đảo nhân dân Việt Nam yêu thích, truyền tụng. Tác phẩm của họ được dịch ra nhiều thứ tiếng, được biết khá rộng rãi trên thế giới.
Thơ Hồ Xuân Hương được dịch ra 12 thứ tiếng, với 30 bản dịch. Ngoài những ngôn ngữ phổ biến như Pháp, Anh, Nga, Trung, Đức, Tây Ban Nha, thơ Hồ Xuân Hương còn được dịch ra tiếng Ba Lan, tiếng Séc, Slovakia, Bulgaria, Romania, Phần Lan…
Chú thích ảnh

 PGS-TS Đoàn Lê Giang

Tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được dịch ra 3 thứ tiếng là Pháp, Anh, Nhật với 9 bản dịch.

Những tác giả được biết đến rộng rãi trên thế giới như vậy tất nhiên đáp ứng được tiêu chí của UNESCO.

* Chắc 2 nhà thơ này phải có đóng góp nổi bật khác cho văn hóa, cho đời sống tinh thần của nhân loại?

- Đúng thế, Hồ Xuân Hương và Nguyễn Đình Chiểu được UNESCO vinh danh chính là do những giá trị nổi bật trong sáng tác của 2 nhà thơ. Những giá trị ấy phù hợp với lý tưởng, sứ mệnh của UNESCO, như Công ước thành lập của tổ chức này ngày 16/11/1945 đã nêu rõ: “… thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo dục, khoa học và văn hóa để đảm bảo sự tôn trọng công lý, luật pháp, nhân quyền và tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo”.

Theo đó có thể thấy, thơ Hồ Xuân Hương là bài ca về vẻ đẹp tâm hồn, tài năng và thân thể của người nữ; là tiếng nói mạnh mẽ bảo vệ phụ nữ, đấu tranh cho quyền tự do, bình đẳng và hạnh phúc của phụ nữ. Có thể nói Hồ Xuân Hương là nhà thơ nhân văn chủ nghĩa, đồng thời là nhà đấu tranh cho nữ quyền sớm nhất và mạnh mẽ nhất ở Việt Nam.

20211207

Bùi Xuân Phái vẽ phác thảo 2 câu thơ “Chơi xuân đã biết xuân chăng tá/ Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!” trong bài “Đánh đu” của Hồ Xuân Hương

Còn với Nguyễn Đình Chiểu, trước hết là truyện thơ Lục Vân Tiên. Tác phẩm này đề cao tình nghĩa ở đời, đề cao tinh thần nghĩa hiệp, bảo vệ người yếu đuối, thể hiện ước mơ của người bình dân về công lý trong cuộc sống: Ở hiền gặp lành, kẻ ác phải bị trừng phạt.

Thơ và văn tế của Nguyễn Đình Chiểu là những áng văn trác tuyệt thể hiện một tình cảm thiết tha đối với vận mệnh của đất nước, một khát vọng mãnh liệt về quyền tự quyết của dân tộc. Với tinh thần ấy, Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng là nhà thơ hàng đầu trong phong trào chống thực dân của các dân tộc Á, Phi - một phong trào được sự ủng hộ rộng rãi của dư luận tiến bộ trên thế giới, phù hợp với lý tưởng của UNESCO.

Như chúng ta đã biết, UNESCO mới kỷ niệm Thập kỷ quốc tế xóa bỏ chế độ thực dân 10 năm trước đây (2001 - 2010). Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu luôn gắn liền với tinh thần nhân đạo, thân dân, yêu chuộng hòa bình - một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Trong các tác phẩm của mình, Nguyễn Đình Chiểu luôn phản ánh số phận của nhân dân: Nhân dân là nạn nhân đầu tiên của chiến tranh, trong đó ông đặc biệt chú ý đến phụ nữ và trẻ em - những nhóm người yếu thế nhất trong xã hội.

Chú thích ảnh

Hai tập của “Lục Vân Tiên cổ tích truyện” được in với tiếng Anh, Pháp, Việt/Nôm, với phần tranh minh họa của nghệ nhân Lê Đức Trạch và phần chú giải của Eugene Gibert từ cuối thế kỷ 19

* Riêng về Nguyễn Đình Chiểu, ông không chỉ có thơ văn mà còn là một thầy giáo, thầy thuốc. Điều này có được UNESCO đánh giá cao?

- Ông học giỏi, nhưng sớm bị mù lòa. Ông đã cố gắng với một nghị lực phi thường, vượt qua nghịch cảnh để sống và làm việc có ích cho đời. Nguyễn Đình Chiểu là nhà giáo có uy tín và đức độ. Học trò của ông đông đến hàng trăm, hàng ngàn người, rải khắp Sài Gòn, Cần Giuộc, Ba Tri. Người dân lục tỉnh gọi ông là “cụ Đồ” với thái độ kính trọng mà thân thương.

Ông là thầy thuốc lớn, rất đề cao y đức, thương dân, có trách nhiệm. Trong Lục Vân Tiên, ông từng gay gắt lên án bọn lang băm hám lợi, hại người. Sách Ngư tiều y thuật vấn đáp của ông là sách giáo khoa, cẩm nang về nghề y, đương thời rất được các thầy thuốc ưa chuộng, họ sao chép, sử dụng rất nhiều. Hình tượng Kỳ Nhân Sư trong tác phẩm ấy thể hiện sự gắn bó của người trí thức với số phận đất nước và nhân dân. Nước mất, Kỳ Nhân Sư bỏ vào núi vì không muốn làm người trí thức vong bản; buồn đau và bất lực, ông đã dùng chính hiểu biết về nghề thuốc của mình xông mù đôi mắt để khỏi thấy cảnh đất nước điêu linh, sinh dân nghiêng nghèo.

Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng của người trí thức, cuộc đời và sáng tác của ông, lời nói và việc làm của ông luôn thống nhất làm 1.

* Ông đánh giá thế nào về tinh thần tự do thân thể, ái tình, tư tưởng của Hồ Xuân Hương? Nhìn về lịch đại, một tinh thần tự do như vậy trong văn học thế giới, có phải là nhiều không?

- Từ trong khuôn khổ chật hẹp, đầy định kiến của xã hội phong kiến Á Đông, thơ Hồ Xuân Hương đã đề cao tinh thần tự do thân thể, tự do ái tình, đề cao quyền bình đẳng của nữ giới. Việc đấu tranh cho bình đẳng giới của Hồ Xuân Hương rất đặc biệt: Xuân Hương không biến người nữ thành nam giới, mà người nữ bình đẳng với nam giới trong khi vẫn giữ được cái đẹp, cái cao quý của nữ giới từ tính cách đến thân thể.

Chú thích ảnh

Bìa sách “Giai nhân di mặc” của Nguyễn Hữu Tiến (1916) có vẽ một hình chân dung hư cấu về Hồ Xuân Hương

Nhìn theo chiều lịch đại, trong các nước khu vực Đông Á, tính dục được đề cập đến khá nhiều, nhất là trong tiểu thuyết, hội họa, điêu khắc, nhưng trong thơ ca thì phải nói là rất hiếm. Làm thơ ngợi ca thân thể người nữ và niềm hoan lạc tính dục, viết vui đùa giữa thanh và tục như Hồ Xuân Hương thì quả là có 1 không 2. Hiện tượng như thơ Hồ Xuân Hương chỉ có thể ra đời từ một nền văn hóa đậm chất trào tiếu, dân gian, phồn thực như văn hóa Việt mới có được.

* Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!

Văn Bảy (thực hiện)

Nguồn: Thể thao và Văn hóa, ngày 30.11.2021.

Một buổi tối mùa đông, tôi đến nhà Ocean Vương theo lời hẹn. Anh đang pha trà và chuẩn bị bánh mứt, trong căn nhà được xây từ thế kỷ XVII ở vùng New England phủ đầy ánh sáng vàng ấm áp mà anh mới chuyển về ở vài tuần trước. Chúng tôi trò chuyện về văn chương và kinh nghiệm của anh trong sáng tác.

Là một nhà văn lớn lên trong gia đình nhập cư tại Mỹ và là một nhà văn “lệch chuẩn” (queer writer), Ocean luôn muốn dùng ngòi bút của mình để phá vỡ vị trí thống trị, tính tiêu chuẩn, khuôn mẫu, thang đo được cho là “giá trị” của văn chương Âu Mỹ đồng thời không ngần ngại đi sâu vào những vấn đề phân biệt chủng tộc và những định kiến giới trong xã hội. Vì thế, cuộc trò chuyện còn có sự tham dự của một số tác giả trẻ Việt Nam qua Zoom. 

Trước khi trò chuyện, Ocean Vương thực hiện một nghi lễ đội mũ như cách anh vẫn thường làm khi bước vào thế giới văn chương của riêng mình. 

Chia sẻ chung của anh về việc sáng tác và sự nghiệp văn chương của mình?

Làm nhà văn không dễ, dù nó cũng không phải việc khó khăn nhất. Làm ở tiệm nail hay nhà máy vất vả hơn nhiều. Nhưng cuộc đời của nhà văn luôn bấp bênh và “hên xui”, bạn cần chuẩn bị tinh thần để thất bại. Phần đẹp đẽ nhất của việc trở thành nhà văn là làm quen với sự từ chối. Khi người khác bắt đầu một việc và bị từ chối, họ dễ dàng sụp đổ, nhưng nhà văn phải hiểu sự từ chối là tiền đề để tiến lên phía trước.

Văn chương là môn nghệ thuật mà không bằng cấp nào có thể đảm bảo cho bạn một công việc hay tương lai. Nếu muốn làm y tá, bạn cần một tấm bằng; nếu muốn làm bác sĩ, bạn cần dành khoảng 8 năm để đi học; nhưng nếu muốn trở thành nhà văn, bạn có thể làm việc đó ngay bây giờ, đêm nay hay ngày mai. Lĩnh vực này luôn rộng mở nhưng rất khó để ở lại. Thế giới không thật sự tương trợ bạn trong quá trình sáng tạo tác phẩm, nó chỉ ủng hộ bạn khi tác phẩm đã hoàn thành: khi đó, độc giả sẽ mua sách.

Thách thức lớn nhất với những người viết trẻ không tên tuổi là làm thế nào để nuôi sống bản thân khi sáng tạo nghệ thuật. Bạn có thể làm những công việc tay trái nhàm chán, thậm chí càng chán càng tốt, để khỏi phải suy nghĩ. Khi về nhà, đầu óc sảng khoái, bạn có thể tập trung viết.

Tôi viết tập thơ đầu tiên khi làm việc ở quán cà phê. Lúc làm, tôi chẳng phải nghĩ gì cả. Sau đó tôi về căn hộ nhỏ xíu của mình ở New York, tìm một góc yên tĩnh và sáng tác. Nghệ thuật là công việc của tình yêu, bạn phải yêu nó. Tôi không khuyên bạn trở thành nhà văn, bởi nếu chỉ nói “Hãy bỏ đi tất cả mà viết” thì có vẻ không trách nhiệm lắm. Lời khuyên của tôi là: hãy yêu văn chương và nó sẽ luôn ở đó vì bạn. Đọc nhiều hơn viết, làm việc kỷ luật, dành nhiều thời gian cho tác phẩm. Có một công việc bên lề để nuôi sống chính mình. Cho bản thân thời gian suy nghĩ. Đó là một con đường rất dài.

Có nhiều tác giả trẻ ở Việt Nam ít để ý khai thác sức mạnh của ngôn ngữ trong sáng tác nên tác phẩm của họ chưa thể đi xa được. Vừa là nhà văn nhưng đồng thời cũng là học giả, theo anh, ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng như thế nào trong văn chương?

Ngôn ngữ là thứ công nghệ cổ xưa nhất của con người. Nó đến trước những nền văn minh và các thành phố. Nếu nhìn vào từ “narrative” (tự sự), gốc Latin của nó là “gnarus” (to know), nghĩa là kiến thức. Vậy nên tự sự, ngôn ngữ và việc kể chuyện là phương tiện truyền tải kiến thức, và từ kiến thức, ta có văn hóa.

Kể chuyện là cách kiến tạo văn hóa và xã hội. Đó là công việc của một nhà văn ở cấp độ lớn nhất. Việc có tầm nhìn lớn là điều rất quan trọng. Người ta hay bảo nhà văn cần khiêm tốn và không nên nhìn quá xa, đừng nghĩ bản thân có thể thay đổi cả nền văn hóa. Nhưng hãy nghĩ về những người chế tạo vũ khí, bom đạn, hóa chất để hại người khác, những người làm ở phố Wall và những doanh nghiệp đang bào mòn tài nguyên của thế giới, họ không bao giờ nói rằng “hãy khiêm tốn”. Khi chế tạo quả bom tiếp theo, họ chẳng bao giờ bảo: “Hãy làm nó nổ ít hơn”. Những lĩnh vực đó luôn được kỳ vọng kết quả tối đa. Vậy mà với nghệ thuật, văn hóa và ngôn ngữ, chúng ta, nhất là người châu Á, lại bị khuyên rằng hãy khiêm nhường và biết ơn.

Khi coi ngôn ngữ là một loại công nghệ, ta cần hình dung mình đang ở trong trận chiến của những giai thoại (myths). Mở sách giáo khoa lịch sử Mỹ, bạn sẽ thấy cả chương sách 30 trang về cố tổng thống George Washington, trong khi chỉ có 2 trang về chiến tranh Việt Nam kèm theo một bức ảnh Nixon và một bức ảnh rừng cây Việt Nam. Tất cả được viết dưới thể câu bị động: những thứ tồi tệ và lỗi lầm đã xảy ra… - không có thủ phạm nào ở đây cả. Ngôn ngữ được áp dụng để tạo ra những giai thoại theo hướng khác nhau. 

Vì vậy, là người viết, bạn đang điều khiển một loại vũ khí, công nghệ. Ngay cả khi không viết về những chủ đề mang tính chính trị, bạn cũng đang thay đổi cách tiếp nhận một nền văn hóa. Người ta thường bảo những người làm nghệ thuật phải có tầm nhìn nhỏ, phải khiêm tốn bởi họ biết nghệ thuật có sức mạnh lớn.

Tôi thường dùng ví dụ này để giúp sinh viên hiểu tầm quan trọng của ngôn ngữ: Trong Thế chiến 2, tỉ lệ bóp cò súng của quân đội Mỹ là 22%. Đó là con số thể hiện một quân đội thất bại. Tuy nhiên, trong chiến tranh Việt Nam, tỉ lệ bóp cò của quân đội Mỹ tăng lên mức 90%. Làm thế nào mà lính Mỹ có thể bóp cò súng nhiều hơn hẳn chỉ trong vòng 40 năm? Đó là bởi quân đội đã đưa những từ lăng mạ chủng tộc vào chương trình huấn luyện. Nói cách khác, họ khiến mục tiêu mất đi tính người.

Có cả mặt tốt và xấu trong câu chuyện này. Mặt tốt là, dù đã được huấn luyện, những người lính không hề muốn giết người. Đó cũng là lý do tại sao nhiều lính Mỹ mắc chứng PTSD (rối loạn căng thẳng hậu sang chấn) - chúng ta không phải giống loài có thể giết đồng loại. Còn mặt xấu là, ta nhận ra ngôn ngữ có thể biến con người thành động vật. Đó là những gì đã xảy ra ở Việt Nam. Ngôn ngữ che mờ và biến đổi bản chất của hiện tượng. Khi coi đối tượng không phải con người, bạn không giết chóc mà chỉ đang đi săn, và con người thì đã đi săn hàng thế kỷ rồi. Từ ngữ kỳ thị chủng tộc đã biến người Việt Nam thành những con thú bị săn đuổi. Nếu quân đội đã sử dụng ngôn ngữ để tăng năng suất cho cỗ máy giết người, ngôn ngữ là công nghệ đầu tiên.

Là một người viết, bạn cần tự hỏi: Nếu mọi khía cạnh trong xã hội đều đang tạo ra những giai thoại để thuyết phục người khác, mình đang tạo ra giai thoại gì? Điều đó có thể rất nhỏ và không nhất thiết phải liên quan tới chính trị. Đó có thể là câu chuyện tình yêu, nhưng khi viết nó, bạn đang tạo ra một giai thoại. Không có ngôn ngữ nào là trung lập. Đó là lý do tại sao rất nhiều chính quyền, nền văn hóa, đế chế đã cố gắng điều khiển ngôn ngữ để cai trị.

Anh được coi là một trong những nhà thơ xuất chúng của nền thơ ca Mỹ đương đại. Tuy nhiên, trong thơ ca, việc đánh giá một tác phẩm thơ hay hoặc dở không hề dễ dàng. Với anh, tiêu chí nào để đánh giá thơ hay?

Trong nghệ thuật, mọi đánh giá đều là chủ quan nên không thể thực sự so sánh. Không có cuộc thi nào quyết định được chất lượng của tác phẩm nghệ thuật. Đó là lý do nghệ thuật có nhiều trường phái và có nhiều cuộc cách mạng trong nghệ thuật được sinh ra từ sự đối lập. Khi không có thước đo nào, bạn có thể tự do tạo nên tác phẩm của mình. Tiêu chí duy nhất nên là bản thân bạn. Tác phẩm có làm bạn hài lòng, ngạc nhiên hay gợi những câu hỏi? Bạn có hào hứng với những gì mình viết? Nếu câu trả lời là có, hãy tiếp tục sáng tác. 

Nhưng nếu bạn chỉ viết để được xuất bản hay để được đón nhận, bạn sẽ đánh mất bản thân. Bạn không phải người phục vụ nghệ thuật mà chỉ là nô lệ của đám đông. Điều quan trọng là giữ vững sự độc lập trong sáng tác và chấp nhận rằng không phải ai cũng sẽ thích tác phẩm của bạn bởi cảm nhận của mỗi người là chủ quan. Vẻ đẹp nằm ở sự khác biệt trong cách tiếp cận. Sự cọ xát trong quan điểm sẽ tạo nên các diễn ngôn. Diễn ngôn là mầm mống cho sự phát triển của nghệ thuật. Một nền văn hóa phát triển nhờ phép biện chứng của diễn ngôn.

Có rất nhiều tác phẩm văn học hải ngoại viết về chiến tranh Việt Nam, được nhiều độc giả quan tâm. Tuy nhiên, với On earth we're briefly gorgeous (Trên mặt đất, chúng ta là một thoáng huy hoàng), anh đã chọn đề tài rất khác, đưa vào tác phẩm của mình rất nhiều vấn đề: người tị nạn, người da màu, người đồng tính, ký ức, chấn thương… Vì sao anh lại lựa chọn cách viết này?

Là một nhà văn, tôi nhất định phải viết về tất cả những điều tôi muốn. Đặc quyền giá trị nhất của nhà văn là sự bất tuân đối với các luật lệ và kỳ vọng – sự lì lợm, “cứng đầu”. Tôi là một nhà văn “cứng đầu”, tôi thích làm mọi thứ theo cách của mình và đi ngược lại sự kỳ vọng của nước Mỹ. Tôi muốn viết về cách chiến tranh ảnh hưởng đến danh tính Mỹ. Người Mỹ tin rằng sự tham gia của họ vào chiến tranh đã kết thúc từ năm 1975, tôi thì cho rằng sự tham gia ấy không bao giờ kết thúc vì tác động của cuộc chiến đã trở lại trên chính vùng đất của họ. 

Tác phẩm của tôi quan tâm tới cách mà tâm chấn của chiến tranh trở về ám ảnh những kẻ gây ra cuộc chiến. Bản sắc của nước Mỹ không hẳn là vùng đất tự do, thịnh vượng và hy vọng, đó là vùng đất của những bóng ma. Người tị nạn là những bóng ma bằng xương bằng thịt của chính sách đối ngoại và sự bạo lực của nước Mỹ. Ở thế hệ tiếp theo, chúng ta lại chứng kiến những bóng ma trở lại ở những người tị nạn Afghanistan. Dòng thời gian vẫn mở và tiếp nối.

Khi tôi bán sách cho các nhà xuất bản, nhiều nơi nói: “Cuốn sách này viết về quá nhiều điều. Bạn nên giới hạn lại”. Là một học giả về văn học, tôi biết họ đang nói sai. Khi một nhà văn da trắng viết về mọi thứ, điều đó thật đẹp, sáng tạo, can đảm, nhưng khi một nhà văn Việt Nam quyết định viết về nhiều thứ, họ bảo tôi nên chọn một thứ. Vì vậy, tôi hiểu rằng việc này là hạn chế của những người Mỹ trong cách nhìn nhận người Việt. Khi gặp những biên tập viên đó, tôi đáp: “Cảm ơn, nhưng tôi sẽ tìm nơi khác bởi suy nghĩ của bạn còn tụt hậu”. Đó là “cứng đầu”. Việc “cứng đầu” rất quan trọng nhưng cũng rất khó bởi cha mẹ nuôi dạy ta phải kính nể và vâng lời.

Tôi đã chứng kiến nhiều người ở thế hệ trước mình phải cúi đầu cả đời ở Mỹ, họ nói xin lỗi và cúi chào ở các tiệm nail. “Shame” - xấu hổ, giống như mình có tội mà thực sự đâu phải vậy. Tôi rất đau lòng khi thấy điều đó. Nếu viết văn, ta phải từ chối việc đó. Mấy chục năm cha mẹ mình cúi đầu xuống xin lỗi nhưng kết quả chẳng được gì - nhiều người Mỹ vẫn coi mình thấp hơn họ. Nhưng mình cũng không trách cha mẹ, mình thông cảm, nhưng con phải làm chuyện khác, con phải “cứng đầu”. Có lần, thấy tôi giảng xong, mẹ nói: “Con ơi, mẹ hiểu rồi. Bao nhiêu người Việt phải cúi đầu xuống ở nước Mỹ này rồi thì phải có người ngẩng đầu lên”. Đó là lý do tôi không tuân theo kỳ vọng của người Mỹ để đưa ra lựa chọn của riêng mình.

Có nhiều người loay hoay với chủ đề sáng tác và câu chuyện của họ vì họ cảm thấy vấn đề mình đưa ra không có gì mới mẻ. Có rất nhiều người kể chuyện nhưng câu chuyện của họ không được đón đợi, quan tâm. Là một tác giả ăn khách (best-seller), anh chia sẻ gì về điều này?

Tôi cho rằng câu văn giống như DNA vậy. Cả triệu con người đã sống mấy nghìn năm qua nhưng chưa ai từng là bạn hay tôi. Vậy nên không có câu chuyện nào giống với câu chuyện của bạn, cách bạn viết câu chuyện đó mới thực sự quan trọng. Tác phẩm của tôi về người tị nạn, người nhập cư, tình yêu, sự cô độc, mỗi năm có cả nghìn cuốn sách như thế nhưng không có tác phẩm nào giống của tôi. Giá trị nằm ở ngôn ngữ của tác phẩm. 

Thực tế là tác phẩm của bạn luôn có nguy cơ bị bỏ mặc, không ai quan tâm. Hoặc như các nhà văn Liên Xô thì chết vì tác phẩm của mình. Người viết luôn đối mặt nguy cơ bị bỏ quên hoặc chết. Độc giả không ở đó khi tôi bắt đầu viết, và người viết không bắt đầu với độc giả. Bạn không biết liệu có ai quan tâm đến cuốn sách của mình không và chỉ có thể cố gắng hết sức bằng cách viết ra những câu văn hay nhất. Khi độc giả đọc những câu văn đó, họ nhận ra tác giả rất thận trọng, nghiêm túc với sáng tác và cảm thấy muốn dành thời gian đọc tác phẩm này. Chúng ta luôn phải tưởng tượng rằng sẽ có ai đó nhận thấy giá trị trong tác phẩm của mình.

Nếu muốn biết liệu có ai quan tâm, bạn cần phải thử. Và việc không có ai đọc cũng là nguy cơ bạn luôn cần đối mặt. Mất rất nhiều thời gian để viết và mất nhiều thời gian hơn nữa để viết hay. Nhiều tác giả đã viết và thất bại. Đôi khi họ thất bại trong thời kỳ họ sống nhưng thành công sau đó. Ví dụ như Moby Dick, tượng đài của tiểu thuyết Mỹ, hiện bán cả triệu bản. Nhưng thời của tác giả, cuốn sách là một thất bại khi chỉ bán được vài trăm bản. Bạn có thể không được ghi nhận ở thời kỳ hay nền văn hóa của mình. Nhưng cũng không sao cả.

Quá trình viết của anh diễn ra như thế nào? Anh thường viết vào khoảng thời gian và không gian nào?

Không gian viết chỉ cần yên tĩnh, tôi thường viết vào ban đêm. Khi còn là sinh viên, tôi làm ở quán cà phê cả ngày và phải đi học vào sáng hôm sau, vậy nên, khoảng thời gian duy nhất tôi có là lúc 10h đêm đến 1-2h sáng, khi không có ai làm phiền, những việc khác đã được hoàn thành và tôi được viết ra những lời cuối cùng khép lại ngày.

Tôi viết chỉ khoảng 5-6 bài thơ mỗi năm. Tôi không viết thường xuyên, khoảng 2 lần/tuần, 5 ngày/tháng. Hầu hết thời gian những ý tưởng ở trong đầu tôi. Quá trình viết là đặt ra những câu hỏi và tháo gỡ chúng. Nếu viết mỗi ngày, tôi sẽ bị phân tâm và không thể giải quyết câu hỏi đặt ra. Tôi thường tự hỏi nếu nhân vật bị đặt vào một tình huống như vậy thì họ sẽ làm gì; hay nếu nhân vật này gặp nhân vật kia trong căn phòng thì chuyện gì sẽ xảy ra.

Đôi khi, tôi chỉ bước vào căn phòng tối và nghĩ về các nhân vật, hình dung ra ánh sáng, cách bài trí của phòng, những gì nhân vật làm và trò chuyện. Tôi tưởng tượng ra nhiều khả năng khác nhau, nhưng vẫn chưa viết ra. Tôi tiếp tục nghĩ về nó trong lúc rửa bát đĩa, đi dạo, đọc sách. Khoảng 3 tuần sau, tôi có đầy đủ mọi thứ. Tôi đã quá thân thuộc với nhân vật và câu chuyện nên những gì viết ra chỉ như ghi chép lại. Vì thế, khi ai đó hỏi liệu tôi có viết mỗi ngày hay không, câu trả lời là có, và không. Tôi không viết ra câu từ mỗi ngày nhưng luôn viết trong đầu.

Một số tác giả lựa chọn chất liệu từ cuộc sống của chính mình để sáng tác, do đó, họ thường đối diện những vấn đề rất riêng tư và những ký ức đau thương. Điều đó khiến họ cảm thấy rất khó hoàn thành tác phẩm của mình. Theo anh, có cách nào để vượt qua chuyện này?

Nếu viết về những điều đó khiến bạn không thoải mái, dừng lại là điều bình thường. Tôi không tin vào hình tượng người nghệ sĩ giỏi thì phải khổ sở. Nhiều nghệ sĩ giỏi vẫn có cuộc sống lành mạnh, hạnh phúc. Chủ nghĩa tư bản khiến chúng ta tin rằng nghệ thuật là sản phẩm tức thời của các thiên tài đau khổ, nhưng sự thật không phải vậy. Việc viết rất vất vả, kéo dài và không hề hào nhoáng. Văn hóa của chúng ta không thích hình ảnh đó nên tôn sùng (fetishize) ý niệm về người nghệ sĩ đau khổ. Tôi thì luôn nghĩ rằng người sáng tác phải khỏe mạnh, nên nếu việc đó có hại cho bạn về mặt tâm lý thì dừng lại cũng không sao.

Một cách tiếp cận vấn đề khác là diễn đạt lại những điều bạn muốn nói qua các biện pháp nghệ thuật. Nhiều người tiếp cận lối viết chấn thương (trauma writing) qua phúng dụ, ẩn dụ. Ví dụ, Anne Carson viết cuốn tiểu thuyết - tự truyện Autobiography of Red qua một nhân vật khác mà bà tạo ra. Bà vẫn kể câu chuyện của mình nhưng đã có khoảng cách.

Về phần tôi, tôi không bao giờ viết hồi ký. Nhiều người nói rằng On earth we're briefly gorgeous là hồi ký, tôi phủ nhận điều này bởi tôi chỉ sử dụng bối cảnh cuộc đời mình để tạo ra một thế giới song song. Điều đó rất quan trọng vì tôi muốn tạo ra những nhân vật khác xa gia đình mình - người mẹ, người bà và Chó Con. Tôi có thể nói rằng Chó Con tốt hơn tôi nhiều - kiên nhẫn hơn, hiểu chuyện hơn, tinh ý hơn. Chó Con có tận 12 bản nháp, còn Ocean chỉ có một bản cho cuộc đời. Tôi thích chuyển hóa những gì mình đã trải qua thành những điều trí tưởng tượng có thể thay thế.

Phần cuối câu trả lời là đôi khi tôi chọn viết ra dù điều đó rất khó khăn, bởi có những thứ khác thậm chí còn khó khăn hơn. Tôi lớn lên chứng kiến những thành viên gia đình mình bệnh rồi mất đi, làm quần quật ở những nhà máy, tiệm nail chỉ để kiếm một ít tiền. Cha dượng tôi đi làm từ 3h chiều và về nhà lúc 2h chiều hôm sau. Tôi không bao giờ gặp ông. Ông tên là Ngọc. Ông làm việc trong một nhà máy để đỡ đần gia đình tôi. Trong 20 năm, tôi không bao giờ gặp ông trừ ngày cuối tuần, ông luôn luôn mệt mỏi. Tôi nhận thấy mình có đặc quyền để làm nhà văn và mẹ tôi luôn nhắc nhở điều đó: “Con ơi, tay con mềm quá, cái tay mềm phải giữ nha con. Bàn tay này là tay cầm viết”. 

Tôi tự nhủ rằng nếu đây là tài năng của mình thì tôi nợ bản thân và gia đình mình một sự đột phá. Những chấn thương trở nên nhỏ bé khi tôi nghĩ như vậy. Tôi không khuyên mọi người làm vậy, bởi không phải ai cũng vượt qua được chấn thương. Nhưng với tôi, điều đó thật nhỏ bé so với những gì người khác phải trải qua, nên tôi chọn viết ra.

Theo anh, tác phẩm văn học có nên truyền tải một thông điệp hoặc ý nghĩa cụ thể cho người đọc hay không? Làm sao để kết nối các phân cảnh của tác phẩm để chúng tạo thành ý nghĩa bao trùm?

Suy nghĩ cho rằng tất cả mọi thứ phải dẫn tới một ý nghĩa sau cuối là một phép ngụy biện của phương Tây, và ta nên nghi ngờ các ý niệm của phương Tây vẫn thường được xem là mang giá trị phổ quát toàn cầu. Nếu bạn xem những tác phẩm của Miyazaki, ông ấy mang theo mình triết lý của Nhật Bản về thứ gọi là “ma” - khoảnh khắc của sự dừng lại và nghỉ ngơi. Trong phim Spirited Away, khi cô bé ở đường tàu với Vô Diện, họ không làm gì cả. Cảnh đó không có ý nghĩa gì cả nhưng đã cho phép người xem chiêm nghiệm và suy tưởng cùng các nhân vật. Tất cả những gì đã diễn ra trước đó tích tụ và song hành với trải nghiệm, khiến cho những gì sắp xảy ra trở nên ấn tượng. Nhưng ở phương Tây, tất cả những khoảng nghỉ này đều bị loại bỏ, hành động nối tiếp hành động, nên bạn cảm thấy bạn bị kéo đi khi xem, và có một chút bạo lực trong đó.

Tôi cho rằng khi bạn viết đủ nhiều, ý nghĩa sẽ xuất hiện, bởi vì cuộc sống luôn chứa đựng ý nghĩa. Bạn thậm chí có thể không nhận ra, nhưng hãy cứ viết mà không cần đánh giá bản thân. Khi nhìn lại, bạn sẽ thấy ý nghĩa và chủ đề. Đó là sự khám phá, ý nghĩa đã ở đó trong tiềm thức, bạn cần viết ra để nhận thấy chúng. Và đừng giới hạn mình trong cách nhìn của phương Tây. Vấn đề ở cái nhìn kiểu phương Tây này là mọi thứ đều trở thành ám hiệu, gợi ý chuẩn bị cho điều diễn ra sau đó và chẳng còn gì bất ngờ. Nhưng tưởng tượng bạn xem một vở kịch và bạn thấy một chi tiết chẳng dẫn tới điều gì cả, mà một thứ khác diễn ra. Lúc này, bạn có sự bất ngờ và niềm vui sướng.■

(Lược dịch cuộc trò chuyện: Đỗ Quyên – Phượng Mai)

Ocean-Vuong-2.jpg

Ocean Vương là một trong những nhà văn người Mỹ gốc Việt thành công nhất tại Mỹ hiện nay. Tên tiếng Việt của anh là Hải. Anh sinh năm 1988 tại quận 5, TP Hồ Chí Minh. Năm lên 2 tuổi, anh cùng gia đình di cư sang Mỹ và sinh sống tại Hartford, Connecticut. Anh từng theo học chuyên ngành marketing quốc tế tại Đại học Pace nhưng đã sớm thôi học và chuyển sang học chuyên ngành văn học Mỹ thế kỷ XIX ở Đại học Brooklyn. Anh nhận bằng thạc sĩ thi ca tại Đại học New York.

Năm 2016, tập thơ đầu tay Night Sky with Exit Wounds (Trời đêm những vết thương xuyên thấu) của anh được trao giải TS. Eliot. Tờ The New York Times đưa tập thơ vào danh sách top 10 cuốn sách của năm. Năm 2019, anh nhận được tài trợ MacArthur giành cho các thiên tài văn chương để phát triển dự án sáng tác trong vòng 5 năm. Cùng năm, anh ra mắt tiểu thuyết đầu tay On Earth We're Briefly Gorgeous - cuốn sách nhanh chóng trở thành một trong những tác phẩm bán chạy nhất nước Mỹ, được dịch ra hơn 30 ngôn ngữ. Tháng 4 - 2022, anh sẽ cho ra mắt tập thơ thứ hai với tên gọi Time is a Mother (Thời gian là một người mẹ).

 

Nguồn: https://cuoituan.tuoitre.vn/van-hoa-giai-tri/ocean-vuong-nha-van-phai-cung-dau-1629085.html

Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ được yêu thích rộng rãi ở Việt Nam từ hơn 150 năm nay. Nhìn từ lý tưởng và sứ mệnh của UNESCO, chúng ta thử điểm lại những giá trị cụ Đồ đã góp cho hành trang của chúng ta, cho con cháu hôm nay và mai sau.

20211130

Tranh Đông Hồ về Lục Vân Tiên - Ảnh tác giả chụp lại từ tư liệu

Trong những giá trị tốt đẹp ấy, những gì có thể giới thiệu với bạn bè năm châu để góp vào hành trang đi tới của nhân loại? Theo tôi là 4 phương diện sau đây.

Nhà thơ lớn của nhân dân Việt Nam

Nói đến thơ Nguyễn Đình Chiểu, trước hết nói đến tác phẩm Lục Vân Tiên. Lục Vân Tiên đề cao tình nghĩa ở đời: tình cha con (Vân Tiên với cha mẹ), tình vợ chồng (Vân Tiên-Nguyệt Nga), tình bạn bè (Vân Tiên-Hớn Minh, Tử Trực), tình thầy trò, thầy tớ (Vân Tiên-tiểu đồng, Nguyệt Nga-Kim Liên)... Tình nghĩa là căn cốt của tâm hồn Việt Nam, của tính cách Việt Nam, của văn hóa Việt Nam. Đó cũng là giá trị mà Việt Nam có thể mang ra thế giới.

Lục Vân Tiên đề cao tinh thần nghĩa hiệp - trọng nghĩa khinh tài - thông qua hình tượng Vân Tiên đánh cướp, Vân Tiên giúp nước giúp dân...

Lục Vân Tiên thể hiện ước mơ của người bình dân về công lý trong cuộc sống: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo - kẻ ác phải bị trừng phạt. Lục Vân Tiên là truyện thơ viết bằng chữ Nôm, viết bằng tiếng nói bình dân, kể chuyện cho dân nghe, rất được dân chúng ưa thích.

Lục Vân Tiên có sức ảnh hưởng lớn trong nước và trên thế giới; được chuyển thể thành những loại hình nghệ thuật khác như: tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống về Lục Vân Tiên, tuồng Lục Vân Tiên, phim Lục Vân Tiên, nhạc kịch về Lục Vân Tiên (vở Tiên Nga của Thành Lộc công diễn 2019)..., tức là một "trường văn hóa" về Lục Vân Tiên - đó là điều ngoài Truyện Kiều ra, ít tác phẩm nào có được.

Lục Vân Tiên còn là tác phẩm văn học Việt Nam được dịch ra nhiều thứ tiếng: ít nhất 7 bản tiếng Pháp. Năm 1985 Lục Vân Tiên còn được dịch ra tiếng Nhật với bản dịch của giáo sư Takeuchi Yonosuke. Năm 2016 Lục Vân Tiên được dịch ra tiếng Anh với bản dịch của Éric Rosencrantz...

Nguyễn Đình Chiểu và những lý tưởng, sứ mệnh của UNESCO - Ảnh 2.

Lục Vân Tiên đánh cướp trong Vân Tiên cổ tích truyện

 

Nhà thơ nhân đạo - thân dân, yêu hòa bình

Tình cảm nhân đạo, thân dân, yêu hòa bình thể hiện chủ yếu ở văn tế, thơ của Nguyễn Đình Chiểu sáng tác sau khi Pháp xâm lược.

Nguyễn Đình Chiểu là tác giả hàng đầu Việt Nam về thể loại văn tế: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Văn tế sĩ dân Lục tỉnh trận vong và thơ điếu liên hoàn: Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Thơ điếu Phan Thanh Giản...

Ngoài ra còn thơ và tập truyện thơ Nôm Ngư Tiều y thuật vấn đáp. Các tác phẩm thể hiện một lòng yêu nước thiết tha, một khát vọng về quyền tự quyết của dân tộc.

Với tinh thần ấy, các tác phẩm đã đưa Nguyễn Đình Chiểu lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19, và cũng chính là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào "phi thực dân hóa" của các dân tộc Á Phi - một phong trào được sự ủng hộ rộng rãi của dư luận tiến bộ trên thế giới, phù hợp với hiến chương Liên Hiệp Quốc, trong đó có UNESCO.

Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với chủ nghĩa nhân đạo, thân dân, với tinh thần yêu hòa bình truyền thống của dân tộc Việt Nam. Qua các tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu luôn phản ánh số phận của nhân dân: nhân dân là nạn nhân đầu tiên của chiến tranh, đặc biệt phụ nữ, trẻ em - những nhóm người yếu thế nhất trong xã hội.

Tình nghĩa là căn cốt của tâm hồn Việt Nam, của tính cách Việt Nam, của văn hóa Việt Nam. Đó cũng là giá trị mà Việt Nam có thể mang ra thế giới.

 

Nhà tư tưởng

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu có vị trí danh dự. Ông đánh dấu quá trình chuyển biến của Nho học Việt Nam ở Gia Định theo hướng đô thị hóa, Việt hóa và bình dân hóa.

Ở Lục Vân Tiên chúng ta thấy có một nhân vật khá đặc biệt, đó là ông Quán. Ông Quán làu thông kinh sử, ngao ngán con đường công danh, nhưng không lui về ẩn dật theo con đường quen thuộc của các nhà nho - ẩn sĩ ngày xưa, mà ông lại mở quán bán hàng, tức là làm thương mại.

Nhà nho truyền thống thường coi khinh buôn bán, thương nhân đứng ở nấc thang cuối cùng (sĩ, nông, công, thương), triều đình cũng thi hành chính sách "trọng nông ức thương".

Thế mà nhà nho của Nguyễn Đình Chiểu, nho thì rất nho nhưng cũng biết đến cả kinh doanh. Nếu xu hướng ông Quán này được tiếp tục phát triển thì ông có khác gì các nhà nho duy tân đầu thế kỷ 20.

Nho giáo của Nguyễn Đình Chiểu đang trên quá trình Việt hóa - bình dân hóa một cách sâu sắc. Chữ trung, đức mục hàng đầu của nhà nho, được Việt hóa thành khái niệm "ngay" (ngay ngắn, ngay thẳng).

Chữ hiếu, đức mục đứng sau chữ trung, được Việt hóa thành khái niệm "thảo", "ngũ thường" thành "năm hằng", "chính khí" thành "hơi chính"...

Khi trung thành ngay, hiếu thành thảo, thì những thói ngu trung, hiếu một cách mù quáng không còn nữa. Sự thay đổi khái niệm không phải chỉ là vấn đề thay đổi ngôn từ, mà nội hàm của những khái niệm đó cũng thay đổi.

Nguyễn Đình Chiểu và những lý tưởng, sứ mệnh của UNESCO - Ảnh 4.

Truyện tranh Vân Tiên cổ tích truyện

 

Vượt nghịch cảnh giúp ích cho nhân dân

Nguyễn Đình Chiểu là nhà giáo có uy tín cao, thường được dân Lục tỉnh gọi là "cụ Đồ" với thái độ kính trọng mà thân thương. Học trò của ông rải khắp Sài Gòn, Cần Giuộc, Ba Tri. Cụ còn là người thầy thuốc lớn, thương dân, có trách nhiệm, rất đề cao y đức.

Trong Lục Vân Tiên, ông gay gắt lên án bọn lang băm hám lợi, hại người. Sách Ngư Tiều y thuật vấn đáp của ông là cuốn cẩm nang, sách giáo khoa về nghề y, đương thời rất được các thầy thuốc ưa chuộng, sử dụng rất nhiều.

Hình tượng Kỳ Nhân Sư trong tác phẩm ấy thể hiện sự gắn số phận của người trí thức với đất nước và nhân dân.

Nước mất, Kỳ Nhân Sư bỏ vào núi vì không muốn làm người trí thức vong thân; buồn đau và bất lực, ông đã dùng chính hiểu biết về nghề thuốc xông mù đôi mắt để khỏi thấy cảnh đất nước điêu linh, sinh dân nghiêng nghèo.

Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng, khi mà cuộc đời ông và sáng tác của ông, lời nói của ông và việc làm của ông thống nhất làm một.

Nguyễn Đình Chiểu và những lý tưởng, sứ mệnh của UNESCO - Ảnh 5.

Lục Vân Tiên bản tiếng Nhật năm 1985

 

Ngày 23-11 tại thủ đô Paris (Pháp), Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa thuộc Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã thông qua nghị quyết: năm 2022 sẽ tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh danh nhân Nguyễn Đình Chiểu, và kỷ niệm 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

Cùng với Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Nguyễn Du, Chu Văn An, Hồ Xuân Hương, thì Nguyễn Đình Chiểu trở thành người Việt Nam thứ 6 được UNESCO kỷ niệm như một danh nhân văn hóa.

Về phương diện tác gia, Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng xếp ngang hàng với những tác giả lớn của văn học châu Á như: Khuất Nguyên, Tả Khâu Minh, Bạch Cư Dị của Trung Quốc; Matsuo Basho, Kyokutei Bakin của Nhật Bản, tác giả Xuân Hương truyện của Hàn Quốc... mà UNESCO từng vinh danh.

PGS.TS ĐOÀN LÊ GIANG (Trường ĐH KHXH&NV, ĐH Quốc gia TP.HCM)

Nguồn: Báo Tuổi trẻ, ngày 26.11.2021.

Mùa xuân năm ngoái
Tôi soi gương
Giật mình
Quái
Lão già nào mặc bộ comple
của mình thế nhỉ?
Mùa xuân năm nay
Tôi soi gương
Chà chà
Chàng trai nào mặc bộ comple của
mình đây?

Những lời thơ dí dỏm nơi Cảm ơn mùa xuân đem đến sự tươi vui, chất nghịch ngợm, tinh quái trong phong cách thơ Y Phương. Chất này có trong những bài thơ “rất lính” khởi đi từ những ngày đầu cầm bút cũng là những ngày đầu quân ngũ của ông. Và thi thoảng, nó lóe sáng lên, mang đến một cái nhìn khác về lối viết của “người đồng mình” thâm trầm, sâu sắc.

Trong tản văn Tháng giêng tháng giêng một vòng dao quắm, Y Phương viết: “Tôi coi cái làng Tày như da bọc lấy người tôi. Nó nghi ngút khói lửa cay đắng trong hồn tôi. Ngôi làng ấy biến nước lã thành máu, chảy thấm qua và nuôi hàng trăm nghìn vạn tế bào quanh thân xác tôi.” Và suốt hành trình thơ của Y Phương, chủ đề về quê hương luôn ở vị trí ưu tiên. Ông viết về quê hương, từ điểm nhìn gần thì chân tình, sống động; nhưng có lẽ đau đáu hơn cả, thiết tha hơn cả là khi đã có một độ lùi xa về không gian.

Năm 2002, Y Phương rời Cao Bằng về Hà Nội sinh sống. Khoảng thời gian từ đó đến nay, thơ (và cả trường ca, tản văn) của ông thể hiện rõ cảm thức về không gian, ý thức về một Hà Nội phố.

20220210 2

Giữa những “ô vuông” thành phố...

Tết này/ Ở thành phố/ Nhớ tiếng gà/ Tiếng gà trong như sương/ Xanh như nước suối nguồn/ Ấm như gió ủ trong hang đá/…/ Ta nằm như viên bi ve/ Không sao ngủ được/ Không sao chợp mắt (Tiếng gà). Thời điểm viết bài thơ được ghi là “ngày 3 Tết Giáp Thân 2004”. Cái trằn trọc tựa như nỗi niềm Lý Bạch nơi Tĩnh dạ tứ, nhưng không phải vầng trăng rọi sáng nơi đầu giường ngỡ mặt đất phủ sương, ở đây, “tiếng gà trong như sương” đánh thức nỗi niềm của kẻ xa quê. Tiếng gà xanh trong, tiếng gà ran trong ngực, tiếng gà thơm trở về trong nỗi nhớ giữa một không gian tết phố. Nó gợi lên cả một miền ấm áp, trong trẻo như suối nguồn, như gió ủ trong hang đá. Còn con người thao thức vì một điều giản dị, nằm đếm sáng, đã ba giờ, đã bốn giờ, và cuối cùng thì cũng hiện lên một mặt trời mắt đỏ hoe: Gà ơi!/ Đã ba giờ sáng rồi/ Bốn giờ sáng rồi/ Người đi chợ/ Người dắt xe/ Tiếng máy nổ như búa như dao giần vào từng khúc ruột/ Như đóng đinh vào tai long óc/ Ôi tiếng gà thân thiết/ Tiếng gà cuống quýt/ Tiếng gà ran trên ngực ta/ Tiếng gà thơm trong hơi thở của ta/ Nó đang tan dần trong huyết quản/…/ Nhớ tiếng gà/ Hình như mặt trời cũng trằn trọc/ Mắt đỏ hoe. Không chỉ một lần, nỗi thao thức của kẻ li hương được diễn tả chi tiết và sinh động: Mưa mãi thế này thì không ngủ được nữa/ Dậy thôi/ Mưa làm mềm tôi/ Làm ướt giấc mơ hoa/ Mờ nhòe muôn mặt người/ Mưa thế này thì tốt cho măng/ Không tốt cho chim/ Chim cụp cánh nhớ rừng/ Rừng lá thẳm/ Mặt trời say tít (Mưa tết).

Trong hành trình sáng tác của mình, Y Phương thành công với những bài thơ nói về văn hóa dân tộc, về cái làng Tày “biến nước lã thành máu”, “như da bọc lấy người tôi, nghi ngút khói lửa cay đắng trong hồn tôi”, về người lính Tày với Bàn chân từng đạp bằng đá sắc/ Trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên. Đó là khởi nguồn của mọi sức mạnh, của cảm hứng sáng tác và của sự trở về. Bởi khi rời bản lảng, con người cũng như những con chim phiêu dạt, nhớ rừng và thổn thức trong một không gian bủa vây giam hãm: Tường trắng/ Tường trắng/ Thủng một ô vuông xanh/ Thêm một ô vuông nâu/ Nhúng nhính một bình hoa/ Thong thả nở những ngày chờ tết/ Tường trắng/ Lại tường trắng/ Thủng một ô vuông đỏ/ Thêm một ô vuông nhớ/ Hoa ơi hoa à đừng run thế em/ Hoa có làm sao đâu/ Hãy nhìn thật kĩ ngắm thật lâu/ Im nào/ Tường đang quặn/ Đau mà không nói được/ Nỗi mình (Tường trắng).

Không gian ấy giờ là những kí hiệu của khoảng trống trong tâm hồn những người con xa xứ. Những bức tường trắng như được xếp thành hình khối, vuông vức, sắc lạnh và sáng rõ bởi sự phân tách thành những khối nâu - xanh - đỏ…, và quan trọng nhất là một ô vuông nhớ. Dường như ở trong những ô vuông đó, bình hoa nở thong thả chờ tết lại gọi ra một cảm giác chán chường. Sự chậm rãi thanh thản đến nhạt nhẽo chỉ làm cho con người quặn đau. Thế nhưng, hoa có làm sao đâu, mà con người cảm thấy “tường trắng” và “tường trắng”. Bởi giữa không gian phố thị, giữa những ngày giáp tết, chim cụp cánh nhớ rừng, nhớ những cơn mưa mờ nhòe muôn mặt người và thấy mình tay trắng.

Cảm giác lạc lõng nơi thị thành có lẽ là một xúc cảm thường trực của những tác giả dân tộc thiểu số khi “hạ sơn về phố”. Với Dương Thuấn, “đồng bằng rộng tựa bên nào cũng trống”. A Sáng thì “ngơ ngác vầng trăng nơi phố xá” tự vấn về những bơ vơ của người xứ núi trót dấn thân vào cuộc sống đô thị: “Quả thực đôi khi tôi cũng không biết mình sống ở đây làm gì và tại sao mình lại sống ở thành phố. Tôi tin sẽ rất nhiều người đang sống ở thành phố mà trong kí ức của họ có một cố hương cũng sẽ nghĩ như tôi. (...) Có thể sau này tôi sẽ kiếm ra nhiều tiền - rất nhiều tiền, nhưng tôi cũng biết những đồng tiền kia không thể mua nổi một ánh trăng mát dịu. Ánh trăng đó không thể mua bằng tiền! Phải mất rất nhiều thời gian tôi mới nhận ra sự thật cay đắng đó. Hi vọng ánh trăng ấy sẽ hiếm hoi hiện về trong những giấc mơ của tôi…”

...nhớ về một “cánh đồng râm ran tiếng núi”

Thơ Y Phương - vẫn với lối viết vừa cụ thể vừa mang tính khái quát cao, bút pháp tượng trưng, ngôn ngữ bay bổng và tinh tế - đã vẽ ra một Hà Nội, một cái tết thành phố ngập tràn nỗi nhớ. Chính bởi nỗi nhớ ấy mà ảo tượng về một không gian quê nhà lại được vẽ ra, được nhìn qua con mắt của một người con xa quê nhớ về một “thiên đường đã mất”: Trên các bến tàu bến xe/ Tôi thấy/ Những vali/ Những túi/ Những người/ Căng phồng niềm vui/ Về quê ăn tết/ Tay tôi chạm cành buồn mọng nước/ Bên đường/ Cây cũng chẳng còn ai/ Mà về (Cây ơi về đâu).

Dẫu biết “rễ cây ngắn, rễ người dài”, “khi con người ý thức sâu sắc cội rễ của mình thì trong họ đầy lòng tự tin”, nhưng vẫn không thôi ngậm ngùi và chua xót. Bởi “mùa xuân là mùa làm người”, “mùa xuân vui từ khuya đến sáng” (tản văn Tết anh cả), bởi tết là thời điểm của sự trở về sum họp, nên con người xa quê chỉ có thể làm một cuộc “trở về” từ những ảo tượng, nhớ nhung để ý thức được là mình đã rời xa nó.

Quê hương của những ngày tết, lúc này, được vẽ ra từ điểm nhìn của không gian phố: hình ảnh bản làng, con người, qua lớp sương của kí ức, của nhớ nhung. Ở đấy có niềm vui gắn kết, có tình người, có những nét đẹp phong tục: Tết đến làng/ Eng éc tiếng lợn kêu/ Thụp thùm chày giã gạo/ Ơi ới người gọi người/ Khắp cánh đồng râm ran tiếng núi/…/ Tết ở lại/ Mưa sương như hoa rơi/ Trời dần ấm/ Rừng đào ló lé nụ/ Muôn mặt cười (Mặt hồng cười).

Nhìn từ xa, nhìn từ nỗi nhớ nên những kí ức cứ đau đáu mà rờ rỡ tươi non như thế. Y Phương tái hiện không khí của những ngày giáp tết, khi những người của núi tụ họp quây quần giản dị. Hà Nội cũng mưa xuân, cũng “nhúng nhính một bình hoa”…, nhưng kẻ li hương kia không thể nào thôi hồi tưởng về những ngày xuân lất phất mưa sương như hoa rơi ở quê nhà Cao Bằng.

Một cuộc sống nhiệt thành, ấm nóng là nét biểu đạt quen thuộc thường thấy trong những sáng tác của các nhà thơ dân tộc thiểu số. Lò Ngân Sủn lúc nào cũng khiến con người rạo rực và mê đắm, đầy sức xuân: Mùa xuân đến/ Lòng người nở hoa/ Trái tim giã cốm/ Cả làng/ Cả bản/ Già trẻ/ Gái trai/ Người người/ Mới từ đầu đến chân (Mùa xuân đến). Mai Liễu thì hồn hậu, thấm thía cảm giác hạnh phúc khi được sống trong tình cảm bản làng sau những thăng trầm: La đà cả ba ngày tết/ Chén xuân nồng đượm nghĩa tình/ Cũng may, nửa đời phiêu dạt/ Vui buồn còn bạn/ còn quê (Tết quê nhà)… Y Phương thì ngậm ngùi trong ao ước Giá đừng mang thêm/ Nỗi buồn tha hương. “Thích ứng cũng là hình thức mới của sự tha hóa”, ông nhận thấy mình đã gắn bó quá lâu chốn thị thành: Ta đi lâu quá rồi/ Vẫn còn nhớ mùi thơm của đá/ Vẫn còn thấy những bà già/ Lờ mờ từ lòng núi nhô ra/ Vẫn còn nghe tiếng út ò xa xa/ Mang màu rơm tròn căng cục kịch về nhà/ Ta đi lâu quá rồi/ Yêu đá ta nằm/ Và đôi khi lăn lăn/ Nhích từng phân từng li/ Đến những nơi cần đến/ Gặp những người cần gặp/ Học theo đá nên ta sống thật (Nhớ đá). Đó chính là hương vị của núi rừng, là mùi của tết, và hơn hết là cái ngậm ngùi của kẻ đi đủ xa, nhớ đủ đầy khi viết về quê nhà.

Vào thời khắc tết đến xuân về, người người sum họp, cảm giác cô đơn và chạnh lòng càng trở nên rõ nét nơi những lữ khách rời quê về phố. Họ quay quắt nhớ cố hương. Và sự xa cách kia, không gian tết phố kia càng làm cho khát vọng trở về trong họ thêm mãnh liệt, day dứt. Với Y Phương, niềm yêu và tự hào về quê hương, niềm tự tôn về căn cước cá thể luôn thường trực: “Bạn biết không, tôi như một que thử. Nhúng xuống thành phố vẫn cứ xanh một màu rừng” (tản văn Nhúng xuống thành phố).

Song Quyên

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 03.02.2022.

Trên Phong hóa số 129 ra ngày 21-12-1934, văn sĩ Khái Hưng, bấy giờ vừa xấp xỉ tứ tuần, bắt đầu cho đăng “Tiêu Sơn tráng sĩ”, một tiểu thuyết dài kì bậc nhất trong sự nghiệp văn chương dằng dặc của ông, và đến ngày 24-4-1936, mới kết thúc, cũng trên tờ báo danh tiếng ấy, số 184...

“Tiêu Sơn tráng sĩ” mang đậm chất hồi cố, lùi về quá khứ hơn một trăm năm trước, thời Tây Sơn đánh bật nhà Lê, để bày biện một câu chuyện đậm màu lịch sử, liên quan đến danh sĩ Phạm Thái và nhiều thân danh khác từng bị cuốn theo cơn gió bụi thời đại.

1. Không phải ngẫu nhiên mà Khái Hưng chọn Phạm Thái làm nguyên mẫu. Phạm Thái (1777-1813) quê làng Yên Thị, nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội, con của võ tướng Trạch Trung hầu Phạm Đạt.

Tuổi đôi mươi, Phạm Thái nối chí cha chống lại Tây Sơn, kết giao với những người đồng chí hướng, khi bị truy nã thì cắt tóc, giả làm nhà sư vào tu ở chùa Tiêu Sơn (cổ tự nổi tiếng thuộc trấn Kinh Bắc xưa), đặt đạo hiệu là Phổ Chiếu thiền sư. Đi tu được mấy năm, ông được bạn là Thanh Xuyên hầu Trương Đăng Thụ, bấy giờ làm quan ở trấn Lạng Sơn, vời lên tính việc phù Lê. Nhưng, sự chưa đâu vào đâu thì Trương Đăng Thụ ốm chết, Phạm Thái hay tin, vội vã về quê bạn ở làng Thanh Nê, Kiến Xương (Thái Bình) để điếu tang, rồi được gia chủ mến tài lưu lại trong nhà.

Định mệnh run rủi, Phạm Thái gặp gỡ, xướng họa thơ văn rồi nảy lòng si tình Trương Quỳnh Như, em gái Trương Đăng Thụ. Cuộc tình không thuận, mẹ Quỳnh Như nhất quyết muốn gả nàng cho gia đình giàu có Trịnh Nhị, khiến nàng phẫn uất tự vẫn. Đại nghiệp chưa thành, tình duyên đau khổ, Phạm Thái chẳng màng thế sự, trổ hết tài hoa làm thơ và lang bạt, rồi ốm đau tử tận ở Thanh Hóa lúc mới 36 tuổi.

20211125

Báo Phong hóa minh họa hình ảnh tráng sĩ Tiêu Sơn bất đắc chí uống rượu bên đường.

Dù quãng thời gian tại thế ngắn ngủi, dù vấp phải nhiều sóng gió có khi được hậu thế hình dung như những bi kịch nhưng cuộc đời, hành trang văn chương của Phạm Thái là một mẫu hình quá hấp dẫn và luôn gây ngạc nhiên cho đến hôm nay. Nay đây mai đó trong những khoảng cách địa lí xa xôi, khi lên Lạng Sơn, khi quay về Kinh Bắc, lúc xuống trấn Sơn Nam hạ, dấu chân chàng tuổi trẻ hiện hình những chông gai của lớp người mong muốn phục dựng nhà Lê, đồng thời, cũng thể hiện tư chất nghệ sĩ thích thú tiêu dao sơn thủy, muốn đo trời đất giang sơn bằng tráng chí bốn phương của mình.

Rượu, thơ, người đẹp, bôn tẩu giang hồ và từ bỏ trần gian nơi đất khách quê người, chừng ấy chất liệu tiểu sử trên nền thời cuộc đảo điên sơn hà, một thời cuộc chỉ chớp mắt là biến thiên dâu bể, hẳn đủ để Phạm Thái khía vào ngòi bút Khái Hưng những tưởng tượng và cảm hứng lớn, vừa chân thực vừa thêu dệt, trong tinh thần nhìn lại không những Phạm Thái mà còn cả thế hệ trí thức thời cuối Lê đầu Nguyễn. Lựa chọn và ứng xử của họ, quả thật, không giản đơn theo chủ ý cá nhân mà thường xuyên chịu tác động bởi thời cuộc biến thiên, bởi một phép thử quá mới mẻ và cực kì khó khăn mang tên Tây Sơn.

2. Do đó, trong cách xử lí và cũng là quan điểm của hậu thế Khái Hưng thì vấn đề của Phạm Thái có nguồn cơn là Tây Sơn. Khi Khái Hưng tìm về Phạm Thái và cuộc bạo động của đảng phái Tiêu Sơn, trước hay sau, ông cũng phải thể hiện thái độ đối kháng của những tôi trung nhà Lê trước triều Tây Sơn vừa dựng.

Xuyên suốt tiểu thuyết “Tiêu Sơn tráng sĩ”, Khái Hưng đã giữ nguyên giọng điệu, ngôn từ đầy phẫn hận của nhân vật khi nhắc đến Tây Sơn. Cách chêm xen bình phẩm về Tây Sơn của Khái Hưng, xét cho cùng, như một nối dài những phán xét của nhà Nguyễn về “ngụy triều” và so với thực tế nhận thức đầu thế XX, chúng chưa bị coi là trái chiều.

Không phải Khái Hưng hạ thấp, bài xích Tây Sơn mà bởi văn chương hoài Lê cất giấu nỗi niềm “nhớ nước đau lòng” khó bộc bạch hết. Không phải Khái Hưng xem thường những kẻ xu nịnh, cơ hội vuốt ve triều mới mà bởi lịch sử đã từng ghi lại tình trạng ba phe bảy mối trong lúc giang sơn vừa đổi chủ.

Như thế, với tư cách tiểu thuyết gia, Khái Hưng nhận thấy tâm thế hoài Lê, mối thâm thù Tây Sơn đã làm thế hệ trí thức cuối XVIII đầu XIX phải loay hoay, lúng túng, thậm chí, rất đau đớn trong sự lựa chọn dứt khoát của mình. Bất tuân, chống lại Tây Sơn đồng nghĩa với hành động “cứu quốc” nên Phạm Thái, đảng Tiêu Sơn và rất nhiều trai tài gái giỏi đã nhất tề đứng dậy, bỏ bút nghiên theo việc đao cung. Nhưng họ, dưới góc nhìn của Khái Hưng, cũng không khác các anh hùng thời Tam Quốc mưu phục nhà Hán, chỉ có lòng nghĩa hiệp, ý chí mà thiếu thủ lĩnh, nhân tài vật lực cần thiết. Tây Sơn đã là một thực tế, một tồn tại lớn, trái ngược hoàn toàn với những tâm hồn giàu cảm xúc nuối tiếc vương triều cũ.

“Vận mệnh nhà Lê ta đã hết”, lời trăng trối mà Khái Hưng gán cho Lê Chiêu Thống, là đáp trả chua xót cho giấc mộng phục hưng. Dĩ nhiên, đặt trong điều kiện bất khả thay đổi ấy, Phạm Thái đã có một chiến thắng lớn của quan điểm sống mà Khái Hưng rất tích cực mô tả: sống tận cùng với từng khoảnh khắc hiện tại, ở đây và ngay lúc này, còn cái chết hay được thua trên đời đều vô nghĩa. Đó là cảm thức sống đặc trưng của con người hiểu thấu lẽ thịnh suy, biến dịch. Tây Sơn thuộc về lịch sử, Phạm Thái thuộc về văn chương. Và, cả hai đều tồn tại trong thế soi chiếu vào nhau bất chấp nhiều định kiến và nhầm lẫn.

Phạm Thái độc đáo nhưng không hoàn toàn khác biệt với nhiều chứng nhân lịch sử cùng thời, từ Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Chí, Nguyễn Du, Nguyễn Đề cho đến Nguyễn Huy Lượng, Phan Huy Ích..., những người mà nhìn chung, đều có khá nhiều mâu thuẫn trong cung cách tạo dựng cuộc đời cá nhân. Chỉ có điều, Phạm Thái chết trẻ và Phạm Thái không tham chính chốn quan trường. Trải nghiệm sống của ông gần như thuộc về lớp trí thức ngoài lề, tuy tài năng và có tráng chí nhưng chưa kịp/không thể thi thố nơi triều đình.

Nhưng, Phạm Thái, nếu nhìn vào chữ nghĩa, tài hoa, cá tính của ông, có lẽ, luôn gây thiện cảm cho đời sau bởi ông đã chẳng giấu mình quá kĩ. Sự khéo léo để che đậy hoặc ít ra, để đóng vai diễn theo thời, với ông, gần như không có. Cho nên, ông chẳng tha thiết lắm với nhân gian, sẵn sàng nhẹ gánh “chết về tiên bụt cho xong kiếp”.

3. Phạm Thái trong mắt Khái Hưng cũng là kiểu nhân vật ẩn chứa mâu thuẫn. Trong khi hết mình, dốc sức vì anh em đồng chí của đảng Tiêu Sơn để mưu cầu việc lớn thì Phạm Thái cũng tự nhận mình yêu mến chốn cửa Phật và sẵn tâm chân tu cho đúng dáng vẻ thiền sư. Trong khi không từ nan bất cứ việc gì để phò tá vương triều Lê đã hưu tàn, cũng không ngần ngại ra tay hành xử như giặc cỏ với kẻ bất trung thì Phạm Thái cũng muốn thả lỏng tâm tư trước cảnh trí thiên nhiên, trước rượu ngon và vui thú thi văn. Phạm Thái trong vai tráng sĩ thì “chỉ biết một việc là hành động, hành động cho tới giờ cuối cùng”, khinh thường bậc ẩn sĩ ích kỉ, ham sống nhưng trong vai thi nhân tiếu ngạo giang hồ thì “không một ngọn núi đá nào ở hai bên vệ sông mà chàng không trèo, không một cái động nào mà chàng không vào xem”.

Có lẽ, Khái Hưng muốn nhân vật Phạm Thái hấp dẫn trong hình ảnh của kẻ làm chủ, kẻ tham dự, tạo lập cuộc chơi, số phận đa chiều của mình. Phàm đã là cuộc chơi, kết cục đúng sai, thành bại không quyết định mà các cảm giác, trải nghiệm thấm thía mới là đích đến quan trọng. Vẻ lấp lánh, huyền ảo của con người cá nhân phiêu lưu nơi Phạm Thái, rõ ràng, phù hợp và thỏa mãn ít nhiều với tâm thế của độc giả văn chương hiện đại hơn là trùng khít với độ chân xác lịch sử. Đúng hơn, Khái Hưng muốn tái dựng Phạm Thái theo chiều hướng “đa ngã” để bày tỏ thiện cảm, lòng yêu mến những thân danh lãng mạn, tài hoa lạc thời thay vì quở trách, thất vọng trước người ôm mộng lớn mà chung cục bất thành.

Rút cuộc thì Khái Hưng, cũng như độc giả bấy giờ, hoàn toàn thể tất cho một Phạm Thái bi quan, yếm thế trong quá khứ và ủng hộ một Phạm Thái hư cấu dám tuyên ngôn rằng “chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy một hồ rượu; chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy hai con mắt mĩ nhân”. Đúc kết, chiêm nghiệm thú vị này cho phép Khái Hưng chia sẻ với văn chương lãng mạn đương thời về mức độ bay bổng, về cái đẹp và giá trị của mỗi cuộc dấn thân, bất kể nó trọn vẹn hoàn hảo hay dở dang, khiếm khuyết. Hơn nữa, đặt trong bối cảnh xã hội và thế hệ của Khái Hưng, sau cơn địa chấn khởi nghĩa Yên Bái, Phạm Thái của “Tiêu Sơn tráng sĩ” hẳn có thể xem là bóng hình tráng chí “không thành công, thôi thì thành nhân” mà trai nước Nam bấy giờ chưa nguôi cảm phục, còn nhiệt huyết nhưng tổ chức lỏng lẻo của đảng Tiêu Sơn hẳn là một phóng chiếu đến những trí thức trẻ đi làm cách mạng, xem thường hiểm nguy, sẵn sàng tuẫn tiết vì Tổ quốc mà thế hệ Khái Hưng từng tỏ lòng cảm kích.

Chỉ riêng ái tình của Phạm Thái, câu chuyện mà giờ đây hoàn toàn có thể xây dựng thành một bộ phim lãng mạn và bi kịch giống nhiều phim Hàn, thì Khái Hưng, vốn xuất thân Hán học, tỏ ra không vừa ý. Theo ông, “ái tình sẽ chiếm lấy cả tâm hồn ta, không nhường cho việc lớn ta đang theo đuổi một chỗ cỏn con”. Răn dạy như thế thì Phạm Thái, nếu có sống dậy, chắc gì đã dám yêu đương hết mình!

Mai Anh Tuấn

Nguồn: An ninh thế giới, ngày 17.11.2021.

Nhà thơ Y Phương (Hứa Vĩnh Sước) - tác giả bài thơ "Nói với con", "Tiếng hát tháng giêng" - đã đột ngột qua đời vào 20h50 ngày 9-2 tại Hà Nội, hưởng thọ 74 tuổi.

20220210

Nhà thơ Y Phương - Ảnh tư liệu

Thông tin được con rể ông là họa sĩ, nhà văn Hoàng A Sáng xác nhận với Tuổi Trẻ Online khuya 9-2.

Nhận tin dữ, nhà thơ Trần Hùng cùng nhiều bạn văn, thơ đều bày tỏ nỗi đau đớn bởi sự ra đi đột ngột của nhà thơ Y Phương. Mới đó họ còn gọi nhau chúc Tết.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - "không tin đó là sự thật, bởi trước Tết ông còn đến Hội Nhà văn dự sự kiện và còn nói chuyện vui vẻ với mọi người".

Theo nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, nhà thơ Y Phương là người dân tộc Tày ở Cao Bằng nhưng sau này theo con về Hà Nội sinh sống. Sống nơi thị thành, nhà thơ dân tộc Tày luôn vọng nhớ núi đồi, nắng gió quê hương.

Ông Thiều đánh giá Y Phương là "một tài năng đặc biệt và một nhân cách lớn". Ông cho biết Hội Nhà văn Việt Nam sẽ tổ chức tang lễ ông.

Nhà thơ Y Phương có tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, sinh năm 1948, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa VI.

Ông có niềm đam mê với văn chương từ nhỏ nhưng chỉ học hết cấp 3. Dù là con một, ông xung phong đi bộ đội, nhập ngũ năm 1968 làm lính đặc công, phục vụ trong quân ngũ cho tới năm 1981.

Ông đến với thơ ca từ những năm tháng quân ngũ này và cũng đi học tiếp từ trong quân ngũ. Sau đó ông chuyển sang công tác tại Sở Văn hóa - thông tin Cao Bằng, Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng, Hội Nhà văn Việt Nam.

Ông sáng tác nhiều tập thơ, trong đó có các tập thơ song ngữ. Bài thơ Nói với con của ông được đưa vào chương trình ngữ văn lớp 9.

Ông đoạt giải cuộc thi thơ tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 với tập thơ Tiếng hát tháng giêng, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007 và một số giải thưởng văn chương khác.

Nói với con

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.

Thiên Điểu

Nguồn: Báo Tuổi trẻ, ngày 10.02.2022.

Thông tin từ gia đình nhà văn Triệu Xuân cho biết ông vừa trút hơi thở cuối cùng vào 12h30 trưa nay 26-10, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh ung thư phổi.

Nhà văn Triệu Xuân sinh năm Nhâm Thìn, ngày 4-9-1952, tại An Đức, Ninh Giang, Hải Dương. Tên khai sinh ông là Triệu Xuân Điến, trong sáng tác lấy các bút danh: Triệu Minh, Minh Đức, Triệu Minh Đức.

Triệu Xuân viết văn, viết báo, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1986.

Tháng 12-1973, tốt nghiệp khoa ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, tình nguyện đi B làm phóng viên chiến trường của Đài phát thanh Giải Phóng, thường trú tại Khu V (Trung Trung Bộ); sau 1975 là phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam tại TP.HCM; trưởng ban biên tập chương trình phát thanh dành cho Nam Bộ của Đài Tiếng nói Việt Nam.

Từ năm 1997, ông là phó trưởng cơ quan đại diện báo Đầu Tư - Vietnam Investment Review tại TP.HCM; từ tháng 12-2000 đến tháng 10-2012, là trưởng chi nhánh Nhà xuất bản Văn Học tại TP.HCM rồi nghỉ hưu, sống tại TP.HCM.

Thời gian làm đại diện Nhà xuất bản Văn Học tại TP.HCM, nhà văn Triệu Xuân đã kết nối được nhiều nhà văn không phân biệt thành phần xuất thân cũng như quan niệm sáng tác, mục đích mong muốn gầy dựng một nhóm bạn hữu văn chương có thể hỗ trợ nhau trong nghề văn và tạo thành một phong trào văn chương mới như chính ông có lần tâm sự.

Từ đó, ông sáng lập nhóm văn chương Hồn Việt.

Triệu Xuân cũng là người sáng lập Quỹ Phát triển tài năng văn học Việt Nam, là phó chủ tịch thứ nhất.

Ông cũng từng là phó trưởng Chi hội Hội Nhà văn Việt Nam tại TP.HCM nhiệm kỳ 2011-2015 và nhiệm kỳ 2015-2020. Ông từng chủ biên: nguyệt san Văn Chương Ngày Nay; hợp tuyển Văn Thơ Chọn Lọc; các ấn phẩm của nhóm văn chương Hồn Việt liên kết cùng Nhà xuất bản Văn Học, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn.

Bên cạnh đó, nhà văn Triệu Xuân nỗ lực xây dựng website cá nhân: www.trieuxuan.info, với quy mô của một thư viện điện tử lưu trữ nhiều tư liệu văn chương, đặc biệt là cẩn thận lưu giữ thông tin về các tác giả văn học Việt Nam và thế giới mà khi cần, giới viết lách vẫn dẫn trích từ đây.

Nhà văn Bích Ngân - người theo sát hoạt động của thư viện điện tử cũng như bệnh tình nhà văn Triệu Xuân - kể:

"Khi phát hiện mình mắc chứng bệnh nan y và biết sức khỏe ngày một xấu đi, dù gia đình đã chữa chạy cho anh với tất cả khả năng có được, nhà văn Triệu Xuân đã gởi gắm cho vợ và các con của mình, như lời di chúc, là cố gắng duy trì trang www.trieuxuan.info mà chính anh tạo lập và bền bỉ vun đắp mỗi ngày để nó phát triển thành thư viện văn chương điện tử đúng nghĩa, nơi mỗi giờ, mỗi ngày đều có nhiều bạn đọc vào, tìm kiếm, thưởng thức hoặc tìm hiểu và nghiên cứu tác phẩm văn học, văn hóa trong nước và thế giới".

Nhà văn Triệu Xuân cũng là một người hoạt động tích cực trên mạng xã hội, ngay cả khi phải vất vả chống chọi căn bệnh ung thư. Trên trang Facebook của ông vẫn còn bài post hôm 15-8 đưa tin về cái chết của nhà văn Vũ Hạnh giữa khi đại dịch COVID-19 đang diễn biến mạnh. Lúc đó, Triệu Xuân cũng đang sắp bước vào một đợt nguy kịch, nhưng ông vẫn cố gắng cập nhật tình hình chia sẻ với mọi người.

Nay trang cá nhân của ông đã dừng lại, lặng lẽ đón nhận rất nhiều lời chia buồn của đồng nghiệp và bạn bè khi hay tin: hơn 300 lời nhắn trong vòng 1 giờ kể từ khi gia đình báo tin.

Xin tiễn biệt nhà văn với trái tim luôn dành nhiệt huyết cho sáng tác văn chương.

Lễ viếng nhà văn Triệu Xuân bắt đầu từ 19h30 ngày 26-10, tại Vãng sanh đường chùa Vĩnh Nghiêm, TP.HCM. Lễ động quan diễn ra lúc 13h ngày 27-10, linh cữu được hỏa táng tại Phước Lạc Viên - Dĩ An - Bình Dương.

Tác phẩm chính của Triệu Xuân đã xuất bản:

- Những người mở đất, truyện vừa. NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1983. NXB Văn Học 2005.

- Giấy trắng, tiểu thuyết. NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1985, tái bản 1986. Các NXB cũng đã in 14 lần.

- Nổi chìm trong dòng xoáy, tiểu thuyết. NXB Giao Thông Vận Tải in lần đầu 40.000 bản năm 1987. NXB Hội Nhà Văn tái bản, 2005.

- Đâu là lời phán xét cuối cùng, tiểu thuyết. NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1987. NXB Hội Nhà Văn, 2002.

- Trả giá, tiểu thuyết. NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1988, tái bản 1988, 1991. Các NXB in nhiều lần. Giải thưởng Văn học viết về đề tài công nhân của Hội Nhà văn & Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam 1986-1990.

- Bụi đời, tiểu thuyết. NXB Thanh Niên,1990 (in hai lần). Các NXB in nhiều lần.

- Sóng lừng (V.N.Mafia), tiểu thuyết. NXB Giao Thông Vận Tải, 1991.

- Cõi mê, tiểu thuyết. NXB Hội Nhà Văn, 2004, đã tái bản 6 lần.

- Lấp lánh tình đời, truyện & ký chọn lọc. NXB Văn Học. 2007, tái bản năm 2009.

- Triệu Xuân Sống & Viết, phê bình, tiểu luận, chân dung. NXB Hội Nhà Văn, 1- 2020.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-van-trieu-xuan-tu-gia-van-dan-o-tuoi-70-20211026172114847.htm

Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi (Xuân Diệu). Trong số các mĩ nhân Trung Quốc xa xưa, Bao Tự được mệnh danh là người đẹp không biết cười. Đến nỗi, Chu U Vương đã cho tì nữ xé bao nhiêu tơ lụa để đổi một nụ cười của giai nhân. Đến nỗi, Lý Bạch có thơ rằng: Mĩ nhân nhất tiếu hoán thiên kim (Một nụ cười của người đẹp đáng đổi lấy nghìn lạng vàng)…

Phong trào Thơ mới vắng thiếu nụ cười. Nỗi sầu buồn đã khắc dấu vào lịch sử thi ca Việt suốt một chặng đường dài. Cái buồn Thơ mới xuất phát từ nhiều nỗi: vì lãng mạn; vì mặc cảm sinh bất phùng thời; vì quan niệm buồn mới biểu hiện được chiều sâu tâm hồn, những dằn vặt nội tâm, những ngăn cách, dang dở mới làm nên cái đẹp đích thực của thơ… Nỗi buồn lan rộng trong Thơ mới và trở thành cảm xúc thẩm mĩ một thời. Tuy vậy, giữa những tiếng thở dài, những giọt lệ lãng mạn làm “xôn xao” thi đàn thời đó, vẫn có một mảng thơ e ấp nét môi cười làm nên một vệt thẩm mĩ khác, lưu dấu trong thơ Việt vốn xưa nay hiếm nụ cười.

20220206 2

1. Mùa xuân yếm thắm môi cười là tứ thơ nổi bật của mảng thơ đồng quê trong Thơ mới. Nó lưu giữ những nét đẹp văn hóa nghìn xưa. Đoàn Văn Cừ chấm phá giữa bức tranh Chợ tết đầy sắc màu ngộ nghĩnh một nét cười thùy mị: Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ. Giữa cái rộn ràng của sắc xuân ngày tết, nét môi cười cố giấu đi vẫn ngời lên bên màu yếm thắm, ngỡ như chìm khuất mà sáng bừng giữa cảnh quan văn hóa làng quê. Yếm là một hình tượng thẩm mĩ khơi gợi nhiều cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật xưa nay. Trong Thơ mới, ý nghĩa thẩm mĩ của biểu-tượng-rất-nữ này thay đổi qua cảm xúc, qua ngẫu hứng của nhà thơ. Bàng Bá Lân nồng nàn trong tiếng gọi quen thuộc của ca dao: Hỡi cô yếm thắm hái dâu ơi. Anh Thơ phối ghép những màu sắc tương phản làm nổi bật vẻ đẹp rạng ngời của thôn nữ ngày xưa: Yếm hồng thôn nữ tươi đường lúa/ Chùa lợp ngàn hoa đại trắng tinh. Bên cạnh nụ cười, dải yếm trở thành cầu nối giữa trái tim và trái tim, giữa cái đẹp hữu hình và cái đẹp vô hình. Trở lại với câu thơ Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ của Đoàn Văn Cừ, sắc thắm của yếm cứ rực lên thêm duyên nồng cho một nét môi e ấp thanh xuân. Nụ cười giấu đi mà sáng cả một góc hình. Đây là câu thơ tĩnh nhất trong bức tranh chợ tết động náo và nhiều màu sắc. Kể cả khi phiên chợ đã tàn thì nét môi lặng lẽ ấy vẫn đọng lại dư ba. Nụ cười đằm thắm điểm một nét duyên, như một điểm sáng thẩm mĩ của bài thơ. Nó sáng ngời cái cười tỏa nắng sau này trong thơ Hoàng Cầm: Em mặc yếm thắm/ Em thắt lụa hồng/ Em đi trẩy hội non sông/ Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh (Bên kia sông Đuống).

Lưu Trọng Lư lưu lại với thời gian một Nét cười đen nhánh sau tay áo với hình bóng mẹ trong hồi ức. Mẹ gắn liền với văn hóa Việt Nam. Mẹ cũng là hình ảnh xuyên suốt thi ca Việt. Trong nguồn cảm hứng bất tận đó, hình ảnh mẹ luôn gắn kết với lời ru. Mẹ - lời ru trở thành phổ biến, nhưng mẹ - nụ cười là hình ảnh hiếm trong thơ. Trước Lưu Trọng Lư, chưa có hình ảnh mẹ hồn hậu, chân quê mà lãng mạn đến vậy. Câu thơ tượng hình và tượng tạc cả tâm hồn. Âm thanh màu sắc tương ứng. Đen nhánh, áo đỏ, tiếng gà trưa, nắng mới… làm nên một hình ảnh me tôi tươi trẻ. Bài thơ Nắng mới nói về nỗi nhớ mẹ đẹp và lạ, nụ cười níu giữ hình bóng mẹ, níu giữ hồi ức về một thời thơ dại: Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời/ Lúc người còn sống tôi lên mười/ Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội/ Áo đỏ người đưa trước giậu phơi. Đã có bao nhiêu hình ảnh về mẹ, chảy thành một dòng thơ nối kết truyền thống và hiện đại, nhưng hình ảnh mẹ trong thơ Lưu Trọng Lư vẫn lan tỏa cảm xúc qua thời gian.

Nguyễn Nhược Pháp, chỉ với một tập thơ nho nhỏ Ngày xưa, đã góp vào “một thời đại trong thi ca” giọng riêng đến lạ. Thiếu nữ trong thơ ông trong trẻo, yêu kiều như người trong tranh, dẫu là trong lịch sử hay trong cuộc đời thường: Cúi đầu nàng tha thướt/ Yêu kiều như mây qua/ Mắt xanh nhìn man mác/ Mỉm cười vê cành hoa (Tay ngà); Mị Nương xinh như tiên trên trần/ Tóc xanh viền má hây hây đỏ/ Miệng nàng hé thắm như san hô/ Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ (Sơn Tinh, Thủy Tinh). Lạ, những người đẹp trong thơ Nguyễn Nhược Pháp đều có số phận buồn, sắc đẹp gắn liền với nước mắt và bi kịch mĩ nhân (Mị Châu, Mị Ê, Mị Nương, Nguyễn Thị Kim…), nhưng thấp thoáng trong thơ của nhà thơ này vẫn là cái cười tinh nghịch. Nụ cười khiến ngày xưa trong thơ ông vừa tráng lệ, quý phái vừa gần gũi: Hay đâu thần tiên đi lấy vợ/ Sơn Tinh, Thủy Tinh lòng tơ vương/…/ Nhưng có một nàng mà hai rể/ Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều (Sơn Tinh, Thủy Tinh). Nụ cười kết nối hôm qua và hôm nay, lịch sử và hiện đại làm sống lại những trang sử bi thương. Ẩn sau những dải yếm đào, thắt lưng dài đỏ hoe, những Em tuy mới mười lăm/ Mà đã lắm người thăm… là môi cười thiếu nữ hòa cùng nụ cười dí dỏm của nhà thơ khiến thơ Nguyễn Nhược Pháp đi một lối riêng, khác giữa điệu buồn sầu của Thơ mới.

2. Ở một phía khác, khi làn gió phương Tây thổi lộng vào đời sống văn hóa xã hội Việt Nam thì nét cười yếm thắm nhạt dần, thay thế bằng lẳng lơ khuy bấm. Khi Nguyễn Bính thảng thốt Nào đâu cái yếm lụa sồi, Van em em hãy giữ yên quê mùa thì môi cười Thơ mới chẳng còn e ấp. Đến khi Xuân Diệu để cho kĩ nữ mắt run mờ nhìn thấy sông trôi, và Thái Can lên tiếng về đời buồn gái nhảy Em về điểm phấn tô son lại/ Ngạo với nhân gian một nụ cười (Cảnh đoạn trường)… thì nụ cười trở thành diễn ngôn sắc đẹp lợi hại. Ảnh hưởng phương Tây, các nhà Thơ mới tiếp nhận một quan niệm mới về con người, về nghệ thuật, thẩm mĩ, cái đẹp thân xác trở thành nguồn cảm hứng. Nét cười cộng hưởng với da thịt trời ơi trắng rợn người đẩy Thơ mới theo một hướng mĩ cảm khác.

Mĩ học tượng trưng làm nên những nụ cười gợi cảm. Cảm quan tương ứng lưu dấu vết trong thơ các nhà Thơ mới chặng đường sau. Môi cười trong thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Đinh Hùng... quyện hòa với hương thơm, màu sắc và hương vị. Khao khát sống và yêu, nhà thơ được mệnh danh là “Ông hoàng thơ tình” đã điểm vào bức tranh buồn Thơ mới một nụ cười mang hơi xuân của đất trời và của lòng người: Giữa vườn inh ỏi tiếng chim vui/ Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời/ Sao buổi đầu xuân êm ái thế/ Cánh hồng kết những nụ cười tươi/ Mùa xuân chín ửng trên đôi má/…/ Thiếu nữ làm duyên, đứng mỉm cười (Nụ cười xuân). Từ cái che môi cười lặng lẽ đến thiếu nữ đứng mỉm cười, cái duyên con gái không còn lặn vào trong: Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm/ Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự (Giục giã). Nhạy cảm với sự trôi chảy của thời gian, Xuân Diệu hối hả vội vàng và cũng bâng khuâng buồn, hoài tiếc. Giữa lòng mùa xuân, nhà thơ đã có cảm giác hoài xuân, thì nụ cười thiếu nữ cũng chỉ còn là mơ tưởng và hoài niệm.

Càng bước vào lĩnh vực thơ tượng trưng, nụ cười trong Thơ mới càng biến ảo hơn. Nụ cười xuân thì mời gọi nhục cảm đan xen trong những vần thơ vốn mang nỗi sầu vạn kỉ của Huy Cận: Ngực trắng giòn như một trái rừng/ Mắt thì bằng rượu, tóc bằng hương/ Miệng cười bừng nở hàm răng lựu/ Sáng cả trời xanh mấy dặm trường (Hồn xuân). Đặc biệt, trong thơ Bích Khê, nụ cười ẩn nhưng đầy sắc thái. Nhà thơ thổi bồng bềnh cảm xúc vào những thi liệu quen thuộc khiến hình ảnh thơ mở ra những lớp nghĩa có sức gợi: Nụ cười ai trắng như hoa lê (Nghê thường); Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc/ Vài chút trăng say đọng ở làn môi (Tranh lõa thể); Những môi son phản ánh một trời chiều/ Một trời chiều mà muôn hoa nín thở (Sắc đẹp)… Với tính gợi cảm của thơ tượng trưng, “làn môi”, “môi son” là biểu tượng đầy nữ tính, hiện thân của cái đẹp nhục thể. Sắc đẹp hòa với cái đẹp của cây cỏ, mây gió, trăng sao… trong những vần thơ siêu cảm giác: Trên hỗn độn khỏa thân/ Đẹp tỉ mỉ, hỡi rung động truyền thần (Duy tân).

Chạm vão cõi siêu thực, thơ Đinh Hùng là thế giới của đau thương huyền bí. Trong Mê hồn ca, hình ảnh em, gái-thiên-nhiên, gái-muôn-đời, kì nữ, thần nữ, nữ sắc... thực mà ảo, có mà không (gần nhau, còn lạ nét môi cười), vì thế nụ cười dùng dằng giữa chiêm bao và khát vọng, có khi trượt sang trạng thái vô thức: Nàng nằm mộng suốt đêm hè dưới nguyệt/ Nụ cười buồn lay động ánh trăng sao (Tìm bóng tử thần); Một độ tôi ngồi thương khóc hoa/ Cửa chiều hiu hắt nắng xuân tà/ Nhớ người năm ngoái, năm xưa mãi/ Nhớ nụ cười xuân thấp thoáng qua (Duyên phượng hoa); Vệt son loáng nét môi cuồng vọng/ Lắng tiếng xuân cười, chết mỗi đêm (Gặp em huyền diệu)…

Trong số các nhà Thơ mới, Hàn Mặc Tử là người đi sâu vào cõi siêu thực hơn cả. Cõi thơ “càng đi sâu càng lạnh” của Hàn thật hiếm một nét cười dẫu thừa hình ảnh thiếu nữ, đồng trinh, em, con gái, nường… và sóng sánh dục tình. Ở giai đoạn đầu, những bài thơ xuân của Hàn Mặc Tử còn thoáng nét trong trẻo với hình ảnh gái quê, thiếu nữ mùa xuân chín… Đôi lần, nhà thơ vẽ thoáng một nét cười soi bóng nước: Ống quần vo xắn lên đầu gối/ Da thịt, trời ơi, trắng rợn mình/…/ Cô gái ngây thơ nhìn xuống hồ/ Nước trong nổi bật hình dung cô/ Nụ cười dưới ấy và trên ấy/ Không hẹn, đồng nhau nở lẳng lơ (Nụ cười). Những câu thơ đầy cảm giác và gợi liên tưởng. Hình ảnh thiếu nữ hồn nhiên, hình ảnh bóng nước nụ cười gợi liên tưởng đến cái cúi lặng ngắm bóng mình của chàng Narcissus đắm say mà đơn độc. Bài thơ Nụ cười còn phân rõ ranh giới giữa thực và ảo, dưới ấy và trên ấy, đối hình đối ảnh. Ngày càng chìm đắm trong mê sảng, hoảng loạn, vườn thơ “rộng rinh không bờ bến” của người thơ Hàn Mặc Tử chỉ còn hồn - trăng - máu ngự trị. Nụ cười có chăng cũng chỉ là khát vọng: Anh đứng cách xa hàng thế giới/ Lặng nhìn trong mộng miệng em cười (Lưu luyến); Cả miệng ta trăng là trăng/ Cả lòng ta vô số gái hồng nhan/ Ta nhả ra đây một nàng/.../ Bóng ai theo dõi bóng mình/ Bóng nàng yêu tinh/ Nhịp cười như tiếng vỡ pha lê (Một miệng trăng). Từ chỗ phân thân nường - bóng, đến ai - mình và tôi - bóng, cười trở thành tiếng nói của vô thức: Bây giờ tôi dại tôi điên/ Chấp tay tôi lạy cả miền không gian (Một miệng trăng). Tắt nụ cười cũng là lúc thơ Hàn Mặc Tử chìm vào thế hư ảo, chập chờn vô thức. Trong thế giới đau thương đó, trăng phủ tràn đầy ám ảnh: Không gian dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng (Huyền ảo). Từ đây, nhìn chung, Thơ mới vắng bóng tiếng cười.

Thơ mới mang hơi thở thời đại. Trong một thi giới lê thê buồn, nụ cười cũng mong manh. Tuy vậy, một nét môi cười, dẫu thực dẫu mộng, khiến Thơ mới càng thêm đa dạng sắc màu.

Lê Thị Hường

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 02.02.2022.

Tóm tắt

Trong lịch sử dân tộc, vì nhiều lý do khác nhau, Việt Nam đã hình thành mối quan hệ bang giao với các nước trong khu vực, nhất là với Trung Quốc, rồi với Nhật Bản, Triều Tiên; đến thế kỷ thế kỷ XIX, mối quan hệ này được mở rộng không gian với các nước ở khu vực Đông Nam Á biển (Malaysia, Singapore, Indonesia), rồi phương Tây (Pháp), từ đó hình thành dòng văn học bang giao, trong đó có thơ đi sứ, mà tác giả của nó là các sứ thần Việt Nam. Do vậy, đường đi sứ trở thành đường thơ.

Trên cơ sở tư liệu hiện có, bài viết này sẽ trình bày một diện mạo đầy đủ về thơ đi sứ triều Nguyễn, từ đó nêu lên một số giá trị của nó.

Từ khóa

Bang giao; thơ đi sứ; triều Nguyễn; thơ tiếp sứ; thơ tiễn sứ; sứ thần; diện mạo và giá trị.

 

1. Giới thiệu chung

Trong lịch sử dân tộc, vì nhiều lý do khác nhau, giữa Việt Nam đã hình thành nhiều mối quan hệ bang giao với các nước trong khu vực, nhất là với Trung Quốc, rồi với Nhật Bản, Triều Tiên; đến thế kỷ thế kỷ XIX, mối quan hệ này được mở rộng với các nước ở khu vực Đông Nam Á biển (Malaysia, Singapore, Indonesia), rồi phương Tây (Pháp), từ đó hình thành dòng văn học bang giao, chủ yếu là thơ đi sứ (thơ sứ trình), mà tác giả của nó là các sứ thần Việt Nam. Do vậy, đường đi sứ trở thành đường thơ.

Vấn đề đang bàn, trước đây, trong các bộ văn học sử Việt Nam hầu như các nhà nghiên cứu chưa quan tâm và đề cập đến, nếu có thì chỉ điểm qua sơ lược qua việc liệt kê tác giả tác phẩm, duy chỉ có giáo trình Văn học Việt Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII, tập 2, GS. Đinh Gia Khánh (chủ biên)[1] ở Phần thứ tư, mục V. Thơ vịnh sử, thơ đi sứ và chủ nghĩa yêu nước, do Bùi Duy Tân viết, tr.204-237. Riêng mảng thơ đi sứ chiếm dung lượng hơn 14 trang sách khổ 13 x 19 (tr.223 đến tr.237) và chỉ giới thiệu cảm hứng chủ đạo của nó, chứ chưa có điều kiện đi sâu và do tình hình tư liệu lúc bấy giờ nên giáo trình cũng chưa thống kê đầy đủ danh mục tác giả tác phẩm thơ đi sứ trong văn học nước nhà từ đầu đến giữa thế kỷ XVIII, bởi do quan niệm phân kỳ văn học lúc bấy giờ. Như vậy là giáo trình chưa đề cập đến mảng thơ sứ trình triều Nguyễn, mà phần văn học triều Nguyễn (thế kỷ XIX) do GS. Nguyễn Lộc biên soạn thì không đề cập đến. Còn trong công trình Thơ đi sứ[2], Phạm Thiều và Đào Phương Bình trước khi tuyển thơ có bài khảo cứu giới thiệu chung, nhưng khách quan mà nói bài khảo này cũng chưa giới thiệu đủ đầy về danh mục tác giả tác phẩm mảng thơ đi sứ. Gần đây, trong chuyên khảo Văn học Việt Nam thời Lê - Mạc, Nam Bắc phân tranh[3], tại chương 2 Những khuynh hướng văn học, mục 2.1. Khuynh hướng yêu nước, tiểu mục 2.1.5. Khuynh hướng yêu nước, tự hào dân tộc trong thơ bang giao (trang 92-137), Nguyễn Công Lý đã dành 45 trang để trình bày một diện mạo và thành tựu tương đối đủ đầy về thơ bang giao - đi sứ trong mười thế kỷ văn học cổ điển Việt Nam. Tiếp theo, trong một bài viết “Thơ bang giao trong văn học cổ điển Việt Nam: diện mạo và giá trị” bằng tiếng Trung 阮公理: 越南古典文學中的邦交詩:面貌 與價值, 2-2019. www.ssap.com.cn, chuyên đề đặc biệt của Tạp chí Nghiên cứu Việt Nam, kỳ 2 năm 2019, Học viện Khoa học Xã hội Quảng Tây Trung Quốc, một lần nữa, Nguyễn Công Lý đã trình bày sâu kỷ và đầy đủ thêm về diện mạo và giá trị của thơ bang giao - đi sứ trong văn học Việt Nam.  

Trên cơ sở thành tựu về văn bản và những nghiên cứu đã có, bài viết này sẽ trình bày diện mạo và những giá trị của thơ đi sứ triều Nguyễn (1802-1945).

2. Giới thuyết lại khái niệm “thơ đi sứ”, “thơ bang giao”

Sở dĩ chúng tôi giới thuyết lại các khái niệm là bởi từ trước đến nay trong giới nghiên cứu trong và ngoài nước chưa có sự đồng thuận và thống nhất về nội hàm các khái niệm ‘thơ bang giao’, ‘thơ đi sứ’, ‘thơ tiếp sứ’ (bao gồm thơ ứng đối, thơ xướng hoạ, thơ tặng sứ, thơ tiễn sứ), nhất là hiểu các khái niệm này với nghĩa rộng hẹp khác nhau, trong đó, có sự phân chia rạch ròi tách bạch về ‘thơ bang giao’ và ‘thơ đi sứ’.

Vấn đề này, hiện nay trong giới nghiên cứu đã có 3 quan niệm khác nhau.

Một là, có nhà nghiên cứu hiểu khái niệm thơ bang giao theo nghĩa hẹp, trong thế đối sánh với thơ đi sứ với quan niệm thơ bang giao chỉ là một bộ phận của thơ đi sứ. Họ quan niệm rằng thơ bang giao là những bài thơ đối đáp, xướng họa của các sứ thần Đại Việt với quan lại “thiên triều” tại Trung Hoa hoặc những bài thơ của những vị hoàng đế, quan lại đại thần phương Nam viết ra để xướng hoạ, hay tặng, tiếp, tiễn sứ thần phương Bắc, với mục đích phục vụ trực tiếp công cuộc đối ngoại của triều đình. Như vậy, thơ bang giao là những sáng tác thực hiện sứ mệnh “ngoại giao văn hóa”. Tiêu biểu cho quan niệm này là Phạm Thiều và Đào Phương Bình trong công trình Thơ đi sứ. Về sau, trong một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu về thơ đi sứ cũng có cách nhìn như thế.

Hai là, có nhà nghiên cứu hiểu thơ bang giao theo nghĩa rộng, khi cho rằng, thơ bang giao dùng để chỉ những sáng tác gắn liền với hoạt động ngoại giao Việt - Trung. Theo quan niệm này, thơ bang giao bao gồm cả thơ đi sứ, thơ tiếp sứ (thơ xướng hoạ, tặng sứ, tiễn sứ). Như vậy, thơ đi sứ chỉ là một bộ phận của thơ bang giao. Tiêu biểu cho quan niệm này là Phan Huy Chú trong bộ bách khoa thư Lịch triều hiến chương loại chí[4]; Nguyễn Thế Long trong công trình Bang giao Đại Việt[5] và Nguyễn Ngọc Nhuận trong luận án tiến sĩ Nghiên cứu và đánh giá văn bản thơ văn bang giao của Phan Huy Ích[6], ở đó, tác giả luận án đi sâu tìm hiểu tập thơ đi sứ Tinh sà kỷ hành của Phan Huy Ích. Trong các công trình và bài viết của chúng tôi đã thể hiện quan niệm này.

Ba là, có một số nhà nghiên cứu quan niệm có tách bạch khi phân chia rạch ròi thành hai mảng thơ bang giao và thơ đi sứ. Tiêu biểu cho quan niệm này là Bùi Duy Tân trong giáo trình Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII (do Đinh Gia Khánh chủ biên); đây cũng là quan niệm của Trần Thị Băng Thanh và Phạm Tú Châu trong bài viết “Vài nét về thơ bang giao, đi sứ đời Trần trong giai đoạn giao thiệp với nhà Nguyên”. Tiêu đề xác định rõ ràng “thơ bang giao”, “thơ đi sứ” và trong nội dung bài viết, hai nhà nghiên cứu đã cho rằng thơ bang giao là thơ tặng, tiễn sứ thần Trung Hoa sang Việt Nam phong vương. Tức là, những vần thơ làm nhiệm vụ bang giao trực tiếp qua hình thức xướng họa trong nước. Còn thơ đi sứ là thơ của sứ thần nước ta viết trên hành trình đi sứ Trung Hoa. Với cách hiểu này, thơ bang giao đồng đẳng với thơ đi sứ.

Chúng tôi cho rằng thơ bang giao bao gồm thơ tiếp, tiễn sứ thơ đi sứ. Như vậy, thơ đi sứ là một bộ phận của thơ bang giao.

Đi sâu vào các khái niệm, có thể thấy, về tính chất, thơ bang giao, trong đó có thơ đi sứ là những tác phẩm vừa mang tính chức năng lại vừa mang tính nghệ thuật, được sáng tác nhằm mục đích ngoại giao, bày tỏ mối quan hệ hoà hiếu giữa hai quốc gia, hai dân tộc. Những sáng tác được viết lúc đón tiếp, ứng đối xướng hoạ, tặng, tiễn các phái đoàn sứ bộ nước ngoài đến với nước ta; những sáng tác của các phái đoàn sứ bộ nước ta đi sứ sang các nước khác, chủ yếu là sang Trung Quốc, mà trước đây, các nhà nghiên cứu đã định danh là thơ đi sứ hoặc thơ sứ trình, tất cả đều thuộc về văn học bang giao, trong đó đa phần là thơ. Qua những bài thơ này, các nhà thơ - sứ giả Đại Việt có dịp để quảng bá văn hóa văn hiến nước nhà cho các vua chúa quan lại Trung Quốc và các sứ thần các nước Cao Ly (Triều Tiên), Lưu Cầu (Nhật Bản) đến Trung Quốc nhằm giúp họ hiểu thêm về đất nước, con người, văn hoá Đại Việt.

Về phân loại, Thơ bang giao bao gồm Thơ tiếp sứThơ đi sứ. Chúng vừa có điểm chung vừa có nét đặc thù, song bổ sung cho nhau tạo nên những nét đặc trưng của thơ bang giao Việt Nam.

Thơ tiếp sứ là thơ của các nhà ngoại giao Việt Nam (hoàng đế, đại thần) viết ra để đón tiếp các sứ giả Trung Hoa khi họ sang nước ta để phong vương, ban chiếu chỉ, lệnh dụ hoặc thực hiện các nhiệm vụ ngoại giao khác. Thơ tiếp sứ có các dạng: thơ ứng đối xướng hoạ thù tạc, thơ tặng sứ, thơ tiễn sứ.

+ Thơ ứng đối xướng hoạ thù tạc là thơ do các vị hoàng đế, các quan đại thần nước Nam viết ra để đối đáp, xướng hoạ với các sứ thần Trung Hoa khi họ sang nước ta làm nhiệm vụ ngoại giao. Bài Hoạ Kiều Nguyên Lãng vận của hoàng đế Trần Nhân Tông viết năm 1301 để hoạ thơ sứ thần họ Kiều của nhà Nguyên. Khoảng mười bài thơ của Phạm Sư Mạnh hoạ lại thơ của sứ giả nhà Minh là Dư Quý tại trạm dịch ở Nhĩ Hà vào giữa thế kỷ XIV, như bài Hoạ đại Minh sứ đề Nhĩ Hà dịch. Bài thơ Đáp Bắc nhân vấn An Nam phong tục của Hồ Quý Ly viết lúc gần cuối thế kỷ XIV để trả lời câu hỏi của sứ giả nhà Minh về phong tục nước Nam, v.v..

+ Thơ tặng sứ là thơ của các quan đại thần hoặc hoàng đế Đại Việt sáng tác để tặng các phái đoàn sứ giả Trung Quốc khi họ sang nước ta làm nhiệm vụ ngoại giao. Bài Tặng Bắc sứ Sài Trang Khanh, Lý Chấn Văn của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải viết năm 1278 để tặng hai sứ giả nhà Nguyên sang nước ta. Hai bài Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bínhTặng Bắc sứ Lý Tư Diễn của hoàng đế Trần Nhân Tông viết năm 1291 và 1289.

+ Thơ tiễn sứ là thơ của các quan đại thần hoặc hoàng đế Đại Việt sáng tác để tiễn đưa các phái đoàn sứ giả Trung Quốc về lại đất nước khi họ đã làm xong nhiệm vụ bang giao ở nước ta. Bài Từ khúc điệu Nguyễn lang quy của Quốc sư Khuông Việt viết năm 987 để tiễn sứ giả Lý Giác nhà Tống về lại đất Bắc. Bài Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh của hoàng đế Trần Thái Tông viết năm 1265 tiễn sứ giả nhà Nguyên. Bài Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải viết năm 1278 để tiễn sứ giả họ Sài về nước. Bài Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai và bài Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng của hoàng đế Trần Nhân Tông viết năm 1293 và 1301 để tiễn các sứ giả nhà Nguyên về nước. Bài Tống sứ ngâm của Tướng quân Mạc Ký ứng tác khoảng năm 1333-1334 để tiễn sứ giả nhà Nguyên là Hoàng Thường về nước.

Thơ đi sứ (Thơ sứ trình) là những tác phẩm thơ được các sứ thần Đại Việt sáng tác trên hành trình đi sứ để thực hiện công việc bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa. Có phái đoàn sứ bộ, mang theo quốc thư, cờ tiết, sắc phong đầy đủ, được triều đình cử đi làm nhiệm vụ bang giao. Có đáp ứng đầy đủ những yêu cầu này thì mới được gọi là thơ đi sứ.

Trong khi đó, nhà nghiên cứu Trần Ích Nguyên ở Đài Loan lại hiểu khái niệm thơ đi sứ theo nghĩa rất rộng, bao hàm cả thơ đi công cán, dương trình hiệu lực, đi áp tải các thuyền của các quan nhân, thương nhân Trung Quốc gặp nạn ở vùng biển nước ta về lại Phúc Kiến, Quảng Đông. Vấn đề này, chúng tôi đã có lần trao đổi trực tiếp với ông trong một Hội thảo khoa học quốc tế. Theo chúng tôi, mảng thơ của các tác giả viết khi được triều đình cử đi theo để phục dịch phái đoàn với tư cách phái đi công cán hay là ‘dương trình hiệu lực’ để lập công chuộc tội, như thơ của Cao Bá Quát, của Phan Thanh Giản viết trong lúc đi sang Tân Gia Ba, Gia Cát Ta, v.v..; hay như thơ của các vị quan nhà Nguyễn viết nhân chuyến áp giải thuyền của thương nhân Phúc Kiến, Quảng Đông gặp nạn về lại Trung Quốc thì không thể xếp vào mảng thơ đi sứ.

Từ khi có quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc là có thơ đi sứ. Trong các tập thơ đi sứ hiện còn, trong đó có cả thơ vịnh sử (nhân vật lịch sử, địa danh lịch sử) Trung Quốc, thơ ứng đối, xướng họa với các quan lại văn nhân trên đất nước Trung Quốc, và thơ xướng họa với các phái đoàn sứ bộ các nước Lưu Cầu (Nhật Bản), Cao Ly (Triều Tiên) đang làm nhiệm vụ bang giao tại triều đình Trung Quốc.

Sang thế kỷ XIX dưới triều nhà Nguyễn, không gian của những chuyến đi được mở rộng, không chỉ là sang ‘thiên triều’ Trung Quốc để tuế cống, báo hỷ, báo tang, cầu phong mà còn đến các nước trong khu vực với nhiều mục đích khác nhau, như đi sang Chân Lạp, Gia Các Ta (Malaysia), Tân Gia Ba (Singapore), Giang Lưu Ba (Batavia, thuộc Indonesia), Hoành Tân (thuộc Nhật Bản) để giao thương buôn bán, v.v.. Đến cuối thế kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn còn cử nhiều phái bộ sang tận Paris nước Pháp để thương thuyết, chuộc lại những vùng đất của nước ta bị Pháp chiếm đóng, hay sang thông hiếu cùng thực hiện những nhiệm vụ bang giao khác.

Trong gần 10 thế kỷ văn học cổ điển Việt Nam, có cả trăm tập thơ đi sứ hiện còn, xin nêu ra đây một vài tập tiêu biểu như Mai Lĩnh sứ Hoa thi tập của Phùng Khắc Khoan viết năm Đinh Dậu (1597) đi sứ sang nhà Minh cầu phong cho nhà Lê trung hưng và nhân dịp này chúc thọ vua Vạn Lịch nhà Minh; Sứ trình tân truyện, một truyện ký đi sứ bằng thơ Nôm của Nguyễn Tông Quai viết nhân chuyến đi sứ năm 1742-1745 sang nhà Thanh; Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du viết trong chuyến đi sứ sang nhà Thanh năm 1813-1814; tập Tây tra thi thảo của Nguyễn Trọng Hiệp được viết trong chuyến đi sứ sang Paris nước Pháp năm 1894 để thông hiếu; v.v.. Chính những chuyến sứ trình này, các sứ thần nước ta đã để lại rất nhiều tập thơ đi sứ có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.

3. Diện mạo thơ đi sứ triều nhà Nguyễn

Do hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa lý, giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có mối quan hệ bang giao kéo dài đến hai ngàn năm. Về văn hóa và văn học, Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu đậm từ văn hóa và văn học Hán. Riêng ở lĩnh vực chính trị và ngoại giao, các vương triều hai nước cũng có nhiều lúc căng thẳng, xung đột, nhiều cuộc chiến thảm khốc đã diễn ra và cuối cùng Việt Nam đã chiến thắng, giành lại độc lập dân tộc, và cho dù đã chiến thắng, nhưng liền sau đó vì mục đích hoà bình lâu dài các vương triều nước ta đã cử những phái đoàn sứ bộ sang Trung Quốc để hoà hiếu.

Chính mối quan hệ bang giao này đã hình thành dòng thơ bang giao trong văn học cổ điển Việt Nam, trong đó có thơ đi sứ (thơ sứ trình). Riêng việc ứng đối khi tiếp sứ, tiễn sứ và đi sứ thì các sứ thần Việt Nam không chỉ là nhà ngoại giao kiệt xuất với vốn văn hóa uyên bác mà còn là những nhà thơ tài hoa.

Về con đường đi sứ, trên hành trình nghìn trùng diệu vợi, để đến được kinh đô của “thiên triều”, từ Thăng Long hay Phú Xuân phái đoàn theo đường bộ đi lên Lạng Sơn rồi qua Nam Ninh (Quảng Tây - Trung Quốc). Bắt đầu từ Nam Ninh trở đi, phương tiện giao thông chủ yếu mà các đoàn sứ bộ ngoại giao thường dùng là đường thủy, theo dòng Trường Giang. Cụ thể như sau: Từ Thăng Long đến Yên Kinh (Bắc Kinh) hay Phú Xuân đến Bắc Kinh, thông thường, các sứ đoàn hay đi theo lộ trình: Phú Xuân – Thăng Long – Lạng Sơn – Quảng Tây – Hồ Nam – Hồ Bắc – Hà Nam – (hoặc An Huy – Giang Tô – Sơn Đông) – Hà Bắc – Yên Kinh (Bắc Kinh). Chỉ có một lần duy nhất vào đầu triều Nguyễn, sứ đoàn của Ngô Nhơn Tĩnh năm 1802 đi bằng đường biển từ Phú Xuân sang Trung Quốc để cầu phong việc đặt quốc hiệu, nhưng từ đó về sau không có sứ đoàn nào đi theo con đường biển này, dù đi ven bờ, bởi quá nguy hiểm vì sóng to gió lớn bão bùng. Những chuyến đi và về trên đất nước Trung Quốc rộng lớn ấy, các sứ giả - nhà thơ có dịp tận mắt thưởng ngoạn nhiều danh lam thắng cảnh. Chẳng hạn, sứ đoàn sẽ ngang qua Toàn Châu – chùa Tương Sơn (ở cuối Quảng Tây); Hành/Hoành Sơn, Hành/Hoành Dương, Hồi Nhạn phong, chùa Nhạc Lộc, hồ Động Đình, sông Tiêu Tương, lầu Nhạc Dương, Trường Sa... (thuộc Hồ Nam); Xích Bích, lầu Hoàng Hạc... (thuộc Hồ Bắc); Bồn Phố, Thái Thạch… (thuộc An Huy); Kim Lăng, Dương Châu... (thuộc Giang Nam - Giang Tô), hồ Vi Sơn... (thuộc Sơn Đông)...  Các danh thắng hữu tình đó đã gợi thi hứng cho các vị cất bút đề thơ ghi lại cảm xúc, nỗi niềm. Bên cạnh, khi đến các trạm dịch ở các địa phương hay tại kinh đô, tiếp xúc với quan lại ‘thiên triều’, các vị thường bút đàm chữ Hán và dùng văn chương để xướng họa thù tạc thể hiện thâm tình giao hảo. Do vậy, đường đi sứ trở thành đường thơ. Từ đó, có rất nhiều tập thơ đi sứ nổi tiếng được hoàn thành.

Về diện mạo và thành tựu của thơ đi sứ dưới triều Nguyễn, căn cứ vào chính sử của Quốc Sử quán triều Nguyễn; vào Tổng tập Văn học Viêt Nam, và bộ 越南漢文燕行文獻集成(越南所藏編) Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành (Việt Nam sở tàng biên) do Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) và Trường Đại học Phúc Đán (Trung Quốc) sưu tập và giới thiệu[7], và căn cứ vào các hợp tuyển, các biệt tập của các tác giả, chúng tôi đã lập một danh mục thơ đi sứ dưới triều nhà Nguyễn như sau: Trịnh Hoài Đức (1765-1825) có Cấn Trai quan quang tập, còn gọi là Bắc sứ thi tập; Lê Quang Định (1759-1813) có Hoa nguyên thi thảo; Ngô Nhơn Tĩnh (1761-1813) có Thập Anh Đường thi tập làm trong thời gian đi sứ, lúc làm quan và khi xướng họa với bạn bè. Ngô Thì Vị còn có tên Ngô Thì Hương (1774-1821) có Mai dịch xu dư một tập ký sự bằng thơ, ghi chép lại chuyến đi sứ năm 1809. Nguyễn Du (1765-1820) có Bắc hành tạp lục viết lúc đi sứ năm 1813-1814. Đinh Tường Phủ (?-?) đi sứ năm 1819, có để lại Cổ Hoan Khê Đình Đinh Tường Phủ sứ trình thi tập chép trong Bảo triện Hoàng giáp Trần công thi tập. Nguyễn Gia Cát (1760-?) có Hoa trình thi tập. Phan Huy Chú (1782-1840) có Hoa thiều ngâm lục (tập thơ đi sứ sang Trung Quốc). Lý Văn Phức (1785-1849) có hơn 10 tác phẩm đi sứ bằng chữ Hán và Nôm, bởi trong vòng 11 năm (1830-1841), ông được triều đình nhà Nguyễn cử đi nước ngoài đến 7 lần: Tây hành thi ký, Tây hành kiến văn kỷ lược (1830, Hoàng hoa tạp vịnh thảo (đi sang Yên Kinh, 1841), Sứ trình chí lược thảo (chữ Hán, viết chung với Phan Huy Chú, khi đi sang Yên Kinh, 1841), Sứ trình quát yếu biên (đi sang Yên Kinh, 1841) và Sứ trình tiện lãm khúc (chữ Nôm, viết chhung với Phan Huy Chú lúc đi sang Yên Kinh, 1841). Trương Hảo Hiệp (?-?) có Mộng mai đình thi thảo. Phan Thanh Giản (1796-1867) có Kim Đài thảo. Phạm Chi Hương (?-1871) đi sứ nhà Thanh năm 1845, viết My Xuyên sứ trình thi tập. Bùi Quỹ có 03 tập: Yên đài anh thoại, Sứ trình anh thoại khúc Yên hành khúc. Nguyễn Văn Siêu có Phương Đình vạn lý tập. Đặng Huy Trứ có Đặng Hoàng Trung thi sao. Phạm Phú Thứ (1821-1882) có Tây phù thi thảo, Tây hành nhật ký. Bùi Văn Tự (quen đọc là Dị) 1833-1895 có Vạn lý hành ngâm. Nguyễn Tư Giản đi sứ nhà Thanh năm 1868 có 05 tập: Yên thiều thi văn tập, Yên thiều bút lục, Yên thiều thi thảo, Trung ngoại quỳnh giao tập, Như Thanh nhật ký. Phạm Hy Lượng (1834-1886) đi sứ nhà Thanh năm 1870, có tập Bắc minh sồ vũ ngẫu lụcPhạm Ngư Đường bắc tra (sà) nhật ký. Nguyễn Thuật có Mỗi hoài ngâm thảo (2 quyển) lúc sang nhà Thanh năm 1881 và Vãng sứ Thiên Tân nhật ký viết năm 1883. Nguyễn Trọng Hiệp năm 1894 sang Paris có viết tập Tây tra thi tập hơn trăm bài, trong đó có phần thơ viết về thủ đô Paris, gồm 36 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, song ngữ Pháp - Hán mà sau này ông tách ra cho in thành một tập riêng: Đại Pháp quốc Ba Lê đô thành tập vịnh - Tuyển tập thơ vịnh về thủ đô Paris của nước Pháp (Paris capitale de la France - Recueil de vers 大法國玻璃都城集詠). Tập thơ viết về thủ đô Paris thể hiện cái nhìn, cách cảm của một Chánh sứ triều đình nước Đại Nam đối với cảnh vật mới lạ nơi kinh đô ánh sáng ở trời Tây[8].

Có một thực tế cần ghi nhận là nhiều sứ giả - thi nhân Đại Việt - Việt Nam khi đi sứ sang Trung Quốc, có đến thăm những di tích danh thắng nơi đất nước bạn, các vị có đề thơ, trong đó có nhiều bài được những người có nhiệm vụ trông coi những di tích danh thắng này đã lập bia khắc thơ. Chẳng hạn, theo thông tin của Trần Ích Nguyên thì chỉ tính riêng tại Nhạc Vương miếu (miếu thờ Nhạc Phi) ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc đã có bia khắc thơ của nhiều sứ giả - thi nhân Đại Việt như Phan Huy Chú (1825), Vương Hữu Quang (1848), Mai Đức Thường (1849), Hoàng Bích Sơn, Nguyễn Bảo, Nguyễn Văn Siêu, Phan Huy Vịnh, Phạm Chi Hương (1853), Phạm Hy Lượng (1871), Bùi Văn Tự (1876), Nguyễn Thuật (1881), Trần Khánh Tiến (1881), Nguyễn Tư Giản, v.v..[9].    

4. Giá trị của thơ đi sứ triều Nguyễn

Trên chuyến sứ trình vạn dặm từ Hoa Lư (Ninh Bình) đời Đinh, Tiền Lê; Thăng Long (Hà Nội) đời Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Mạc, Lê trung hưng; hay Phú Xuân (Huế) đời Tây Sơn và Nguyễn, các phái đoàn sứ bộ Đại Việt sang kinh đô Trung Quốc, trên đất Việt Nam thì đi bằng đường bộ, khi sang đất Trung Quốc thì đi bằng đường thuỷ và đường bộ, các sứ giả đã mục kích tận mắt bao nhiêu là cảnh sơn thuỷ kỳ thú và danh thắng hữu tình, chứng kiến bao nhiêu số phận con người trên đất nước bạn, nên chắc chắn họ đều có viết thơ, dù ít dù nhiều. Có người chỉ có dăm ba bài, có người có cả một hay vài ba tập để lại.

Trong tình hình tư liệu hiện nay, chưa tính những tác giả có một vài ba bài, chỉ tính các tác giả có tập thơ riêng thì văn học nước nhà có hàng mấy chục tập thơ đi sứ. Có thể nói thơ sứ trình trong văn học nước nhà thật phong phú về số lượng, da dạng về đề tài, cảm hứng và bút pháp nghệ thuật, góp phần là cho nền văn học nước nhà thêm nhiều sắc màu, và do vậy thơ đi sứ có vị trí và vai trò quan trọng đối với văn học dân tộc.

Trong bang giao, thì thơ ứng đối xướng hoạ thù tạc là bộ phận chiếm số lượng không nhỏ và có vị trí quan trọng. Qua thơ, ông cha ta ngày xưa đã thể hiện một bản lĩnh Việt Nam, tự hào và khẳng định Đại Việt có một nền văn hóa văn hiến riêng, mà nền văn hoá văn hiến này không chịu thua nhường Trung Hoa (bất tốn Hoa Hạ), như sứ giả Lý Giác nhà Tống đã từng khẳng định năm 987 “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu, Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu” (Ngoài trời lại có trời soi chiếu, Khe đầm lặng sóng bóng trăng thu). Qua những vần thơ đi sứ, người đọc sẽ bắt gặp những tâm hồn phóng khoáng tự do, cởi mở; tứ thơ hào sảng phơi phới niềm tự hào khi giới thiệu về đất nước mình qua lời thơ diễm lệ với tình ý khoáng đạt của tác giả.

Thơ viết về thiên nhiên chiếm số lượng rất lớn trong thơ đi sứ. Hành trình đi sứ bằng đường bộ và đường thuỷ trên đất nước Trung Hoa rộng lớn với nhiều danh lam thắng cảnh kỳ thú, các sứ giả Đại Việt thường bị hấp dẫn bởi vẻ đẹp của chúng, và dĩ nhiên tức cảnh sinh tình, cất bút đề thơ, hay xướng hoạ với các đồng liêu cùng đi công cán. Viết về thiên nhiên đất nước người, nhưng các sứ giả không quên những hình ảnh thiên nhiên đất nước mình, qua cái nhìn đối sánh với thiên nhiên phương Bắc. Dù không trực tiếp nhưng thiên nhiên đất Việt hiện lên trong thơ không kém phần sinh động, bởi chúng được viết lên từ sự hoài niệm, qua nỗi niềm tư hương cố quốc của sứ giả - thi nhân.

Thơ viết về địa danh lịch sử, nhân vật lịch sử (có thể gọi đây là thơ vịnh sử cũng không sai) chúng chiếm một số lượng đáng kể trong thơ đi sứ. Bằng nghệ thuật ngôn từ kiệm lời cùng hình ảnh văn chương, các tác giả đã tái hiện lại sự kiện, địa danh, nhân vật lịch sử rồi đánh giá, luận bình khen chê về sự kiện, địa danh, nhân vật lịch sử đó, và dĩ nhiên là lời bình luận khen chê dù theo chủ kiến của tác giả nhưng ngẫm lại thật xác đáng. Trước cảnh vật con người lịch sử, các sứ giả - thi nhân còn thể hiện tấm lòng hoài cổ thương kim, bộc lộ sự cảm thông với những số phận lịch sử, rồi gửi vào đó những trăn trở, những nghĩ suy về đời sống thực tại trong cõi nhân sinh. Những bài thơ như Quá Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu, Phản chiêu hồn trong Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du là những bài thơ thể hiện nội dung vừa nêu.

Thơ bộc lộ tâm tư của sứ giả trên hành trình đi sứ với nỗi niềm tư hương cố quốc là những vần thơ đầy cảm động và có chiều sâu tư tưởng cùng độ chân xác đậm tính hiện thực - trữ tình. Dù là thơ bang giao - đi sứ tức loại thơ mang tính chức năng hành chính quan phương, nhưng với cảm hứng về thiên nhiên, về lịch sử vừa đề cập ở trên thì đây chính là những bài thơ trữ tình thể hiện rõ đặc điểm của văn chương nghệ thuật, chứ không còn thuần tuý là văn học chức năng nữa, từ đó cái tôi cá nhân, cá tính sáng tạo của sứ giả - nghệ sĩ bộc lộ rõ nét. Đó là nỗi niềm hướng về đất Việt thân thương với mong ước có cánh chim nhạn mang thư về Nam; muốn mình như cánh chim bằng lướt sóng đẩy thuyền xuôi về Nam chỉ trong một đêm; là niềm mong ước về quê để thưởng thức hương vị béo ngậy của con cua đồng trong mùa lúa sớm trổ bông như trong thơ Nguyễn Trung Ngạn; là nỗi niềm day dứt với nhiều đêm trăn trở, rồi khi vừa chợp mắt thì giấc mộng nhớ quê nhà chợt hiện như trong thơ của Phùng Khắc Khoan; đó còn là tấm thân tuy ở đất Bắc nhưng cõi lòng lại hướng về nước Nam trong thơ của Ngô Nhơn Tịnh, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Nguyễn Thuật, và còn nhiều nữa. 

Từ diện mạo như trên, có thể nêu ra những giá trị cơ bản của thơ đi sứ triều Nguyễn như sau:

Một là, tinh thần ‘bất tốn Hoa hạ’ (không chịu thua nhường Trung Quốc), thể hiện niềm tự hào về truyền thống văn hóa, văn hiến của dân tộc.

Trong quan niệm và dưới cái nhìn của Trung Quốc xưa cũng như nay, họ luôn xem họ là trung tâm, là tinh hoa; còn các nước lân bang là ‘bắc địch, tây nhung, đông di, nam man’, nói chung đều là man di mọi rợ. Nhưng các quốc gia và dân tộc láng giềng, trong đó có Việt Nam, không bao giờ chấp nhận sự áp đặt đó. Để vượt thoát khỏi quan niệm Hoa - Di này, các dân tộc trong khu vực văn hoá đồng văn đã luôn thể hiện rõ tinh thần ‘thoát Trung’, ‘bất tốn Hoa hạ’. Dù văn hoá tư tưởng của ta chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hoá tư tưởng Trung Quốc, nhưng ta tiếp thu có biến đổi và có sáng tạo. Vì thế, tinh thần không chịu thua nhường Trung Quốc này thể hiện qua ba khía cạnh (1) Không chịu thua nhường về văn hoá văn hiến; (2) Không chịu thua nhường về tài năng sáng tác văn chương; (3) Không chịu thua nhường về những chiến công oai hùng chống ngoại xâm.

Ở đời Trần, người đọc bắt gặp niềm tự hào về văn hoá văn hiến của dân tộc không chịu thua nhường Trung Quốc qua bài thơ Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính của hoàng đế Trần Nhân Tông. Nhân tiết Hàn thực (mùng 3 tháng Ba), nhà vua tặng bánh rau, bánh chay, bánh khúc cho sứ giả nhà Nguyên là Trương Hiển Khanh, rồi nói rằng “đây là phong tục cũ của nước Nam chúng tôi”[10].

Hay như bài Hoạ Minh sứ đề Nhĩ Hà dịch (bài 3)[11] của Phạm Sư Mạnh hoạ lại bài thơ của sứ giả Dư Quý nhà Minh. Bài thơ đã giới thiệu cho sứ giả biết những nét đẹp về văn hoá văn hiến của Đại Việt với hình thế núi non trùng điệp, sông dài, đồng rộng bao la được phù sa của dòng sông Hồng bồi đắp làm cho cánh đồng thêm phì nhiêu tươi tốt. Có Tản Viên như bức bình phong che chở bảo vệ kinh đô Rồng bay. Thành cổ Văn Lang còn đó như chứng tích mấy ngàn năm văn hiến của dân tộc chẳng kém gì Trung Hoa. Đền thờ Lý Ông Trọng, người anh hùng của Âu Lạc đã từng phò Nam dẹp Bắc với sức mạnh vô địch. Khi ông mất rồi, nhà Tần còn tạc tượng để mượn oai ông mà hù doạ giặc. Một đất nước với địa linh nhân kiệt như thế thì nhà Minh chớ có nên dòm ngó và ôm mộng xâm lăng; đồng thời nhà thơ còn tái hiện lại cả ngàn năm văn hiến với niềm tự hào dân tộc thật cao cả!

Bài thơ của Hồ Quý Ly trả lời câu hỏi sứ giả nhà Minh về phong tục nước Nam Đáp Bắc nhân vấn An Nam phong tục, với những nét đặc sắc của văn hoá nước Nam. Văn hoá tinh thần thì phong tục thuần hậu, lễ nhạc và áo mũ của vua quan chẳng kém gì hai đời Hán và Đường bên Tàu là hai triều đại có nền văn hoá rực rỡ, võ công văn trị hùng mạnh nhất. Vật chất thì có rượu mới đựng trong bình ngọc, có cá ngon vảy nhỏ mổ bằng dao vàng, có hoa tươi tốt khoe sắc toả hương rực rỡ một vườn xuân. Giới thiệu như thế để ngầm bảo rằng văn hoá nhà Minh hôm nay không như đời Hán Đường khi xưa, hiện đã bị du mục hoá bởi đã bị đế quốc Mông Cổ cai trị gần một thế kỷ!

Sang triều Nguyễn, tinh thần không chịu thua kém Trung Quốc này thể hiện rõ trong thơ đi sứ của Nguyễn Du qua các bài Giáp Thành Mã Phục Ba miếu, Đề Đại Than Phục Ba miếu, Phản chiêu hồn, Biện Giả

Bốn câu cuối bài Giáp Thành Mã Phục Ba miếu, Nguyễn Du tỏ ý phê phán và mỉa mai ông dũng tướng nhà Hán chỉ lừa đàn bà và khi đã chết rồi vẫn còn làm luỵ đến vợ con:

Đồng trụ cận năng khi Việt nữ,/ Châu xa tất cánh luỵ gia nhi.

Tính danh hợp thướng Vân Đài hạ,/ Do hướng Nam trung sách tuế thì.

(Cột đồng chỉ có thể lừa đàn bà đất Việt,/ Xe ngọc châu rốt cuộc làm luỵ đến con cái trong nhà./ Họ tên ông đáng lẽ đã được ghi ở gác Vân Đài,/ Sao lại còn ngoảnh về phương Nam đòi hỏi cúng tế hàng năm?)[12]

  Hai câu kết bài Đề Đại Than Phục Ba miếu, thi hào đã mỉa mai ông hổ tướng này bằng một câu thơ nghi vấn: “Nhật mộ thành tây kinh cức hạ,/ Dâm Đàm di hối cánh hà như? (Chiều tà dưới lớp gai góc ở phía tây thành,/ Nỗi hận ở hồ Dâm Đàm rốt lại như thế nào rồi?)[13]. Có câu hỏi này là bởi khi Mã Viện đem quân đi đánh Hai Bà Trưng đánh mãi không được, phải lui quân về Lãng Bạc (hồ Tây, hồ Dâm Đàm). Tên Dâm Đàm có nghĩa là hồ nhiều mù sương chướng khí. Trời phương Nam nóng bức, hơi độc từ dưới hồ bốc lên khiến diều hâu sa xuống hồ chết. Khi lui quân về đây, Mã Viện đã hối hận vì không nghe lời em mình.

Biện Giả là bài thơ cổ phong trường thiên dùng lời lẽ và tư tưởng để phản bác lại lời của nhà hùng biện Giả Nghị (200-168 TCN) sống đầu đời Tây Hán bên Tàu. Giả Nghị là một nhà từ phú và chính luận nổi tiếng, làm quan đến chức Bác sĩ, rồi Thái Trung đại phu, sau bị biếm chức đổi làm Thái phó ở phủ Trường Sa vương, rồi Thái phó phủ Lương Hoài vương. Khi đi ngang qua sông Tương, ông có làm bài phú Viếng Khuất Nguyên để gởi gắm tâm sự của mình. Trong bài phú, Giả Nghị có viết “Lịch cửu châu nhi tướng kỳ quân hề, hà tất hoài thử đô dã” (Trải chin châu mà tìm vua, hà tất ôm lấy cố đô ấy), với ý chê Khuất Nguyên bảo thủ. Trong bài thơ của mình, Nguyễn Du đã bác bỏ cái ý này của Giả Nghị, ông cho rằng trung thần không thờ hai vua, liệt nữ không lấy hai chồng, lẽ đâu lại đi tìm vua ở chín châu. Thi hào còn tự cho mình là người nghìn năm sau hiểu rõ lòng Khuất Nguyên hơn Giả Nghị, ông còn chê bài phú của thư sinh họ Giả chẳng có nghĩa lý gì:

Bất thiệp Hồ Nam đạo,/ An tri tương thuỷ thâm?

Bất độc Hoài Sa phú,/ An thức Khuất Nguyên tâm?

Khuất Nguyên tâm, Tương giang thuỷ,/ Thiên thu vạn thu thanh kiến để.    

Cổ kim an đắc đồng tâm nhân,/ Giả sinh nhất phú đồ vi nhĩ.

Liệt nữ tòng lai bất nhị phu,/ Hà đắc thê thê ‘tướng cửu châu”.

Vị tất cổ nhân tri hữu ngã,/ Nhãn trung Tương thuỷ không du du.

(Không đi qua Hồ Nam,/ Sao biết nươc sông Tương sâu?/ Không đọc bài phú Hoài Sa./ Sao biết được lòng Khuất Nguyên? Lòng Khuất Nguyên như nước sông Tương./ Ngàn năm vạn năm vẫn trong suốt thấy đáy./ Xưa nay mấy ai có được bạn đồng tâm,/ Bài phú của thư sinh họ Giả chẳng có nghĩa lý gì./ Xưa nay liệt nữ không lấy hai chồng,/ Lẽ nào tất tả đi khắp chín châu tìm vua khác?/ Chưa chắc người xưa biết có ta,/ Trước mắt dòng sông Tương lững lờ trôi mãi.)[14]

Bài Phản chiêu hồn, thi hào chống lại bài Chiêu hồn của Tống Ngọc, khi họ Tống thương Khuất Nguyên hồn phách sắp tiêu tan nên làm bài Chiêu hồn để gọi hồn về. Trong khi đó Nguyễn Du thì khuyên hồn Khuất Nguyên không nên về, bởi xã hội Trung Quốc là xã hội tráo trở, bề ngoài ra vẻ cao quý nhưng thực chất bên trong thì ăn thịt người ngọt xớt như đường; người người đều nham hiểm như họ Thượng Quan; nơi nơi đều là cạm bẫy như dòng Mịch La. Ông mà về nếu cá rồng không nuốt thì hùm sói cũng ăn thịt ông thôi:

(…) Thành quách do thị, nhân dân phi,/ Trần ai cổn cổn vô nhân y.

Xuất giả khu xa nhập cứ toạ,/ Toạ đàm lập nghị giai Cao, Quỳ.

Bất lộ trảo nha dữ giác độc,/ Giảo tước nhân nhục cam như di.

(…) Tảo liễm tinh thần phản thái cực,/ Thận vật tái phản linh nhân xi.

Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan, Đại địa xứ xứ giai Mịch La.

Ngư long bất thực, sài hổ thực,/ Hồn hề! Hồn hề! Nại hồn hà?

(… Thành quách vẫn như cũ, song nhân dân đã khác rồi,/Bụi cuốn mù mịt bẩn cả quần áo./ Khi ra đường thì rong ruổi xe, khi ở nhà thì ngồi vênh váo,/ Họ đứng ngồi bàn tán như ông Cao, ông Quỳ./ Họ che giấu  nanh vuốt và nọc độc,/ Nhưng cắn xé thịt người ngọt xớt như đường./ …Hãy sớm thu tinh thần trở lại cõi thái cực,/ Dừng trở về đây nữa mà người ta mai mỉa./ Đời sau người người đều là họ Thượng Quan,/ Mặt đất đâu đâu đều là sông Mịch La./ Cá rồng chẳng nuốt, hùm sói cũng ăn,/ Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn làm thế nào?)[15]   

Cũng với tinh thần ‘bất tốn Hoa hạ’ mà các sứ giả - thi nhân nước ta đã không ngần ngại cất bút đề thơ trước những thắng cảnh nổi tiếng ở Trung Quốc mầ các vị đã mục kích, cho dù những danh thắng này đã được các thi nhân sở tại đã sáng tác ngợi ca đến hàng trăm, hàng ngàn bài, những thắng cảnh như hồ Động Đình hồ, tám cảnh đẹp ở Tiêu Tương, đặc biệt là cảnh lầu Hoàng Hạc, vậy mà các sứ thần nước ta khi đến những nơi này đều có thơ để lại với những khám phá riêng đầy thú vị. Với lầu Hoàng Hạc chẳng hạn, không phải là các vị không biết chuyện Lý Bạch thúc thủ, ném bút bởi đã có thơ của Thôi Hiệu, vậy mà các sứ thần Việt Nam đến đây thưởng cảnh đề thơ có đến hàng trăm bài và tất cả đều là những giai phẩm. Những bài thơ này sẽ được bài viết bàn đến ở giá trị thứ 5 của dòng thơ đi sứ. Phải chăng đó chính là xuất phát từ tinh thần không chịu thua kém thi nhân nước bạn về tài năng sáng tạo văn chương?  

Nếu cha ông ta ngày xưa không có lòng tự hào về truyền thống văn hoá văn hiến của dân tộc, không có tinh thần không chịu thua kém nước bạn và không có bản lĩnh thì làm sao có thể sáng tác được những giai phẩm đầy tính thuyết phục và cảm hoá lòng người đọc như vừa nêu?

 Hai là, thể hiện lòng trung quân ái quốc, chuộng nghĩa khí, với quyết tâm hoàn thành trọng trách của quốc gia giao phó.

Chuyện đi sứ làm nhiệm vụ bang giao đối với lân bang, nhất là với Trung Quốc, là chuyện quốc gia trọng sự, có quan hệ đến an nguy của xã tắc, nên triều đình rất thận trọng và cân nhắc khi cắt cử ba vị lãnh đạo (gồm 01 Chánh sứ và 02 Phó sứ) cùng các thành viên trong phái đoàn sứ bộ, với yêu cầu họ phải là người có tư cách đạo đức cao, có tri thức văn hoá uyên bác, giỏi ứng đối ngoại giao, từng trải lịch lãm… Chính vì thế mà các sứ giả bao giờ cũng là người biết đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi cá nhân, và các vị luôn vượt qua những khó khăn trở ngại trong chuyến sứ trình ngàn trùng diệu vợi để hoàn thành trọng trách mà triều đình và nhân dân giao phó. Cho nên lòng trung quân ái quốc, tinh thần vì nước quên mình, quyết tâm hoàn thành sứ mệnh là nội dung chính trong các tập thơ đi sứ.

Chẳng hạn Phùng Khắc Khoan (1528-1613) triều Lê trung hưng đi sứ sang nhà Minh năm 1597. Đây là chuyến đi sứ của triều đại này sang nhà Minh để cầu phong. Phái đoàn sứ bộ nước ta chờ đợi đến mấy tháng nhưng triều đình không tiếp. Nhờ tài ứng đối ngoại giao và tài thơ của Chánh sứ Phùng Khắc Khoan mà vua Vạn Lịch nhà Minh mới cho tiếp kiến. Cuối cùng nhà Minh phải đồng ý bỏ lệ cống nạp người vàng cúi đầu, mà lệ này họ bắt nhà Mạc phải tuân thủ, đồng thời cho phép theo lệ của nhà Hậu Lê trước đây. Hoặc như chuyến đi sứ của phái đoàn sứ bộ Giang Văn Minh (1573-1639) sang nhà Minh năm 1639 dưới đời Sùng Trinh Minh Tự Tông (Chu Do Kiểm). Vua Sùng Trinh khi cho sứ đoàn Đại Việt vào tiếp kiến, ông ta đã ra một vế đối với ý ngạo mạn, coi thường nước ta, và buộc sứ thần nước ta phải đối lại, vế ra “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” (Cột đồng đến nay rêu đã phủ xanh). Sứ giả Giang Văn Minh đã đĩnh đạt ung dung đối lại rất chuẩn “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Sông Bạch Đằng từ xưa máu vẫn còn nhuộm đỏ). Vế ra nhắc đến chuyện sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa giành độc lập tự chủ xong, tướng Mã Viện nhà Hán đã cho chôn cột đồng rồi hăm doạ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ bị tiêu diệt). Vế đối lại nhắc chuyện mấy lần quân dân Đại Việt đánh tan quân xâm lược Trung Quốc trên dòng Bạch Đằng, máu giặc chết nhiều đến nỗi đã làm nước sông đỏ ngầu. Vế đối lại của sứ thần Đại Việt đã làm cho Sùng Trinh bẽ mặt trước văn võ bá quan, nên hắn tức tối, cho người lấy đường nhét vào mồm và bôi lên mắt, rồi cho mổ bụng sứ giả để xem  “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc xảy ra ngay tại cung điện thiết triều  nhà Minh vào ngày mùng 2 tháng Sáu năm Kỷ Mão 1639. Tuy tức giận mà giết sứ giả, nhưng Sùng Trinh vẫn nể phục nhân cách khí tiết cứng cỏi của sứ giả, và sợ Đại Việt trả thù, nên sau đó đã cho ướp xác sứ giả bằng thuỷ ngân và cho hộ tống thi hài ông về nước. Vua Lê Thần Tông (trị vì 1619-1643) và chúa Trịnh Tráng (trị vì 1623-1657) đích thân đến bái kiến linh cữu ông và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh Quận công, ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ). Chỉ bấy nhiêu cũng đủ chứng tỏ các phái đoàn sứ bộ nước ta luôn thể hiện lòng trung quân ái quốc, chuộng nghĩa khí, với quyết tâm hoàn thành trọng trách của quốc gia giao phó. Ở đó đã thể hiện cái tôi trữ tình cùng chân dung tự hoạ của sứ giả - thi nhân.

Với các sứ thần triều Nguyễn như Lê Quang Định chẳng hạn, ông là một vị khai quốc công thần đã từng có câu thơ đầy tinh thần trách nhiệm của một người dân đối với đất nước, một đại thần bầy tôi đối với quân vương: “Phong sương tố thị nhân thần tiết,/ Kính lý ninh giao lưỡng mấn tinh” (Xông pha sương gió vốn là bổn phận của bầy tôi,/ Soi gương chớ ngại hai mái tóc mai điểm bạc. Hoa nguyên thi thảo)[16].

Từ giữa thế kỷ XIX về sau, trong bối cảnh các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á bị các nước phương Tây chiếm đóng thì nỗi niềm của các sứ giả nước ta khi đi sứ sang nhà Thanh ít nhiều có sự khác trước, mà phần lớn là những vần thơ cảm khái, mang nỗi ngậm ngùi với nỗi buồn u uẩn trong cảnh nước mất nhà tan khi đang mang trên hai vai trọng trách được triều đình giao phó. Đây là tâm sự của Bùi Văn Tự (Bùi Dị) khi đi qua kinh đô cũ của nhà Ân trong chuyến đi sứ năm 1876-1878:

Muội thổ thiên niên sự dĩ phi,/ Cố đô hoà khử tự y y.

Tam Nhân miếu tại dư tàn lệ,/ Thất Tác bi tồn ỷ lạc huy.

Trì thiện tửu không xuân thảo trướng,/ Đài hoang hoả lãnh túc yên phi.

Bất kham Mục Dã thành nam vọng,/ Độc thụ hàn nha sổ điểm quy.

(Việc ngàn năm trước ở Muội Thổ nay khác rồi,/ Lúa thử ở cố đô vẫn cứ mượt mà./  Miếu Tam Nhân còn lưu mấy giọt lệ hoen,/ Bia Thất Tác vẫn đứng trơ trong bóng chiều tà./ Áo nông, rượu chẳng còn, cỏ xuân mọc dài,/ Đài hoang, lửa tắt, khói cũ còn bay./ Lòng bồi hồi nhìn đất Mục Dã ở phía nam thành,/ Mấy con quạ lạnh lùng bay về phía cây đứng lẻ loi.)[17]        

Sứ thần Nguyễn Thuật trong chuyến đi sang nhà Thanh năm 1881 để cầu viện binh đánh Pháp, trong bối cảnh Nam kỳ lục tỉnh hoàn toàn bị mất vào tay Pháp, còn ở Trung Quốc thì các nước phương Tây chia nhau chiếm giữ một số khu vực, dù đã biết chuyến đi khó thành nhưng vẫn phải đi. Bài thơ Tức sự đã thể hiện tâm sự sau kín, chân thành mà thấm thía này của ông:

Tráng du nhân tận xỉ khinh phì,/ Dục hiệu thừa sà sự dĩ phi.

Viễn hải kinh khan ngưu mã cập,/ Đồng minh thuỳ niệm phụ xa y.

(Trong cuộc tráng du, mọi người đều thích cừu nhẹ, ngựa béo,/ Riêng ta cũng muốn bắt chước người cưỡi bè xưa, song sự việc nay đã khác rồi./ Nơi biển xa, giật mình thấy loài trâu ngựa mò đến,/ Bạn đồng minh, ai là người nghĩ tới việc dựa vào nhau như môi với răng.)[18].        

Ba là, bộc lộ nỗi niềm nhớ nước, nhớ quê hương, nhớ người thân.

Tâm trạng tư hương cố quốc luôn là tâm trạng thường trực trong tâm can của mỗi sứ giả trong những chuyến sứ trình xa xôi, gian khổ. 

Trên hành trình vạn dặm, Trịnh Hoài Đức với trách nhiệm là chánh sứ phải hoàn thành quân mệnh, quốc lệnh, thì ông cũng là con người bình thường như bao người. Nơi đất khách, ông nhớ vợ con, nhớ anh em, nhớ cảnh vật quê hương Trấn Biên. Bài Sứ hành thứ Quảng Đông thư hoài (Đoàn sứ bộ đến Quảng Đông, cảm nhớ mà viết):

Tinh thiều Việt địa ngột do huyền,/ Trình lộ gian nan tuế tự thiên.

Thê tử biệt lai tam duyệt tải,/ Đệ huynh vọng xứ nhất phương thiên.

Hoa minh Lộc Động hàm thu nguyệt,/ Liễu ám Dương Thành toả mộ yên.

Chẩm bạn hoán tinh hồ hải mộng,/ Thanh thanh hàn nhạn lạc cô thuyền.

(Xe sứ đến đất Quảng Đông, chốt còn treo,/ Chặng đường gian nan trình tự thời gian dời đổi./ Từ biệt vợ con đã trải qua ba năm,/ An hem mong ngóng một phương trời./ Hoa sáng Hố Nai ngậm ánh trăng thu,/ Liễu rợp thành Dương Châu ủ khói chiều./ Dựa gối gọi tỉnh mộng hải hồ,/ Từng tiếng nhạn kêu rét rơi vào chiếc thuyền côi.)[19]

Nhân tiết Hoa triêu (ngày 12 đến Rằm tháng Hai) nơi quê người, thấy hình ảnh người phụ nữ bán tằm ở chợ về, thấy trẻ con đuổi bướm trên con đường nhỏ trồng táo, Trịnh Hoài Đức lại nhớ đến người vợ thuở hàn vi đang tần tảo bệnh đau nơi quê nhà thật cảm động, trong khi bản thân thì đang lần lữa nơi dịch quán. Bài Lữ thứ hoa triêu:

 Dục tàm na phụ quy tang thị,/ Phốc điệp thuỳ nhi tẩu táo thiên.

Tinh sứ gian quan yêm dịch quán,/ Kinh thê bần bệnh cách phương thiên.

(Người đàn bà bán tằm ở chợ dâu về,/ Đứa trẻ nhà ai chạy đuổi bắt bướm trên con đường nhỏ trồng táo./ Sứ giả vất vả lần chần mãi nơi trạm dịch,/ Người vợ từ thuở hàn vi nghèo bệnh cách trở phương trời.) [20]

Còn đây là nỗi buồn nhớ nước trong buổi chiều hôm của sứ giả. Bài Đăng Trường Sa Củng Cực lâu lưu đề (Lên lầu Củng Cực ở Trường Sa lưu đề) của Trịnh Hoài Đức:

Đình bôi nhật mộ quy phàm viễn,/ Thi tứ tiêu tao cố quốc thu.

(Lúc chiều tối dừng chén rượu cánh buồm về xa tít,/ Thi tứ tiêu tao nghĩ đến mùa thu nơi nước cũ.)[21]   

Trong thời gian đi sứ trên đất khách quê người, gặp tiết trung dương (trùng cửu), sứ thần Lê Quang Định đành mượn hoa cúc vàng để khuây khoả nỗi nhớ quê. Cho nên nỗi niềm nhớ nước, nhớ quê hương bao giờ và luôn luôn cũng thường trực trong tim gan của con người xa xứ, cho dù con người ấy đang thi hành quốc mệnh. Bài Lữ trung trùng cửu:

Mạn tương hoàng cúc liêu hương tứ,/ Không bội thù du tịch viễn lao.

Bách cảm hữu thi giai khứ quốc,/ Thốn tâm vô quý thị đăng cao. 

(Tạm mượn hoa cúc vàng để khuây nỗi nhớ quê,/ Luống đeo cành thù du trừ bỏ nỗi gian lao đường xa./ Trăm mối cảm đều là thơ xa nước,/ Tấm lòng không thẹn thế là đã bước lên cao rồi.)[22]

Bốn là, thể hiện lòng nhân ái bao la và niềm đồng cảm của tác giả đối với những số phận bi kịch, những thân phận con người khốn khó trên đất nước bạn.

Nội dung này, người đọc thường bắt gặp nhiều trong những vần thơ vịnh sử trong các tập thơ đi sứ. Chẳng hạn, đây là tấm lòng của thi hào Nguyễn Du khi đến viếng mộ vị thi Thánh Đỗ Phủ ở Lỗi Dương, nằm ở phía đông nam huyện Hàm Dương, tỉnh Hồ Nam (đời Thanh, địa danh này thuộc phủ Hàng Châu). Bài Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ gồm hai bài bát cú trong Bắc hành tạp lục viết lúc đi sứ năm 1813-1814. Ở bài 1, Nguyễn Du đã tỏ lòng khâm phục và ngợi ca văn chương của Đỗ Phủ lưu truyền muôn đời và vị thi Thánh cũng là bậc thầy muôn đời. Đến viếng mộ vị thi Thánh, nhà thơ Việt Nam đã rơi lệ luống thương và tự hỏi rằng: phải chăng người cùng khổ là bởi thơ hay?: Thiên cổ văn chương thiên cổ sư, Bình sinh bội phục vị thường ly. (Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời,/ Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt.)

Và: Dị đại tương liên không sái lệ, Nhất cùng chí thử khởi công thi?. (Hai thời đại khác nhau, thương nhau, luống lơi lệ,/ Cùng khổ đến thế há phải bởi tại thơ hay?)

Đến bài 2, một lần nữa, Nguyễn Du nói lại ý trên qua cách biểu đạt khác: Cộng tiễn thi danh sư bách thế, Độc bi dị vực ký cô phần. (Ai cũng khen tài thơ đáng bậc thầy muôn thuở,/ Riêng ta buồn thương [ông] nơi đất khách gởi nấm mồ cô đơn).

Tấm lòng tri kỷ tri âm của hai vị đại thi hào sống cách nhau đúng một nghìn năm mươi năm thật đáng quý biết dường bao! Trên cõi đời này, có được mấy tấm lòng như thế? Những bài như Quá Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu hay bài Phản chiều hồn, Biện giả cũng cùng một niềm hoài cảm như thế của thi hào đối với người xưa[23].  

Bài Sở kiến hành bộc lộ lòng nhân ái mênh mông của Nguyễn Du khi chứng kiến hai cảnh đối lập: bên này là cảnh ba mẹ con khốn khó đói khát, sắp chết đến nơi; còn bên kia là cảnh tiệc tùng tại trạm dịch Tây Hà đêm hôm qua mà các quan lại địa phương chiêu đãi phái đoàn sứ bộ Đại Việt với mâm cỗ sang trọng thừa mứa, người dự tiệc chỉ nếm qua, nên đàn chó quanh xóm được một bữa no nê. Cuối cùng nhà thơ kết luận: “Ai vẽ bức tranh này, Dâng lên cho nhà vua rõ”[24].

Cuối thế kỷ XIX, sứ thần Nguyễn Thuật nhân chuyến đi sứ sang nhà Thanh năm 1881, đã viết tập Mỗi hoài ngâm thảo, trong đó có vài bài thể hiện niềm cảm thông những cảnh đời, những số phận cùng khổ của nông dân Trung Quốc, họ đã vất vả một nắng hai sương, giờ phải chịu thêm cảnh phu dịch sửa chữa đường sá cầu cống. Bài Dụ Châu đồ trung thứ Tử Liên vận:

Cổ tức không sơn luỹ,/ Yên sơ tích thổ hương.

Khả liên nông sự khổ,/ Phúc thử lý kiều hương.

(Núi non trùng điệp vắng lặng không tiếng trống,/ Vùng thôn quê khói nhạt đất cằn cỗi./ Thương thay việc nhà nông đã cực nhọc,/ Lại phải để bụng dạ với việc chỉnh sửa cầu đường này.)

Bài Hiếu cảm đồ trung (bài 1), nhà thơ - sứ giả mong ước nông dân có đời sống no đủ, qua hình ảnh cả một cánh đồng lúa tốt tươi xanh mướt, giàn dưa sau cơn mưa, dưới làn gió thổi:

Hảo vị điền gia trang hoạ bức, Qua bằng vũ hậu mạch huề giang.

(Khéo vẽ ra một bức tranh cho nhà nông,/ Giàn dưa sau cơn mưa, gió thổi trên ruộng lúa mạch).

Bài Đại Quảng Đường đăng thiếu ghi lại cảnh sinh hoạt bình yên nơi làng quê ven sông dưới bóng chiều tà với cảnh ông chài huấn luyện chim cốc để bắt cá thật thú vị:

Nông phố tạc tuyền thung thuỷ đối, Ngư tra tác võng phóng lô tư.

Nhân sinh dịch sứ cùng phi động, Thế lộ bình pha cạnh vụ trì.

Tiếu bạc sơn đường thư đệ miện, Tà dương lạc mộc hạ phân phi.

(Đồng ruộng đào mương chạy cối giã gạo bằng sức nước,/ Bè cá thẻ lưới bằng chim cốc để bắt cá./ Người ta sai khiến loài vật để mưu sinh thật vô cùng sống động,/ Đường đời bằng phẳng gập ghềnh tranh nhau rong ruổi./ Tạm dừng thuyền trên kênh giữa rừng thong thả ngắm,/ Ánh nắng chiều chiếu xuyên tua tủa dưới tán cây.)

Năm là, biểu lộ nét tinh tế, cảm hứng dạt dào trước những danh lam thắng cảnh trên đất Trung Hoa với một bút pháp tài hoa, chững chạc.

Đất nước Trung Quốc rộng lớn, có nhiều danh thắng mỹ lệ, nhiều núi non hùng vĩ, những cảnh vật ấy luôn là sức hút tạo ấn tượng và thi hứng cho các sứ giả - thi nhân. Chỉ tính riêng các danh thắng ở Hồ Nam như hồ Động Đình, lầu Nhạc Dương, sông Tiêu Tương (Tiêu Giang và Tương Giang), Tương Đàm, Trường Sa, Hồi Nhạn phong, chùa Nhạc Lộc… thì theo thống kê sơ bộ trong văn học cổ điển nước ta có đến 249 bài thơ viết về các danh thắng nơi vùng đất này của các tác giả: Nguyễn Trung Ngạn (13 bài), Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Đình Sách, Nguyễn Danh Dự, Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Mậu Áng, Nguyễn Kiều, Nguyễn Tông Quai, Đinh Nho Hoàn, Lê Quý Đôn (có Tiêu Tương bách vịnh gồm 100 bài thất ngôn tuyệt cú), Nguyễn Huy Oánh, Đoàn Nguyễn Thục, Hồ Sĩ  Đống, Đoàn Nguyễn Tuấn, Ngô Thì Nhậm, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Gia Cát, Ngô Thì Vị, Nguyễn Du (58 bài), Phan Huy Chú, Trịnh Hoài Đức (26 bài), Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh, Bùi Quỹ, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Địch Cát, Phan Thanh Giản… Thống kê sơ bộ như trên để thấy sức hút của cảnh vật Trung Hoa đối với các sứ thần Đại Việt.

Như danh thắng Hoàng Hạc lâu chẳng hạn. Đây là một thắng cảnh hữu tình thơ mộng nổi tiếng và đầy huyền thoại nằm bên bờ bắc dòng Trường Giang ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Từ khi thi hào Thôi Hiệu đến đây cất bút đề thơ thì địa danh này càng nổi tiếng nhiều hơn, cả khu vực đều biết. Bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu đã tái hiện hết những cảnh vật mỹ lệ nơi đây, đến nỗi mà vị thi Tiên Lý Bạch khi đến thăm không thể cất bút đề thơ được nữa. Ấy vậy mà, các thi nhân Việt Nam khi xưa, nhân đi sứ Trung Quốc có ngang qua và dừng lại tham quan, đã viết khoảng trăm bài thơ ca ngợi Hoàng Hạc lâu.

Nguyễn Du (1765-1820), trong Bắc hành tạp lục có bài Hoàng Hạc lâu nhắc lại chuyện thần tiên cưỡi hạc bay đi, nhắc lại giấc mộng Lư sinh và lời thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu với khói sóng mênh mang, để rồi nhà thơ tự nhủ lòng mình “cỏ cây thì vẫn y như xưa, tình cảm chan chứa chẳng biết ngỏ cùng ai, ngay cả trăng trong gió mát cũng không hiểu được lòng mình”:

Hà xứ thần tiên kinh kỷ thì, Do lưu tiên tích thử giang mi?

Kim lai cổ vãng Lư Sinh mộng, Hạc khứ lâu không Thôi Hạo thi.

Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu, Nhãn trung thảo thụ thượng y y.

Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố, Minh nguyệt thanh phong dã bất tri?

(Thần tiên ở đâu và trải qua bao đời rồi,/ Mà còn để dấu vết trên bến sông này?/ Cuộc đời xưa nay đều như giấc mộng chàng Lư,/ Còn lại lời thơ “Hạc bay, lầu trống” của Thôi Hiệu./ Ngoài lan can khói sóng còn mênh mang,/ Trước mắt cỏ cây vẫn y như xưa./ Mối tình cảm chan chứa biết ngỏ cùng ai,/ Trăng trong gió mát cũng không hiểu được)[25].

Còn trong bài Hán Dương vãn diểu thuộc tập Bắc hành tạp lục, Nguyễn Du miêu tả cảnh chiều muộn ở Hán Dương gần lầu Hoàng Hạc với vài chi tiết mà người đọc đã gặp trong thơ các bậc tiền bối. Trong bài thơ, Nguyễn Du đã nhắc lại vài chi tiết trong thơ của Thôi Hiệu, nhất là nỗi buồn nhớ quê trong buổi chiều tà, nhắc lại bài thơ của Lý Bạch viết về tiếng sáo trên lầu mà ở trên chúng tôi có giới thiệu qua (Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch), còn bây giờ, trước mắt thi nhân chỉ thấy rau tần trắng, lá liễu đỏ đầy bãi Anh Vũ:

Bá vương trần tích thuộc du du, Hán thuỷ thao thao trú dạ lưu.

Quy Hạc lưỡng sơn tương đối ngạn, Thần tiên nhất khứ chỉ không lâu.

Thi thành thảo thụ giai thiên cổ, Nhật mộ hương quan cộng nhất sầu.

Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ, Bạch tần hồng liễu mãn đình châu.

(Ngắm cảnh chiều ở đất Hán Dương. Dấu cũ bá vương đã thuộc về dĩ vãng xa xôi,/ Dòng sông Hán vẫn cuồn cuộn chảy đêm ngày./ Hai bên bờ núi Rùa, núi Hạc đứng đối nhau,/ Thần tiên đi rồi chỉ còn trơ lầu không./ Bài thơ làm xong, cây cỏ cũng được truyền thiên cổ,/ “Chiều tối nhớ hương quan”, ai ai cũng chung mối sầu đó./ Tưởng tượng đêm năm xưa có tiếng sáo thổi,/ Bây giờ chỉ thấy rau tần trắng, lá liễu đỏ, đầy bãi mà thôi)[26].

Trịnh Hoài Đức (1764-1825) viết bài Đề Hoàng Hạc lâu trong Cấn Trai quan quang tập miểu tả cảnh đẹp thơ mộng chung quanh lầu mà trong thơ của Thôi Hiệu đã nêu rõ, đến nỗi mà thi tiên Lý Bạch khi đến đây đã quăng bút chịu thua:

         Vũ Xương ký chí phản công xa, Hoàng hạc giang lâu túng mục sơ.

Miện thuỷ yên hoa khai bộ trướng, Ngạc châu vân vật trảo đình trừ.

Bồ trương phố viễn phàm quy khách, Mai lạc hồ bình địch xuý ngư,

Cuồng tử dục canh Thôi Hiệu cú, Thanh Hiên tiên dĩ hạ hàng thư.

(Đã dâng lễ vật xong đánh xe công trở về đến Vũ Xương,/ Lầu Hoàng Hạc bên sông được nhìn thấy lần đầu./ Cảnh sắc hoa khói đẹp đẽ nơi sông Miện Thuỷ, như bức rèm trướng mở ra,/ Cây cối xanh tươi bên bãi Ngạc Châu, như thềm sân được quét dọn./ Cỏ lau vươn lên, có thuyền khách trở về ngoài bến xa,/ Hoa mai rụng, người chài lưới thổi sáo làm mặt nước hồ phẳng lặng./ Chợt nảy ý ngông muốn nối tiếp vần thơ của Thôi Hiệu,/ Mà Lý Thanh Liên trước đây đã quăng bút chịu thua)[27].

Còn trong bài Anh Vũ châu (Cấn Trai quan quang tập), Trịnh Hoài Đức cảm nhận cảnh sắc tiêu điều hiu hắt lẫn vào dòng nước trong, ông còn nhắc đến vài nhân vật lịch sử như Tào Tháo, Nễ Hành với những bi kịch thất bại. Cuối cùng là nỗi buồn sầu xa xăm của lữ khách khi ngắm cảnh, buồn từ chủ thể sang khách thể, cỏ cây hoa lá cũng nhuốm một nỗi buồn:

Hoàng Hạc lâu nam Anh Vũ châu, Tiêu sâm yên cảnh nhập thanh lưu.

Thuý khâm (câm) kỳ đĩnh tây lai nhật, Hồng đậu hương dư vãn trác thu.

Nguỵ Vũ tâm lao thân tự nhục, Chính Bình tài dật thế nan đầu.

Đình kiêu tế dữ cư nhân đạo, Mạc cổ Ngư Dương thảo thụ sầu.

(Bãi Anh Vũ nằm ở phía nam lầu Hoàng Hạc,/ Cảnh sắc tiêu điều hiu hắt lẫn vào dòng nước trong./ Cổ áo màu xanh thật lạ lùng như ngày từ phương tây đến,/ Hạt đậu đỏ thơm tho cứ mổ trong chiều thu./ Tào Nguỵ Vũ (Tháo) nhọc lòng bày kế hại mà thân mình tự chuốc nhục,/ Nễ Chính Bình (Nễ Hành) tài cao nên khó hợp với người đời./ Dừng mái chèo, nói nhỏ với người dân sống nơi đây,/ Đừng gõ trống Ngư Dương khiến cây cỏ thêm sầu)[28].

Lê Quang Định có bài Đăng Hoàng Hạc lâu đề trong tập Hoa Nguyên thi thảo ghi lại vài cảnh sắc nơi đây, nhắc lại chuyện ông Lữ Động Tiên đắc đạo, chuyện bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu, rồi khép lại bằng nỗi nhớ đau đáu về trời Nam quê nhà thân yêu:

Hoàng hạc lâu đầu tượng ngoại khoan,/ Hán Dương thành quách nhiễu tình lan.  

Lữ Tiên tuý hậu trùng lai diểu (yểu),/ Thôi Hạo thi thành tái hoạ nan.

Trần mộng vị tinh (tỉnh) thanh thảo bạn,/ Hương tâm mỗi ký bạch vân đoan.

Hàn phi tích cổ Viêm tưu viễn,/ Nhân cảnh tao phùng hữu thử quan.

(Ngoài lầu Hoàng Hạc cảnh trời mênh mông,/ Thành quách Hán Dương sóng xanh bao phủ./ Tiên Lữ Động Tân sau khi say chẳng quay trở lại nữa,/ Thôi Hạo đề thơ rồi khó ai hoạ lại được./ Giấc mộng trần chưa tỉnh, bên bờ cỏ xanh xanh,/ Lòng quê hương thường gởi theo làn mây trắng./ Cánh chim đã bay cao, dấu xưa vẫn còn, ta từ miền Nam hẻo lánh đến,/ Người và cảnh gặp nhau mới có cuộc lên chơi lầu này)[29].

Phan Thanh Giản khi đến thăm lầu có viết bài Đăng Hoàng Hạc lâu trong phần Kim Đài thảo của tập Lương Khê thi thảo với những ghi chú cụ thể và chính xác giúp người đọc dễ hình dung vị trí cùng cảm nhận qua tưởng tượng vẻ đẹp mỹ lệ của lầu Hoàng Hạc, trước khi phóng bút qua tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:

Đăng Hoàng Hạc lâu

[Tại Hồ Bắc tỉnh thành tây nam. Giác lâu tam tầng, thượng phụng Phí Tiên, trung phụng Lữ Tiên cập Lư Sinh thuỵ tượng.]

Tích thời hạc dĩ hà niên khứ, Thiên tải nhân tòng Nam cực lâm.

Anh Vũ châu tiền phương thảo lục, Tình Xuyên các thượng bạch vân thâm.

Bán liêm lạc nhật phù Giang, Hán, Nhất phiến hàn lưu tống cổ kim.

Mãn mục yên ba chuyển trù trướng, Du du trần mộng thập thu tâm.

(Lên lầu Hoàng Hạc. [Lầu ở tây nam thành tỉnh lỵ Hồ Bắc. Lầu cao ba tầng, tầng trên thờ Phí Tiên, tầng giữa thờ Lữ Tiên và tượng Lư Sinh nằm ngủ.] Hạc ngày xưa đã bay đi từ năm nào,/ Con người cách nghìn dặm từ cực Nam đến thăm./ Trước mặt cồn bãi Anh Vũ cỏ thơm xanh đậm,/ Trên gác Tình Xuyên mây trắng từng lớp dày./ Ánh nắng soi vào nửa bức rèm làm sông Giang, sông Hán nổi lên,/ Một mảng sông lạnh lẽo chứng kiến mọi việc xưa nay./ Trước mắt khói sóng luân chuyển nỗi buồn (con người),/ Réo rắt hoài giấc mộng nơi quê nhà đã mười thu rồi.) [30]

Đến thăm lầu Hoàng Hạc, nếu Thôi Hiệu đã cảm nhận khung cảnh hữu tình thơ mộng qua các chi tiết “người xưa cưỡi hạc bay đi, người sau xây lầu để tưởng niệm, mây trắng ngàn năm vẫn bay, dòng Hán Dương lặng lờ soi bóng hàng cây, bãi Anh Vũ bời bời xanh mướt, nỗi nhớ quê trong buổi chiều tà khi nhìn khói sóng trên sông”, thì các sứ thần - thi nhân Việt Nam bên cạnh đã nhắc lại một vài chi tiết trong bài thơ của Thôi Hiệu, thì còn có những phát hiện những vẻ đẹp thơ mộng hữu tình của thiên nhiên nơi đây, với cách cảm thụ riêng, cách nhận thức và biểu đạt riêng như trên có điểm qua. Điều này đã chứng tỏ các nhà thơ Việt Nam thời trung đại đã có một bản lĩnh và một bút pháp thể hiện độc đáo, với tinh thần “bất tốn Hoa hạ”, chứ không ‘thúc thủ’ như vị thi Tiên Lý Bạch ở Trung Quốc đời Đường ngày xưa.

Có một điều đặc biệt thú vị và rất đáng lưu ý là, trong các thi tập sứ trình hầu hết được viết bằng chữ Hán thì trong văn học nước nhà lại có đến mấy tác phẩm bằng chữ Nôm. Các triều đại trước có: Đỗ Cận với Kim Lăng ký; Hoàng Sĩ Khải với Bắc sứ quốc ngữ thi tập Sứ trình khúc, rất tiếc là đã thất truyền; Nguyễn Tông Quai với Sứ trình tân truyện, có thể xem đây là một truyện ký bằng thơ Nôm đầu tiên về đề tài đi sứ. Riêng triều Nguyễn có Lý Văn Phức và Phan Huy Chú viết Sứ trình tiện lãm khúc.

Chuyện đi sứ là việc trọng trách, mang tính quốc gia đại sự, chính thống của triều đình, vậy mà các tác giả đã vượt khỏi những quy phạm ràng buộc chính thống ấy, để ghi lại cảm xúc, tả lại những gì mắt thấy tai nghe bằng tiếng Việt chữ Nôm, chứng tỏ các vị đã tự hào và yêu quý tiếng nói của dân tộc đến dường nào!

Lời kết

Trên đây là diện mạo và giá trị của thơ sứ trình triều Nguyễn trong văn học Việt Nam. Về diện mạo, trong tình hình tư liệu hiện nay, dù chúng tôi đã cố gắng tìm tòi tư liệu để trình bày một danh mục tương đối đầy đủ, nhưng có thể những gì đã liệt kê vẫn còn thiếu, rất mong các bậc thức giả bổ khuyết thêm.

Về giá trị của thơ bang giao, nhìn chung, các nhà ngoại giao, nhất là các vị sứ giả - thi nhân thường gởi gắm nỗi niềm tâm tư tình cảm của mình trên hành trình đi sứ xa xôi, đầy khó khăn gian khổ, với quyết tâm hoàn thành trọng trách lớn lao đối với đất nước và nhân dân mà triều đình đã giao phó. Bên cạnh những bài thơ mang tính xã giao, thù tạc khi xướng họa, ứng đối, tặng tiễn thì số còn lại đa phần là thơ tả cảnh, vịnh cảnh, vừa thể hiện nét tài hoa tinh tế, bộc lộ cảm hứng dạt dào yêu mến trước thiên nhiên tạo vật, vừa bộc lộ tâm sự nhớ quê hương, lại vừa phản ánh trách nhiệm đối với đất nước, thể hiện lòng tự hào về dân tộc, tự hào về văn hóa văn hiến Việt Nam, với tinh thần không chịu thua nhường Trung Quốc (bất tốn Hoa hạ).

Với ý nghĩa này, hy vọng trong một ngày gần đây, nếu có điều kiện, chúng tôi sẽ mở rộng đề tài để nghiên cứu sâu và rộng, có tính quy mô hơn khi so sánh dòng thơ đi sứ thế kỷ XIX trong văn học khu vực đồng văn Đông Á.

NCL

Tài liệu tham khảo

  1. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1979): Văn học Việt Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII, tập 2. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Hà Nội.
  2. Lê Quang Trường: Gia Định Tam gia trong văn học Hán Nôm Nam bộ, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, bảo vệ tại Trường Đại học KHXH&NV-ĐHQG TP.HCM, 2012. Phụ lục: bản thảo Gia Định tam gia thi. Lê Quang Trường dịch.
  3. Lê Thước và Trương Chính phiên dịch, chú thích (1978). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nxb Văn học. Hà Nội. in lần thứ 2.
  4. Mai Quốc Liên – Vũ Tuân Sán dịch nghĩa, chú thích (2015). Nguyễn Du toàn tập. Tập 2. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học – Nxb Văn học. TP.HCM.
  5. Nguyễn Công Lý (2018). Văn học Việt Nam thời Lê – Mạc, Nam Bắc phân tranh – Những vấn đề về khuyng hướng, thể loại, tác gia tiêu biểu. Nxb ĐHQG TP.HCM.
  6. Nguyễn Công Lý (2018). Sáng tác song ngữ Pháp – Hán, một hiện tượng độc đáo trong văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Tạp chí Nghiên cứu Văn học. Số 8-2018.
  7. 阮公理 (2019). 越南古典文學中的邦交詩:面貌與價值. Tạp chí Nghiên cứu Việt Nam. Quảng Tây học viện Khoa học Xã hội. 2-2019. www.ssap.com.cn
  8. Nguyễn Ngọc Nhuận (1996). Nghiên cứu và đánh giá văn bản thơ văn bang giao của Phan Huy Ích. Luận án Phó Tiến sĩ chuyên ngành Hán Nôm. Bảo vệ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
  9. Nguyễn Thế Long (2005). Bang giao Đại Việt. Tập 5. Triều Nguyễn. Nxb Văn hoá – Thông tin. Hà Nội.
  10. Nhiều tác giả (2000). Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 13, 14, 15, 16, 17. Nxb Khoa học xã hội. Tái bản. Hà Nội.
  11. Phạm Thiều - Đào Phương Bình (biên soạn, giới thiệu) (1993). Thơ đi sứ. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
  12. Phan Huy Chú (bản dịch, 1961). Lịch triều hiến chương loại chí. Tập 1, mục Nhân vật chí. Nxb Sử học. Hà Nội.
  13. Phan Huy Chú (bản dịch, 1961). Lịch triều hiến chương loại chí. Tập 4, mục Văn tịch chí, Bang giao chí. Nxb Sử học. Hà Nội.
    1. Phan Thị Minh Lễ - Chương Thâu biên soạn (2005). Thơ văn Phan Thanh Giản. Nxb Hội Nhà văn. Hà Nội.
  14. Quốc sử quán triều Nguyễn (bản dịch, 1960). Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Viện Sử học dịch. Nxb Sử học. Hà Nội. Nxb Giáo dục. Tái bản 1998.
  15. Trần Ích Nguyên (2017). Những phát hiện mới về thơ khắc dựng bia tại Trung Quốc của các sứ thần Việt Nam in trong tập Kỷ yếu HTKHQT, ngày 16, 17/11/2017 “Việt Nam giao lưu văn hoá tư tưởng Phương Đông”, Nguyễn Công Lý - Đoàn Lê Giang - Lê Quang Trường chủ biên, Nxb ĐHQG TP.HCM, 2017.
  16. Trịnh Hoài Đức – Ngô Nhơn Tĩnh – Lê Quang Định. Gia Định tam gia, Hoài Anh biên dich, chú giải (2003). Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
  17. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) - Trường Đại học Phúc Đán (Trung Quốc) (2010). 越南漢文燕行文獻集成 (越南所藏編). Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành (Việt Nam sở tàng biên). 25 quyển. Phúc Đán đại học xuất bản xã.
    1. Viện Văn học (1979). Thơ văn Lý - Trần. Tập 3. Nxb KHXH. Hà Nội. Tr 121-122.
  18. Viện Văn học (1981). Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến Trung Quốc xâm lược. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
  19. Viện Văn học (1988). Thơ văn Lý - Trần. Tập 2, Quyển thượng. Nxb KHXH. Hà Nội.

Ghi chú: Nghiên cứu này thuộc đề tài trọng điểm ĐHQG TP.HCM mã số B2020-18b-02 do PGS.TS. Lê Quang Trường làm Chủ nhiệm.

 


[1] Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1979): Văn học Việt Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII, tập 2. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Hà Nội. Từ năm 2000 về sau Nxb GD, in thành một tập và tái bản nhiều lần.

[2] Phạm Thiều - Đào Phương Bình (biên soạn, giới thiệu) (1993): Thơ đi sứ. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.

[3] Nguyễn Công Lý (2018): Văn học Việt Nam thời Lê – Mạc, Nam Bắc phân tranh – Những vấn đề về khuyng hướng, thể loại, tác gia tiêu biểu. Nxb ĐHQG TP.HCM.

[4] Phan Huy Chú (bản dich 1961): Lịch triều hiến chương loại chí. Viện Sử học, Nxb Sử học, Hà Nội,

[5] Nguyễn Thế Long (2005): Bang giao Đại Việt. Tập 5. Triều Nguyễn. Nxb Văn hoá – Thông tin. Hà Nội.

[6] Nguyễn Ngọc Nhuận (1996): Nghiên cứu và đánh giá văn bản thơ văn bang giao của Phan Huy Ích. Luận án Phó Tiến sĩ chuyên ngành Hán Nôm. Bảo vệ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

[7] Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) và Trường Đại học Phúc Đán (Trung Quốc) sưu tập và giới thiệu (2010). 越南漢文燕行文獻集成(越南所藏編) Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành (Việt Nam sở tàng biên) 25 tập. Phúc Đán đại học xuất bản xã.

[8] Xin xem: Nguyễn Công Lý (2018): Sáng tác song ngữ Pháp – Hán, một hiện tượng độc đáo trong văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Tạp chí Nghiên cứu Văn học. Số 8-2018.

[9] Theo thông tin của GS.TS. Trần Ích Nguyên trong buổi toạ đàm khoa học tại Trường ĐHKHXH&NV - ĐHQG TP.HCM sáng ngày 02/8/2017. Xin đọc thêm bài của Trần Ích Nguyên (2017): Những phát hiện mới về thơ khắc dựng bia tại Trung Quốc của các sứ thần Việt Nam in trong tập Kỷ yếu HTKHQT, ngày 16, 17/11/2017 “Việt Nam giao lưu văn hoá tư tưởng Phương Đông”, Nguyễn Công Lý - Đoàn Lê Giang - Lê Quang Trường chủ biên, , Nxb ĐHQG TP.HCM, 2017.

[10] Viện Văn học (1988). Thơ văn Lý - Trần. Tập 2 Quyển thượng. Nxb KHXH. Hà Nội. Tr 458.

[11] Viện Văn học (1979). Thơ văn Lý - Trần. Tập 3. Nxb KHXH. Hà Nội. Tr 121-122.

[12] Mai Quốc Liên – Vũ Tuân Sán dịch nghĩa, chú thích (2015). Nguyễn Du toàn tập. Tập 2. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học – Nxb Văn học. TP.HCM. Tr.374-375.

[13] Mai Quốc Liên – Vũ Tuân Sán dịch nghĩa, chú thích (2015). Nguyễn Du toàn tập. Tập 2. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học – Nxb Văn học. TP.HCM. Tr.415-416.

[14] Mai Quốc Liên – Vũ Tuân Sán dịch nghĩa, chú thích (2015). Nguyễn Du toàn tập. Tập 2. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học – Nxb Văn học. TP.HCM. Tr.487-488.

[15] Mai Quốc Liên – Vũ Tuân Sán dịch nghĩa, chú thích (2015). Nguyễn Du toàn tập. Tập 2. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học – Nxb Văn học. TP.HCM. Tr.483-485.

[16] Trịnh Hoài Đức – Ngô Nhơn Tĩnh – Lê Quang Định. Gia Định tam gia, Hoài Anh biên dich, chú giải (2003). Nxb Tổng hợp Đồng Nai.

[17] Phạm Thiều - Đào Phương Bình (biên soạn, giới thiệu) (1993). Thơ đi sứ. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.

[18] Phạm Thiều - Đào Phương Bình (biên soạn, giới thiệu) (1993). Thơ đi sứ. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội. Tr 506-507.

[19] Trịnh Hoài Đức – Ngô Nhơn Tĩnh – Lê Quang Định. Gia Định tam gia, Hoài Anh biên dich, chú giải (2003). Nxb Tổng hợp Đồng Nai. Tr 226-227.

[20] Trịnh Hoài Đức - Ngô Nhơn Tĩnh - Lê Quang Định. Gia Định tam gia, Hoài Anh biên dich, chú giải (2003). Nxb Tổng hợp Đồng Nai. Tr 248-249.

[21] Trịnh Hoài Đức - Ngô Nhơn Tĩnh - Lê Quang Định. Gia Định tam gia, Hoài Anh biên dich, chú giải (2003). Nxb Tổng hợp Đồng Nai. Tr  267.

[22] Trịnh Hoài Đức - Ngô Nhơn Tĩnh - Lê Quang Định. Gia Định tam gia, Hoài Anh biên dich, chú giải (2003). Nxb Tổng hợp Đồng Nai. Tr 645.

[23] Xin xem: Lê Thước – Trương Chính phiên dịch, chú thích (1978). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nxb Văn học, Hà Nội, in lần thứ 2.

[24] Xin xem: Lê Thước – Trương Chính phiên dịch, chú thích (1978). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nxb Văn học, Hà Nội, in lần thứ 2.

[25] Lê Thước – Trương Chính phiên dịch, chú thích (1978). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nxb Văn học, Hà Nội, in lần thứ 2. Tr. 327-329. 

[26] Lê Thước và Trương Chính phiên dịch, chú thích (1978). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nxb Văn học. Hà Nội. in lần thứ 2. Tr. 329-331. 

[27] Lê Quang Trường: Gia Định Tam gia trong văn học Hán Nôm Nam bộ, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, bảo vệ tại Trường Đại học KHXH&NV-ĐHQG TP.HCM, 2012. Phụ lục: bản thảo Gia Định tam gia thi. Lê Quang Trường dịch.

[28] Lê Quang Trường: Gia Định Tam gia trong văn học Hán Nôm Nam bộ, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, bảo vệ tại Trường Đại học KHXH&NV-ĐHQG TP.HCM, 2012. Phụ lục: bản thảo Gia Định tam gia thi. Lê Quang Trường dịch.

[29] Lê Quang Trường: Gia Định Tam gia trong văn học Hán Nôm Nam bộ, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, bảo vệ tại Trường Đại học KHXH&NV-ĐHQG TP.HCM, 2012. Phụ lục: bản thảo Gia Định tam gia thi. Lê Quang Trường dịch,

[30] Phan Thị Minh Lễ - Chương Thâu biên soạn (2005). Thơ văn Phan Thanh Giản. Nxb Hội Nhà văn. Hà Nội. Tr. 455-456.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7 (593)-2021, trang 3-18.

Tết này, mời bạn đọc một tìm tòi công phu và những phát hiện quý báu về nhiều tác phẩm bị quên lãng của nhà văn Nam Cao…

Những tác phẩm bị lãng quên 70 năm của nhà văn Nam Cao - Ảnh 1.

Trong hai năm 2020, 2021, khi khu vực tôi cư trú tại Hà Nội bị phong tỏa vì đại dịch COVID-19, ngày ngày ngồi trước máy tính, tôi bỗng nhận ra rằng, tính đến ngày 28-11-2021 (theo gia đình Nam Cao là ngày 30-11) là tròn 70 năm ngày nhà văn Nam Cao (1915 - 1951) hy sinh trên đường công tác.

Tôi bỗng nảy ra nhu cầu tìm hiểu lại xem, di sản ngòi bút của nhà văn Nam Cao đã được thu nhận, đưa vào các sưu tập, tuyển tập, giới thiệu với công chúng ra sao? 

Liệu tất cả những gì từng được sinh ra dưới ngòi bút nhà văn đã được hậu thế chúng ta thu lượm, tái công bố cho công chúng hết chưa? 

Kinh nghiệm làm nghiên cứu cho tôi thấy, ở Việt Nam, công việc sưu tầm di sản sáng tác của các tác gia đã quá cố rất ít khi được thực hiện chu đáo, chưa kể những thiếu hụt rất lớn về tư liệu sách báo lưu trữ.

Người ta biết: Cuối năm 1951, Nam Cao hy sinh. Năm 1956 truyện dài Sống mòn (viết 1944, bản thảo viết tay của Nam Cao do Tô Hoài cung cấp) được đưa in. 

(Thật ra, đây là một việc đã trù định từ trước kháng chiến, chứng cứ là trên bìa 4 tạp chí Tiên Phong của Hội VHCQ số 21, ngày 16-10-1946, đã quảng cáo sắp in tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao).

Nhưng không rõ bản thảo Sống mòn được quản lý ra sao mà ngay những năm 1960, một chuyên gia Liên Xô là N. Nikulin đến Hà Nội, muốn làm rõ một số từ ngữ dị bản mà ông thấy trên bản in so với trang bản thảo được chụp ảnh in ở ngay đầu sách Sống mòn

Đã không ai trong giới nhà văn ở Hà Nội có thể giúp được học giả Nga này (tức là sau khi in sách lần đầu, bản thảo Sống mòn đã bị thất lạc, mà đây là bản viết tay của chính tác giả).

Nam Cao thuộc trong số tác gia đầu tiên tham gia cách mạng và kháng chiến được hưởng quy chế làm tuyển tập tác phẩm, ngay trong thời bao cấp. Lần lượt đã có những tuyển tập Nam Cao, được biên soạn bởi Hà Minh Đức (1975), Phong Lê (1987); các bộ tuyển này sau đó được in lại nhiều lần.

Những tác phẩm bị lãng quên 70 năm của nhà văn Nam Cao - Ảnh 2.

Năm 1988, tạp chí Tác Phẩm Văn Học của Hội Nhà văn Việt Nam và Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của hội cho in sưu tập Những cánh hoa tàn gồm trên dưới một chục truyện ngắn Nam Cao chưa từng có trong hai bộ tuyển tập kể trên; đây vốn là những truyện Nam Cao do nhà giáo Nguyễn Hoành Khung sưu tầm dùng làm tài liệu giảng dạy trong nhiều năm. 

Đầu thế kỷ XXI lại xuất hiện bộ Toàn tập tác phẩm Nam Cao (Hà Minh Đức biên soạn, NXB Công An Nhân Dân, tập 1 năm 2002, tập 2 năm 2004).

Thế nhưng trong các bộ "tuyển tập", "toàn tập" kể trên vẫn thiếu vắng khá nhiều tác phẩm mà Nam Cao sinh thời từng viết và đăng báo!

Ngay truyện dài Truyện người hàng xóm của Nam Cao, đăng tuần san Trung Bắc Chủ Nhật (từ số 197, ngày 2-4-1944 đến số 220, ngày 17-9-1944) cũng không thấy tái bản thành sách riêng; chỉ có một vài đoạn trích được đưa vào một vài bộ tuyển. 

Chưa kể 4 cuốn truyện dài (Cái bát, Một đời người, Cái miếu, Ngày lụt) mà được biết, Nam Cao đã bán đứt bản thảo cho (một vài) chủ xuất bản, và mất hẳn bản thảo.

Đối với tên tuổi Nam Cao, người ta sẵn sàng truy phong các danh hiệu, truy tặng các giải thưởng, cho lập nhà lưu niệm; nhưng tác phẩm thì không biết là phó mặc cho ai. Giới nhà văn, giới nghiên cứu chừng như đều "cầm lòng vậy" trước tình trạng dở dang về di sản chữ nghĩa của tác gia này.

Một số nỗ lực kiểm kê trong các cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao (nhiều tác giả, Viện Văn học và Hội Văn học nghệ thuật Nam Hà đồng chủ trì biên soạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1992), Nam Cao - Về tác gia và tác phẩm (Viện Văn học chủ trì, Nguyễn Bích Thu biên soạn, sách in 1998) chỉ có thư mục nghiên cứu, không có thư mục tác phẩm Nam Cao. 

Hai công trình này đều chưa vượt được những kê biên và dẫn giải của nhóm soạn giả Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A (Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Dung, Trần Hữu Tá) hồi những năm 1980, dù những kê biên trong đó chưa đầy đủ, thậm chí bỏ qua những thứ chỉ được ghi chung chung "và một số truyện thiếu nhi".

Quả thật, quanh tên tuổi Nam Cao, người ta thấy đã có sẵn mấy cái tên sáng giá: Tô Hoài, Hà Minh Đức, Phong Lê. Vậy nên, hễ cần biết gì đó liên quan tiểu sử Nam Cao, các nhà báo bèn đến hỏi người bạn văn của ông là Tô Hoài; hễ cần biết gì đó liên quan tác phẩm Nam Cao, các nhà báo bèn hỏi Hà Minh Đức, tác giả cuốn nghiên cứu đầu tiên về Nam Cao (1961) hoặc Phong Lê, là một trong số những chuyên gia hàng đầu của Viện Văn học về Nam Cao. Rút lại, độc giả chỉ có được những dữ liệu ngày càng chung chung.

Thế nên, trong thực chất, chúng ta đang bỏ quên Nam Cao, hoặc ít nhất cũng quên rằng hậu thế chúng ta chỉ mới biết được một phần cái thế giới ngôn từ chữ nghĩa mà nhà văn này sáng tạo ra. Người ta chỉ nhặt ra vài đoạn tác phẩm Nam Cao để dạy học trò phổ thông.

Những tác phẩm bị lãng quên 70 năm của nhà văn Nam Cao - Ảnh 3.

Có lẽ Nam Cao bắt đầu viết văn khi đang làm thư ký hiệu may Ba Lễ ở Sài Gòn. Tuy nhiên, những trang viết của Nam Cao được đăng báo lần đầu có lẽ không phải trên một tờ báo nào tại Sài Gòn, mà chính là trên báo chí ngoài Bắc, tại Hà Nội.

Theo những dữ liệu của nhóm soạn giả tập 30A Tổng tập văn học Việt Nam, những năm 1936 - 1940, Trần Hữu Trí (dưới các bút danh Thúy Rư, Nguyệt, Xuân Du) đã có thơ, truyện ngắn, kịch ngắn đăng trên những ấn phẩm ra hằng tuần như Tiểu Thuyết Thứ Bảy và Ích Hữu của nhà sách Tân Dân (chủ nhiệm Vũ Đình Long, trụ sở 93 Hàng Bông, Hà Nội); đôi khi đưa đăng tuần báo Hà Nội Tân Văn (sáng lập: Vũ Đình Dy, chủ bút: Vũ Ngọc Phan).

Năm 1941, tập truyện Đôi lứa xứng đôi, ký tên tác giả là Nam Cao, được in thành sách riêng tại Nhà xuất bản Đời Mới (Hà Nội). Đây là cuốn sách in đầu tiên của tác giả này. Từ đấy bút danh Nam Cao được sử dụng như bút danh chủ yếu của Trần Hữu Trí.

Hàng mấy chục truyện ngắn đăng Tiểu Thuyết Thứ Bảy, liền trong các năm 1941 đến 1944, khiến uy tín ngòi bút Nam Cao tăng lên. 

Một vài tay bút đàn anh như Lê Văn Trương, Vũ Bằng đã sớm nhận ra và đánh giá cao tài năng của nhà văn trẻ này, nhưng dư luận xã hội khi ấy đang ngợp trong những âu lo dồn dập theo diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai; các thông tin dư luận văn nghệ cố nhiên bị chìm đi.

Phần lớn các truyện ngắn Nam Cao mà hiện nay đã rất phổ biến, là có nguồn từ Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Đây là một ấn phẩm văn học in dấu nhiều tên tuổi, nhiều đoạn đường văn học sử, khởi đầu từ năm 1934 (số 1 ra ngày 2-6-1934), chưa rõ kết thúc lúc nào (có người cho biết, đến năm 1955 tờ này còn hoạt động). 

Các ghi chép thống kê tác phẩm Nam Cao ở Tổng tập văn học Việt Nam tập 30A chủ yếu cũng là từ Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Song, chính các sưu tập Tiểu Thuyết Thứ Bảy tại các kho lưu trữ, thư viện hiện đều ở tình trạng thiếu thốn.

Về série Truyền Bá (cũng được gọi là tuần báo) của nhà sách Tân Dân, theo một bản kê sơ bộ từ 25-8-1941 đến 20-9-1945, ra được 190 kỳ, trong đó tác phẩm Nam Cao mà tôi mới tìm lại được là: Người đàn bà nuôi rắn (số 153, ngày 9-11-1944); Áo vải (số 170, ngày 29-3-1945); Người câm biết nói (số 184, ngày 9-8-1945).

Hiện vẫn còn những tác phẩm Nam Cao trong série này chưa tìm thấy văn bản: Hoàng hậu Yết-Tê (số 157, ngày 7-12-1944); Thằng khờ (số 163, ngày 25-1-1945); Anh cóc kệu (số 179, ngày 5-7-1945); Người Mường (số 189, ngày 13-9-1945).

Loại sách Hoa Mai của Nhà xuất bản Cộng Lực thì hiện chưa thấy ai khảo sát thống kê. Căn cứ các trang quảng cáo in trong các tập sách Hoa Mai hiện còn, ta có thể biết rằng série sách này bắt đầu xuất bản trong tháng 9-1941, mỗi tháng ra 2 cuốn, thường là vào các ngày 1 và 15. 

Những tác phẩm Nam Cao in trong loại  sách này đã tìm thấy và đưa vào sưu tập Những cánh hoa tàn (Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới, 1988) là Nụ cười (HM. 6, ra ngày 1-12-1941); Người thợ rèn (HM. 23, ngày 1-10-1942).

Những tác phẩm bị lãng quên 70 năm của nhà văn Nam Cao - Ảnh 4.

Những tác phẩm Nam Cao in trong loại sách Hoa Mai tôi mới tìm thấy (2021) là Con mèo mắt ngọc (HM. 10, ngày 1-2-1942); Ba người bạn (HM. 13, ngày 1-5-1942); Những trẻ khốn nạn (HM. 17, ngày 1-7-1942, và HM. 18, ngày 15-7-1942); Bảy bông lúa lép (HM. 40, ngày 1-2-1944).

Một số tác phẩm của Nam Cao in sách Hoa Mai nhưng hiện chưa tìm thấy văn bản là: Đầu đường xó chợ (HM. 27, khoảng tháng 11-1942; là phần truyện tiếp theo Những trẻ khốn nạn); Phiêu lưu (HM. 34, ngày 15-12-1942). Tập truyện Nửa đêm của Nam Cao cũng do nhà Cộng Lực xuất bản (1943) nhưng không nằm trong loại sách Hoa Mai.

Một tư nhân làm xuất bản khác là Phùng Văn Hợp ở số 40 Hàng Đồng, Hà Nội, đã dựa vào tác phẩm của Nam Cao để mở đầu loại sách Bọ Ngựa của mình. 

Cuốn truyện Đảo Hang Cọp của Nam Cao được ghi tên thể loại là "truyện phiêu lưu" (bìa 1 có tên Nhà xuất bản Éditions Bách Việt; bìa 4 ghi giấy phép in số 268 ký ngày 2-10-1942) dường như mở đầu cho loại sách này. Hiện không có tư liệu để biết hoạt động tiếp theo của série sách này ra sao.

Một loại ấn phẩm tương tự nữa mà Nam Cao tham dự, là Nhi Đồng Họa Bản của nhà sách Kiến Thiết, ở số 4bis, Borgnis Desbordes (Tràng Thi, Hà Nội). Chưa có tư liệu để biết chừng trên 10 kỳ đầu của série Nhi Đồng Họa Bản này ra sao; chỉ biết số 12 và số 13 in truyện Thám hiểm châu Phi của Nam Cao, dường như in và phát hành cùng lúc cả hai tập (bút tích nộp lưu chiểu ghi cùng ngày 28-10-1942). 

Chủ xuất bản dàn trang theo hình thức báo chí: trang 2 (bìa 2) và khoảng 3-4 trang cuối là một truyện rất ngắn của tác giả khác, một vài trang tranh đố và giải đố, còn lại hầu hết các trang ruột đều dành cho Thám hiểm châu Phi của Nam Cao.

Những văn bản tác phẩm này được lưu giữ từ nguồn sách nộp lưu chiểu mà chính quyền thực dân Pháp đưa thành quy chế thi hành tại Đông Dương từ năm 1922. Ngoài số bản lưu tại Thư viện Trung ương ở Hà Nội (nay là Thư viện Quốc gia Việt Nam), mỗi tên (titre) sách báo nộp lưu chiểu đều được gửi ít nhất 1 bản (exemplaire) sang Thư viện Quốc gia Pháp tại Paris. 

Vài năm gần đây, Thư viện Quốc gia Pháp đã đưa lên mạng các bản PDF sách chữ Việt nộp lưu chiểu trước 1954 hoặc trước 1945, tạo thuận lợi đáng kể cho giới nghiên cứu và những bạn đọc quan tâm.

Toàn bộ 9 tác phẩm của Nam Cao mới tìm lại được văn bản kể trên, đều lấy từ nguồn của Thư viện Quốc gia Pháp (trang Gallica.bnf.fr).

Trong số ấn phẩm thuộc Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam (1943 - 1947), lưu trữ tại Thư viện Quốc gia ở Hà Nội, có một số cuốn in tác phẩm Nam Cao. Cuốn Năm anh hàng thịt (1945) thuộc tủ sách "Gương chiến đấu"; cuốn Căm hờn (của nhiều tác giả trong Hội Văn hóa cứu quốc), có bài Một cuộc đốt làng của Nam Cao. Đây là hai tác phẩm chưa từng được in lại, cũng chưa từng được đưa vào cuốn tuyển nào.

Như vậy, có thể nói, mặc dù các tác phẩm đã được làm thành tuyển tập, toàn tập một vài lần, song tác gia Nam Cao vẫn còn khá nhiều tác phẩm đã từng đăng báo trong sinh thời ông, nhưng đến nay vẫn chưa được tìm lại, chưa được đưa vào các sưu tập.

Những tác phẩm bị lãng quên 70 năm của nhà văn Nam Cao - Ảnh 5.

Vậy những văn bản tác phẩm mới tìm lại này có giá trị ra sao? Có được như những tác phẩm đã biết của Nam Cao? Tôi có thể đáp ngắn gọn: những gì thuộc ngòi bút Nam Cao luôn luôn mang đặc trưng của lối viết Nam Cao.

Tôi cũng quê Hà Nam, cùng tỉnh với Nam Cao. Lần này đọc lại văn ông, tôi càng nhận rõ là Nam Cao đưa khá nhiều phương ngữ Hà Nam, hay rộng hơn, phương ngữ vùng Sơn Nam hạ, tức vùng cư dân phía nam đồng bằng sông Hồng, vào lời văn kể chuyện, thậm chí cả văn tùy bút, bút ký. 

Đây chính là một đặc điểm về lời văn của những nhà văn có xu hướng miêu tả phong tục. Không chỉ mô tả ngoại hình, hành vi nhân vật, nhà văn kiểu này còn chú ý lắng nghe giọng nói của nhân vật, và trong lối viết, gắng làm cho công chúng, chừng nào đó, cũng nghe ra sắc thái giọng nói các nhân vật.

Nếu so sánh với những truyện ngắn đã phổ biến, tức là hầu hết những truyện ngắn Nam Cao đăng Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thì các tác phẩm mới tìm lại là "truyện" (với hàm nghĩa "truyện vừa" chứ không phải "truyện ngắn"), dung lượng mỗi truyện khoảng 5.000 - 7.000 từ hoặc dài hơn.

Vẫn theo hướng miêu tả phong tục, song nếu ở các truyện ngắn đăng Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Nam Cao có không ít trang nhấn vào những cảnh ngộ đói khổ, những thói tật của con người, nhất là tật xấu của "người nhà quê", thì ở các truyện đưa đăng các loại sách série Hoa Mai hay Truyền Bá, ông hướng tới những nét tính cách lạ, hay, đáng khen của con người, đôi lúc như để nêu gương, tuy không quá khiên cưỡng. 

Ngòi bút Nam Cao như không ngại kiểu truyện luận đề, bởi biết thuyết phục bằng những trải nghiệm thực. Ta sẽ thấy rõ điều này qua truyện Áo vải (tuần san Truyền Bá, số 170, ngày 29-3-1945).

Truyện Ba người bạn (sách Hoa Mai, số 13, tháng 5-1942) cũng vậy. Ở truyện này dường như có dấu vết kỷ niệm thời tác giả từ làng quê Đại Hoàng ra Nam Định học cao đẳng tiểu học.

Trên đề tài nông thôn, ở loạt tác phẩm mới tìm lại được này, tôi đặc biệt đánh giá cao hai tác phẩm: truyện Những trẻ khốn nạn (sách Hoa Mai số 17 và số 18, tháng 7-1942) và truyện Áo vải (Truyền Bá, tháng 3-1945).

Những tác phẩm bị lãng quên 70 năm của nhà văn Nam Cao - Ảnh 6.

Có thể thấy Nam Cao dự kiến sơ đồ một loạt truyện trải dài theo không gian và thời gian, nối một làng quê Bắc Kỳ (như làng Đại Hoàng quê tác giả) với các đô thị Nam Định, Sài Gòn, những năm 1930 - 1940, dù mỗi lần chỉ đưa ra khá ít nhân vật.

Đây là chuyện một gia đình nghèo, chồng phải vào tận Sài Gòn làm ăn; một ngày kia người vợ được tin chồng ốm nặng, có thể chết. Chị phải bán hết thửa đất và ngôi nhà, bán cả đứa con trai lớn cho một điền chủ hiếm con trong làng, bế đứa con mới đẻ lên tàu hỏa vào Sài Gòn thăm nuôi chồng. 

Câu chuyện được kể từ cảm nhận của Tích, nhân vật chính của truyện, cậu bé chừng sáu, bảy tuổi. Bị bán làm con nuôi bà lý, Tích phải chịu đựng những trò chơi quái ác của thằng Ấu, con bà chủ. Bọn trẻ nghèo chơi với nhau, cùng nhau đối phó với thằng Ấu. 

May cho Tích, một ngày kia có người được bố mẹ nó từ Sài Gòn nhờ đem tiền về chuộc nó ra khỏi nhà chủ, đưa vô Sài Gòn với bố mẹ. Truyện Những trẻ khốn nạn chấm dứt ở đấy, nhưng tiếp theo, ở cuốn Đầu đường xó chợ (sách Hoa Mai s. 27, hiện chưa tìm thấy văn bản), Tích vô Sài Gòn với bố mẹ, rồi phải sống với những trẻ khốn khổ của phố phường, dưới bàn tay chỉ huy tàn nhẫn của một tên ăn mày cho vay nợ lãi.

Đọc Những trẻ khốn nạn có thể cảm nhận một lòng thương vô hạn Nam Cao dành cho những đứa trẻ nhà nghèo; chúng không chỉ mất cha mẹ, thất học, ăn đói mặc rách, mà còn bị bắt làm việc quá sức, bị hành hạ, đánh đập. Ông cũng cho thấy những nết tốt ở các em: sự trung thực, tình thương bạn trẻ cùng cảnh ngộ, lòng căm ghét những kẻ áp chế người khác.

Có thể tìm thấy ở truyện này những đoạn văn tuyệt tác về tình mẫu tử, ví dụ đoạn ba mẹ con trong đêm ly biệt, một cảnh "vừa êm đềm vừa đau đớn". Đoạn văn này dưới tay bút Nam Cao tôi cho là xuất sắc hơn hẳn đoạn văn tả chị Dậu với đứa con bị bán cùng đàn chó, dưới tay bút Ngô Tất Tố trong Tắt đèn. Thiết nghĩ, đoạn văn này rất xứng đáng được sử dụng làm bài giảng văn cho học trò.

Truyện Áo vải (tuần báo Truyền Bá, số 170, ngày 29-3-1945) lại bộc lộ cái nhìn thiện cảm đầy trân trọng của Nam Cao đối với "người nhà quê". Không khí chiến tranh thế giới lan đến xứ này, các thành phố lớn như Hải Phòng bị ném bom, dân thành phố chia nhỏ gia đình, tản cư về các vùng quê. Bà Hoan Ký từ Hải Phòng đưa hai con về gửi nhà chị cu Thiêm - vú em nhà bà ngày trước - ở một làng quê xa, cho hai con đi học trường làng với con chị, quen dần với cuộc sống làng quê. 

Những lời này của bà Hoan Ký chứa đựng sự khẳng định của tác giả: "Tôi cho chúng nó về đây, là để chúng nó nếm qua cái vị nhà quê, kẻo chúng nó quen ăn ngon mặc lành mãi, không biết rằng còn có những người ăn đói mặc rách, khổ sở như thế nào. Với lại cũng để cho chúng nó được gần gũi một ân nhân của mẹ chúng nó xưa, một con mẹ nhà quê chỉ mặc áo vải suốt đời, nhưng còn đáng trọng bằng mười kẻ mặc lụa là gấm vóc".

Truyện Áo vải của Nam Cao còn như báo trước sự trải nghiệm của những "thị dân xã hội chủ nghĩa" sơ tán về các vùng thôn quê hợp tác xã ở miền Bắc, những năm 1964 - 1975!

Những tác phẩm bị lãng quên 70 năm của nhà văn Nam Cao - Ảnh 7.

Sách trong các série Hoa Mai, Bọ Ngựa, Truyền Bá, Nhi Đồng Họa Bản đều nhắm đến độc giả niên thiếu. Can dự sách văn học ở khu vực thể tài ấy, ngòi bút Nam Cao không chỉ mô tả, thể hiện đời sống đương thời ở làng quê, mà còn mở rộng khả năng sáng tác của mình sang các phạm vi khác: viết mới truyện cổ tích, viết truyện phiêu lưu, truyện hình sự…

Con mèo mắt ngọc (sách Hoa Mai, số 10, Tết 1942) là một sáng tác cổ tích đặc sắc, một kiểu truyện Tấm Cám được viết mới lại. Ở truyện này, Nam Cao tự chứng tỏ không chỉ nắm vững và giỏi vận dụng các mô típ truyện cổ tích, mà còn dám và biết đưa vào tác phẩm những yếu tố của tự sự kiểu tiểu thuyết.

Các truyện Đảo Hang Cọp (sách Bọ Ngựa, tháng 10-1942), Thám hiểm châu Phi (Nhi Đồng Họa Bản, số 12 và 13, tháng 10-1942) đều là truyện phiêu lưu, tuy Đảo Hang Cọp là truyện hư cấu, còn Thám hiểm châu Phi lại là chuyện thực về các nhà thám hiểm Anh Mỹ, trong đó Nam Cao đã dùng nhân vật thiếu niên làm điểm tựa trần thuật cho câu chuyện, miêu tả chuyến thám hiểm vùng hồ Victoria ở Đông Phi vào năm 1875 của Henry Morton Stanley (1841 - 1904), cho thấy hiểu biết sâu rộng, chi tiết của Nam Cao về địa lý lịch sử.

Những tác phẩm bị lãng quên 70 năm của nhà văn Nam Cao - Ảnh 8.

Đọc tác phẩm này của Nam Cao, ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy, về sau, trong mấy năm làm báo Cứu Quốc ở chiến khu Việt Bắc, Nam Cao đã dành thời gian cùng một số người khác biên soạn một loạt cuốn sách giáo khoa địa lý (châu Âu, châu Á, châu Phi, địa lý Việt Nam), được in lại nhiều lần.

Cuốn Bảy bông lúa lép (sách Hoa Mai, số 40, tháng 2-1944) chỉ gồm ba đoạn rút từ kinh Thánh. Ta biết, gia đình Nam Cao vốn theo Công giáo. Cuốn sách cho thấy Nam Cao không chỉ là một giáo dân như mọi giáo dân, mà còn là một nhà văn, một trí thức Công giáo. 

Cuốn sách còn dành 10 trang cuối nói về "Nước Việt Nam về thời thượng cổ", rút từ sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim. Như vậy, ta có thể nhận xét, Nam Cao đã đem ý thức về tôn giáo của mình và gia đình mình gắn với ý thức về dân tộc mình, Tổ quốc mình.

Có thể thấy rõ, ở di sản sáng tác của Nam Cao, bên cạnh số truyện ngắn, tiểu thuyết đã và đang được lưu hành, vẫn còn một số lượng đáng kể những tác phẩm có nguy cơ mất hẳn, dù đã được công bố trên sách báo ngay lúc tác giả còn sống. 

Sưu tập này chỉ mới tìm lại thêm được một số sáng tác của Nam Cao, chủ yếu là những truyện ông đã viết và in trong các loại sách phổ thông dành cho tuổi học trò của một số nhà sách ở Hà Nội những năm 1940 - 1945. 

Những sáng tác này có thể bổ sung cho công chúng độc giả những nét chưa biết đến về phạm vi miêu tả, khả năng sáng tác của nhà văn Nam Cao, hoặc làm sâu sắc hơn những nét đã từng biểu lộ rõ ở những sáng tác đã biết.

Việt Nam hiện vẫn không hiếm những trường hợp tác gia văn học các giai đoạn khác nhau mà di sản sáng tác bị mai một, không đến được với công chúng độc giả và giới sáng tác, phê bình. 

Những mất mát ấy không chỉ là tổn thất riêng của các tác gia đã quá cố và thân nhân họ, mà còn là mất mát, thiệt thòi chung cho công chúng độc giả, cho tài sản văn học chung của dân tộc. 

Những tác phẩm bị lãng quên 70 năm của nhà văn Nam Cao - Ảnh 9.

____________________________________________________________________________________

(*) Những kết quả khảo sát này được soạn thành một sưu tập, lấy tên một truyện là Người câm biết nói để gọi tên (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2021).

LẠI NGUYÊN ÂN

NGỌC THÀNH

Nguồn: Báo Tuổi trẻ

TTO - Thêm một nhà văn vừa ra đi vì COVID-19, nhà văn Nguyễn Quốc Trung - một người lính cầm bút - giã biệt đồng đội và đồng nghiệp lúc 13h50 ngày 10-9 tại Quân y viện 175 TP.HCM.

20210910

Nhà văn Nguyễn Quốc Trung

Trên trang cá nhân, nhà văn Bích Ngân - chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM - dẫn thông tin từ nhà văn, đại tá Đào Văn Sử cho hay nhà văn Nguyễn Quốc Trung đã mất.

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều - chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - cũng cho hay vào ngày 31-8 khi nhập viện, nhà văn Nguyễn Quốc Trung có nhắn tin cho ông. 

"Một tin nhắn thực sự sốc cho dù những ai ở Sài Gòn trong những ngày tháng này luôn phải đối mặt với nguy cơ nhiễm COVID-19", ông Nguyễn Quang Thiều chia sẻ.

"Tôi gọi điện cho nhà văn Nguyễn Quốc Trung thì được anh cho biết: anh đã tiêm vắc xin lần 1 và hôm qua là ngày anh đi tiêm lần 2 nhưng lại thấy bị sốt. Các bác sĩ khám cho anh và kết luận anh đã bị nhiễm COVID-19 và phải nhập viện ngay.

Nhà văn Nguyễn Quốc Trung hơn tôi một tuổi (sinh năm 1956). Anh là người lính đã tham gia cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam chống lại chế độ diệt chủng Pol Pot man rợ. Rồi từ cuộc chiến tranh ấy, anh đã cầm bút và trở thành nhà văn.

Nói chuyện với anh mấy chục phút trước đây, tôi nghe giọng anh đầy mạnh mẽ và ý chí. Tôi tin anh sẽ đi qua cuộc chiến trong thời bình này với ý chí của một người lính", nhà văn Nguyễn Quang Thiều viết trên Facebook của mình ngày 31-8.

Nhà văn Nguyễn Quốc Trung sinh năm 1956 tại Sơn Ninh, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông học hết phổ thông thì gia nhập quân đội, rời quê hương vào chiến trường từ năm 1974. Nguyễn Quốc Trung là người lính thuộc Sư đoàn 341 chủ lực do Tư lệnh Trần Văn Trân chỉ huy tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975.

Đất nước thống nhất chưa được bao lâu, chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ, Nguyễn Quốc Trung sớm có mặt nơi tuyến đầu, sang Campuchia làm nghĩa vụ quốc tế. Ông còn cùng đồng đội lưu lại giúp nhân dân nước bạn tiếp tục bảo vệ hòa bình, khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng lại xứ sở chùa tháp.

Nhà văn Nguyễn Quốc Trung từng có truyện Những tia chớp phía chân trời được trao giải nhất cuộc thi truyện ngắn của báo Sài Gòn Giải Phóng năm 1982, thể hiện mối tình đẹp cảm động của một người lính biên giới với cô thanh niên xung phong giữa hoàn cảnh khắc nghiệt nửa hòa bình nửa chiến tranh của đất nước.

Nhà văn Phan Hoàng - người từng làm công tác Hội theo sát những hoạt động viết lách của Nguyễn Quốc Trung - nhận xét rằng "ông sáng tạo không ngừng, sức viết thật đáng nể".

Nhà văn Nguyễn Quốc Trung mất vì COVID-19 ở tuổi 65 - Ảnh 2.

Ngoài những giải thưởng đoạt được như giải thưởng văn học của Đài Tiếng nói Việt Nam, báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam), Bộ Quốc phòng và giải Mê Kông, nhà văn Nguyễn Quốc Trung từng trình làng 5 tiểu thuyết: Biên giới, Bên rừng thốt nốt, Thời chúng mình yêu nhau, Người trong cõi người, Đất không đổi màu; và 5 tập truyện ngắn: Người đàn bà hồn nhiên, Trong tiết thanh minh, Đêm trừ tịch, Người đến từ nước Mỹ, Cô gái tính nhảy cầu Rạch Miễu.

Tác phẩm gần đây của ông được bạn văn biết đến là tiểu thuyết Dòng sông bên chùa (NXB Văn Học, 2019).

"Ngày nào anh Trung cũng nhắn tin cho tôi kể từ khi nhập viện, sáng nay tôi gọi không thấy bắt máy đã linh cảm chẳng lành, sau đó thì quả thật...", nhà văn Phan Hoàng nói trong xúc động khi hay tin Nguyễn Quốc Trung vừa qua đời.

Cũng theo thông tin từ nhà văn Đào Văn Sử, bệnh viện sẽ tổ chức hỏa thiêu và trao tro cốt nhà văn cho đại diện tạp chí Văn Nghệ Quân Đội tại TP.HCM.

Lam Điền

Nguồn: Báo Tuổi trẻ, ngày 10.9.2021.

Thông tin truy cập

60959691
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
2023
7971
60959691

Thành viên trực tuyến

Đang có 323 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website