Đổi mới nhận thức về sứ mạng của giáo dục đại học

TÓM TẮT

Giáo dục đại học (GDĐH) không phải đơn giản sự nối dài của giáo dc phổ thông, cũng không phải chỉ đào tạo nghề như giáo dục chuyên nghip. Giáo dục đại học vừa phải cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, vừa phải đào tạo một đội ngũ trí thức có chuyên môn, bản lĩnh, óc sáng tạo tư duy phê phán, đồng thời tinh thần phản biện, ý thức trách nhim trước hội về những vấn đề ca đất c, của dân tc. Muốn hoàn thành sứ mạng ấy, trường đại học phải thay đổi cách quản lí, đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, phương pháp ging dạy, học tập đánh giá, xây dng trường đại học thành môi trường t do học thuật, môi trường văn hóa.

Từ khóa: giáo dục đại học, giáo dục phổ thông, nguồn nhân lực, duy phê phán, phương pháp giảng dạy

ABSTRACT

Higher education is neither the lengthening-link of the general education nor vocational training. The higher education functions as  a source providing the society with a great number of labors of high quality and at the same time, forms the contingent of intellectuals imbued with professional quality, skill and spirit combined, a creative and critical thinking, as well the consciousness of the problems of the country. Fulfil the commission, universities have to change the way of management, innovate the syllabuses, the curricula, the teaching methods, and the way of evaluation. Universities will be formed as a cultural and academic environment.

Keywords: higher education, general education, labor source, critical thinking, teaching methods

Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đng lần thứ 8 về Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục” đã định hướng m ra những hội mới cho giáo dục Việt Nam nói chung giáo dục đại hc nói riêng.

Trước hết, được đổi mới một cách căn bản toàn diện chính là nguyện vọng của bản thân giáo dục đại học. Những người làm công tác quản cũng như ging dạy trường đi học từ lâu đã mong ước được bật đèn xanh, được phép thay đổi cách tổ chức nhà trường, cách tuyển sinh, thi cử, cách đánh giá để thể đào tạo tốt hơn và đáp ứng nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực cho sự phát triển đất nước. Những năm qua giáo dục đi học Việt Nam đã chịu quá nhiều ràng buộc, ràng buộc từ bên trên và ràng buộc t chính mình. vậy bây giờ được đổi mới căn bản toàn diện niềm vui của nhng người làm công tác giáo dục đại học.

Nhưng  đồng  thời  đổi  mới  cũng  yêu cầu, đặt ra những thách thức cho giáo dục đại  học,  bi  vì  không  phải  ai  khác  mà chính giáo dục đại học phải tự biết mình phải làm gì để thay đổi, phải thay đi cái gì và thay đổi như thế nào. Đây mới chính là cái khó, cái lõi ca việc thực hiện chủ trương đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đại học. Thực tế cho thấy rt nhiều thứ ngăn cn sự phát triển ca giáo dục không phải lúc nào cũng xuất phát từ bên trên hay bên ngoài, mà nằm ngay trong chính bản thân giáo dục. Lấy dụ chuyện tuyển sinh đại học. Rất nhiều năm B GD- ĐT tổ chức theo kiểu “ba chung”. Dĩ nhiên thi “ba chung” cũng một số cái li, nhưng nhìn trong tổng thể quá nhiều nhược đim. Nhiều người cho rng “ba chung” đáng l phải “cáo chung” từ lâu. Sau khi Nghị quyết của Trung ương về Đổi mới giáo dục, từ năm 2014, Bộ GD- ĐT bắt đầu triển khai tuyển sinh theo cách phối hợp “ba chung” với việc cho phép các trường t tuyển sinh riêng. Đó một bước tiến. Những việc cụ th như vậy t bản thân giáo dc đại học thể làm rất nhiều.

Tuy  nhiên,  theo  chúng  tôi  hiểu,  đổi mới căn bản toàn din giáo dục đào tạo không phải chỉ dừng những khâu cụ thể. Nó phải bt đầu trước hết trong nhn thức về tính chất, sứ mạng của giáo dục đại học.

nước ta lâu nay GDĐH thường được hiểu không chính xác. Thứ nhất, nó  được hiểu  như  sự  nối  dài  của  giáo  dục  phổ thông, một thứ phổ thông cấp 4, như nhiều người vẫn quen gi. Sự khác nhau giữa phổ thông đại học không được  hiểu như tính chất vic học mà s lượng đ khó của tri thức. Học sinh và  sinh viên không khác nhau. Chất lượng đào tạo đại học m, việc sinh viên không khả năng tự học ít tham gia nghiên cứu khoa học một phần bắt nguồn t quan niệm này.

Thứ  hai,  GDĐH  thường  được  đồng nhất vi giáo dục nghề nghiệp, xem nhiệm vụ bản của trường đại học chỉ đáp ứng nhu cầu ngành nghề của nền kinh tế. Chúng ta đều biết tng đại học ra đời một phần là do nhu cầu đòi hỏi ngun nhân lực cao của sự phát trin kinh tế - hội. Nhưng đó không phải là tất cả. Đã một thời gian rt dài nước ta, nhà trường chủ yếu đào tạo người để ra làm quan, giúp đời, giúp nước. Đó không phải sai lm hoàn toàn. Bởi vy, nếu chỉ xem trường đại học như nơi đào tạo những thợ bậc cao, những chuyên gia lành nghề thì tình đã làm mất đi một phần sứ mnh quan trng của giáo dục và điều đó dn đến những thiếu sót trong đào tạo đi hc. Chúng ta thử lấy ví dụ trong việc đào tạo giáo viên.

Vừa qua khá nhiều cuộc thảo luận về chất ng người thầy công tác đào tạo giáo viên. Nhiều ý kiến cho rng phần đông giáo viên đứng lp hiện nay chỉ là “thợ dạy” chứ chưa phi thầy giáo đúng nghĩa của . Dĩ nhiên bản thân công việc của người thợ dạy” nếu làm cho tốt cũng đã quý ri và thực tế cho thấy ngay cả chỉ làm “thợ dy” thôi, nhiều giáo viên cũng chưa hoàn thành được. Tuy nhiên trường phổ thông là nơi dạy người, môi trường để hình thành nhân cách sự phát triển toàn diện của trẻ, đó trẻ em không chỉ cần học chữ, nm đưc những kiến thức phổ thông mà còn học cách sống, cách làm người.  Nhim  vụ  ấy  đòi  hỏi  người  giáo viên  không  thể  chỉ  biết  cách  truyền  thụ kiến thức như một người thợ lành nghề, mà còn phải một nhà giáo dục.

Lâu nay, khi nói đến yêu cầu làm sao để nâng cao hiệu quả giáo dục của người thầy, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc bồi dưỡng  cho SV  sư  phạm nhng  kiến thức về Tâm học, Giáo dục học. Những người tốt nghiệp các trường ĐH khác, không phải phm, ch cần học thêm một số chứng chỉ về phạm được coi như đủ điều kiện để đi dạy. Điều này hoàn toàn không sai. Những kiến thức v khoa học giáo dục hết sức cần thiết cho giáo viên. Trong một thời gian dài chúng ta đã coi nhẹ khoa học giáo dục công tác nghiên cứu giáo dục. Điều này đã để lại một lỗ hổng lớn trong giáo dục nước ta. Tuy  nhiên,  để  làm  được  công  việc  ca người thầy - nhà giáo dục, l vẫn cần thêm một thứ đó rất quan trọng, mà theo chúng tôi, đó chính những phẩm chất của người thầy, với cách người trí thức, người văn hóa. Người “th dạy” phiến diện hơn người thầy chính chỗ này. Chữ THẦY ngoài ý nghĩa cao quý của nó, còn bao hàm sự thông thái, hiểu biết toàn diện, thái độ bao dung dựa trên sở văn hóa, sự kết hợp hài hòa giữa tri thức và nhân cách. như thế mỗi thầy giáo mới thể trở thành nhà giáo dục. Người thầy  truyền  thụ  kiến  thức  cho  học  sinh bằng  hiểu  biết  chuyên  môn  của  mình, nhưng tác động đến trẻ em bằng cách hành xử, bằng nhân cách của chính bản thân mình, mà cách hành xử này phụ thuộc rất nhiều vào vốn văn hóa, phẩm chất đạo đức, sự am hiểu con người. Không được những điều này, người đi dạy khó làm tròn trách nhiệm của nhà giáo dục đúng theo nghĩa của nó. Kinh nghiệm cho thấy xưa nay những nhà sư phạm lớn đều những nhà văn hóa, những trí thức lớn.

Đổi mới căn bản toàn diện GDĐH yêu cầu đổi mới hàng loạt vấn đề, nhưng một trong những vấn đ hàng đầu phải đổi mới ngay chính nhận thức về sứ mng của nó. Đây là cái gốc, vấn đề ca mọi vấn đề. Cần phải nhận thức sâu sắc và đầy đủ rằng trường đại hc vừa phải nơi cung cấp nguồn nhân lực chất ng cao, có chuyên môn ngành nghề gii, vừa phải là nơi đào tạo một đội ngũ trí thức óc sáng tạo duy phê phán, văn hóa, có bản lĩnh, tinh thần phản biện ý thức trách nhiệm trước hội về những vấn đề của đất nước dân tộc. Mỗi sinh viên tốt nghiệp trường đại học phải trở thành một người trí thức, chứ không phải chỉ là một người chỉ có chuyên môn giỏi. Phẩm chất trí thức ấy biểu hiện ở chỗ người sinh viên phải là người say mê hiểu biết, khát khao chân lí, miệt mài, tận tụy trên con đường học hỏi, khám phá và chống lại mọi thứ giả dối, thiếu trung thực. Phẩm chất trí thức ấy cũng biểu hiện ở chỗ người sinh viên có khả năng dấn thân – dấn thân trong khoa học hay trong hoạt động xã hội - có tinh thần bảo vệ công lí, thức tỉnh quần chúng ý thức về tự do và phẩm giá của con người. Trường đại học phải vừa cung cấp cho nền kinh tế những người có khả năng tạo ra năng suất lao động cao, vừa tạo ra cho xã hội một đội ngũ trí thức có khả năng đi đầu trong việc nhận thức con đường phát triển của xã hội và lôi kéo, tác động vào quần chúng. Đây mới thực sự là sứ mạng cao cả của trường đại học.

         Đ thực hiện được sứ mạng này, giáo dục đại học tự mình phải đi mới căn bản và toàn diện nhiều khâu, nhiều mặt.

         Trước hết, v chương trình và nội dung đào tạo, cn giúp sinh viên m rộng tm nhìn và hiu biết về thế gii, về xã hội và con người, rộng hơn ngành nghề chuyên môn của mỗi người. Sinh viên tt nghiệp đại học khác một người thợ lành nghề ở chỗ anh ta nhãn quan rộng hơn, hiểu biết v những khả ng ở  phía trước và luôn hướng tới những khả năng đó. Về phương diện này, những kiến thức chung của một khối ngành, đặc biệt những kiến thức về khoa học hi nhân văn hết sức cần thiết, nhất đối với sinh viên các trường khoa học tự nhiên và công nghệ. Phải thừa nhận rằng những năm qua việc đưa vào ging dạy chương trình giáo dục đại cương tuy đúng hướng nhưng chưa mang lại kết quả mong muốn. Một phần là do nội dung, một phần do cách giảng dạy.

       Thứ hai, phải đổi mới trit để phương pháp dạy học. Phi đoạn tuyt trit để với lối học phổ thông, phát huy tính tự học, tự mình quyết định điều khiển việc học của mình. Thầy giáo cũng phải khắc phục trit đ lối dạy áp đặt, khuyến khích sinh viên độc lập suy nghĩ, t do nghiên cứu, khám phá.

        Th ba, phi to ra mt môi trưng tdo hc thut, môi trường văn a trong trưng đại hc. Mun làm đưc điu này cn  khuyến  khícsinh  viên  nghiêcu khoa hc. Nghiên cu là đi m. Ch khi đi m ngưi ta mi có nhu cu v t do, t do suy nghĩ, t do tìm kiếm, t do đưc viết ra nhng điu mình khám phá. Nghiên cu khoa hc là cơ hi đ hình thành ý thc vt do sáng to và bn lĩnh ca ngưi trí thc. Mun sinh viên tr thành ngưi trí thc, phi cho sinh viên đưc sng trong môi trưng trí thc, i trưng văn hóa. Trưng đại hc ca chúng ta hin nay chưa có đưc đầy đ tính cht ca i trưng y.

       Cuối cùng, về phương diện quản vĩ mô, nên tách đào tạo cao đẳng cao đẳng nghề ra khỏi giáo dục đi học, hợp nhất với hệ thống trung cấp chuyên nghiệp trung cấp nghề thành khối giáo dục chuyên nghiệp. Đó cũng một cách để giáo dục đại học trở nên “thuần túy” đại hc hơn, góp phần nâng cao tính đại học của trường đại học.

        Đổi  mới  nhận  thức về  sứ  mạng  của giáo dục đi học không phải vấn đề dễ dàng, bởi gắn liền với nhận thức, mà nhận thức thường xu hướng bo thủ, chậm thay đổi. Cái khó nữa còn nằm chỗ, đổi mới nhận thức về sứ mạng của đại học không phải chỉ công việc nội bộ riêng của ngành giáo dục. Nó phụ thuộc rất nhiều t trên t bên ngoài, muốn làm được phải  có  sự  chấp  nhận  từ  trên  và  sự đồng thuận t bên ngoài. Tuy nhiên, những tranh luận về triết con đường của mà  những  đổi  mới  thực  tiễn  cũng  có con đường riêng của mình. Bằng cách đổi mới  trit  để  chương  trình  và  nội  dung giảng  dạy,  phương  pháp  giảng  dạy  và học tập, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và thúc đẩy t do học thuật theo hưng nêu trên, trường đại học ng th tng bước thực hiện được sứ mng của mình mà thể không cần vượt qua những tranh cãi về sứ mạng./.

 

 


TÀI LIU THAM KHẢO

Tiếng Anh:

 

1.      Harvard Kennedy School Vietnam Program (2010), “Beyond the Apex: Toward a System Level Approach to Higher Education Reform in Vietnam.” Retrieved fromhttp://www.innovations.harvard.edu/showdoc.html?id=1550645

2.      Hayden, Martin and Dao Van Khanh (2010). “Private Higher Education in Vietnam,”’ in Harman, G, Hayden, M and Nghi, P.T. (eds), Reforming Higher Education in Vietnam: Challenges and Priorities, Springer, Dordrecht, Netherlands, 215-225.

         3.      Horn,   Michael  (2014,   March  4).   “Intel   Integrates  Backward  To   Improve Vietnamese Education.” Forbes. Retrieved from http://www.forbes.com/sites/michaelhorn/2014/03/04/intel-integrates-backward-to- improve-vietnamese-education-society

4.      McCornac, Dennis (2012). “The Challenge of Corruption in Higher Education: The Case of Vietnam. Asian Education and Development Studies, Volume 1 No. 3, 262

– 275.

5.      Ozturk, Ilhan (2001). “The Role of Education in Economic Development: A Theoretical Perspective.” Journal of Rural Development and Administration, Vol. XXXIII, No. 1, 39-47. S

6.      Pham, Hiep (2014). “Aiming for at Least One World-Class University by 2020.” University World News. Retrieved fromhttp://www.universityworldnews.com/ article.php?story=20140122154945702

Tiếng Việt:

1.        Edgar Morin, Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai, NXB Tri thức, Nội 2008

2.          Hồ Ngọc Đại, Nghiệp vụ sư phm, NXB ĐH Sư phm, Hà Nội 2009

3.        J.J.Rousseau, Emile hay về giáo dc, NXB Tri Thức, Nội 2008

4.        John Dewey, Dân chủ giáo dục, NXB Tri thức, Nội 2008

5.        Ngọc Trà, Văn chương, thẩm mĩ văn hóa, NXB Giáo dc, Nội 2008

6.        Nicolas Sarkozy (Tổng thống Pháp), Thư gửi các nhà giáo nhân ngày khai trường, 4/9/2007, Phạm Toàn dịch. Văn bản nguồn http//media.education.gouv.fr

 

(TS. Nguyễn Thị Kim Ngân)

                          Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, tháng 6 năm 2014.

Thông tin truy cập

60776824
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
20994
10454
60776824

Thành viên trực tuyến

Đang có 900 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website