Trong quá trình giao lưu quốc tế, văn học Korea đã từng bước hiện diện tại các quốc gia Châu Á. Với Việt Nam, sự hiện diện đó chính thức bắt đầu từ giữa thế kỉ XV qua con đường giao lưu của sứ thần hai dân tộc trên đất Trung Hoa. Bài viết giới thiệu các nguồn tư liệu gốc và đưa ra một số nhận đinh về xu hướng, tính chất và tâm thái tiếp nhận các tác phẩm văn học Korea ở Việt Nam thế kỉ XV. Qua trường hợp cụ thể của sự hiện diện tại Việt Nam cách đây hơn 5 thế kỉ, bài viết khẳng định vị thế quốc tế của văn học Korea ở Châu Á, đặc biệt là ở các nước “đồng văn” như Việt Nam.
Korea và Việt Nam trong quá khứ dù hạn chế về điều kiện tiếp xúc nhưng cũng đã có quá trình giao lưu văn hóa khá sôi nổi. Kết quả là, văn học hai dân tộc có sự hiện diện nhất định trên đất bạn qua nhiều con đường khác nhau. Sự hiện diện của văn học hai dân tộc ở nước bạn rất có thể đã có từ thế kỉ XII, XIII qua những nhân vật như Lý Dương Côn (李 陽 焜 - 이양혼) Lý Long Tường (李 龍 祥 - 이용상)*,v.v... Tuy nhiên, đó chỉ là suy luận gián tiếp dựa vào logic hoặc thậm chí vào những thông tin của truyền thuyết, giai thoại mà thiếu những căn cứ xác thực. Sự hiện diện chính thức, được các thư tịch đáng tin cậy ghi nhận và để lại những thành quả rõ ràng phải chờ đến giữa thế kỉ XV. Đây là một dấu mốc quan trọng mở ra một quá trình giao lưu văn học Korea - Việt Nam sôi động trong nhiều thế kỉ sau đó([1]). Vậy nhưng, dấu mốc quan trọng này chưa được biết đến một cách tường tận, rộng rãi, đặc biệt là ở Việt Nam, khiến cho bức tranh quan hệ văn học giữa hai nước còn những điểm mờ, điểm nhạt. Đâu đó cũng đã có những nỗ lực([2]), nhưng còn thiếu một sự quyết liệt, toàn diện ngõ hầu đưa ra ánh sáng cả một bức tranh đầy đủ, sinh động hơn. Bài viết này tiếp tục nỗ lực đó trước hết làm rõ một vấn đề: sự hiện diện của văn học Korea ở Việt Nam thế kỉ XV.
1. Những lần tiếp xúc văn chương giữa sứ thần 2 dân tộc ở thế kỉ XV: các nguồn tư liệu và thông tin
1.1. Không xét đến những thông tính mang tính giai thoại như câu chuyện về sự gặp gỡ giữa Mạc Đĩnh Chi 莫 挺 之 và sứ thần Joseon (Triều Tiên), cuộc gặp gỡ đích thực đầu tiên giữa sứ thần hai dân tộc, cũng là lần đầu tiên người Việt Nam biết đến văn học Korea là vào khoảng giữa thế kỉ XV. Đó là cuộc gặp gỡ giữa sứ thần Joseon Từ Cư Chính([3]) và sứ thần An Nam Lương Như Hộc([4]). Hai ông đã có xướng hoạ, tặng thơ cho nhau. Sách Triều Tiên vương triều thực lục 朝 鮮 王 朝 實 錄 [Thực lục] khi chép tiểu sử Từ Cư Chính có viết: “Năm Canh Thìn, [ông] chuyển sang làm Lại tào Tham nghị, tham gia sứ đoàn Tạ ân đến Yên Kinh, ở quán Thông Châu gặp sứ thần An Nam là Lương [Như] Hộc, Trạng nguyên chế khoa nước ấy. Cư Chính làm một bài thơ cận thể đưa trước cho ông, Lương hoạ lại. Cư Chính làm liền một lúc 10 bài tặng lại, Lương thán phục nói: “Thật là kì tài trong thiên hạ”([5]). Kiểm tra Đại Việt sử kí toàn thư 大 越 史 記 全 書 [Toàn thư], ta thấy Lương Như Hộc quả có đi sứ năm 1459 - 1460([6]). Như vậy, ghi chép của Thực lục là có cơ sở. Cũng theo sách này, Từ Cư Chính đã viết tặng Lương Như Hộc 10 bài thơ, và Lương đáp lại bằng 1 bài thơ. Tuy nhiên, các tư liệu hiện còn không được như vậy. Cụ thể, số bài thơ Từ Cư Chính đã tặng Lương Như Hộc còn lại là 3 bài (Thứ An Nam sứ Lương Hộc thi vận 次 安 南 使 梁 鵠 詩 韻, Quản thành tử tặng Lương phụng sứ 管 城 子 贈 梁 奉 使 - nhị thủ), trong khi Lương hoạ lại một bài (Thứ Triều Tiên quốc Từ Tể tướng thi vận 次 朝 鮮 國 徐 宰 相 詩 韻). Những bài thơ này được lưu giữ trong sách Tứ Giai thi tập 四 佳 詩 集 của Từ Cư Chính. Vậy là, trong lần tiếp xúc này, chính thức có hàng chục bài thơ (hiện còn 3 bài) thuộc văn học Korea đã được người Việt biết đến và bình giá.
1.2. Lần tiếp xúc thứ hai là vào khoảng năm 1479 - 1480. Đó là cuộc gặp gỡ, giao lưu văn học giữa Lê Thì Cử([7]) và Tào Thân([8]). Tiểu sử Tào Thân cho thấy ông là một nhân tài văn học của Joseon. Thực lục nhiều lần ghi chép về việc Tào Thân làm thơ, được ban thưởng và thăng chức. Tào Thân cũng có biệt tài về ngôn ngữ nên nhiều lần được giao nhiệm vụ phiên dịch trong các sứ vụ bang giao (với Nhật Bản, Trung Quốc). Năm 1479, ông được cử tham gia sứ bộ sang nhà Minh. Về Lê Thì Cử, hiện có rất ít thông tin được ghi chép. Tra Toàn thư thì thấy, trong khoảng thời gian này chỉ thấy có một sứ đoàn sang nhà Minh (từ năm 1477 đến 1480) như sau: “[Đinh Dậu, (1477)] Tháng 11, ngày 20, vua sai Binh bộ tả thị lang Trần Trung Lập, Hàn lâm viện hiệu thảo Lê Ngạn Tuấn và Phan Quý sang nhà Minh tiến cống” và “Canh Tý [1480], [tháng 8…] Bọn Binh bộ tả thị lang Trần Trung Lập, Hàn lâm kiểm thảo Lê Ngạn Tuấn, Phan Quý vâng mệnh đi sứ nhà Minh trở về”([9]). Trong sứ bộ này ta thấy không có tên Lê Thì Cử, nhưng nếu đúng có việc Lê Thì Cử xướng hoạ với Tào Thân thì ông hẳn nằm trong sứ bộ này và là một nhân vật quan trọng của sứ bộ. Vậy phải chăng Lê Thì Cử chính là nhân vật Lê Tuấn Ngạn trong thư tịch Việt Nam?
Tác phẩm và cuộc trao đổi giữa hai ông được ghi chép trong các sách như Bại quan tạp kí 稗 官 雜 記 của Ngư Thúc Quyền 魚 叔 權 (어숙권, thế kỉ XV), Hải Đông tạp lục 海 東 雜 錄 của Quyền Miết 權 鼈 (권별, 1589~1671), Đại Đông vận phủ quần ngọc 大 東 韻 府 群 玉 của Quyền Văn Hải 權 文 海 (권문해, 1534-1591),v.v… Các sách đều nói 2 ông xướng hoạ với nhau, thơ văn có đến “hơn chục bài, bài nào cũng khiến người ta thấy thú vị”. Tuy nhiên, hiện các sách này chỉ còn giữ lại được: 5 bài Lê Thì Cử tặng Tào Thân (Tam Hàn kiến thuyết cảnh thiên thù 三 韓 見 說 景 偏 殊, Mã Thìn di tục cổ nhân thù 馬 辰 遺 俗 古 人 殊, Đông Nam phong vực cổ lai thù 東 南 封 域 古 來 殊, Ngọc quản dương hôi chí 玉 管 陽 灰 至, Kí điện dư đồ cựu 冀甸 輿圖舊); 3 bài Tào Thân tặng lại Lê Thì Cử (Kì ngư hùng chưởng vị hà thù 嗜 魚 熊 掌 味 何 殊, Trừ nhật xuân quang chí 除 日 春 光 至, Vật ý đô vong cựu 物 意 都 忘 舊([10])). Ngoài ra, còn 2 đoạn thư trong số nhiều bức thư 2 ông trao đổi với nhau tranh luận về “thi học” nói riêng và học vấn nói chung. Đây là một cuộc trao đổi văn chương hết sức thú vị, hiếm có. Như vậy, trong lần tiếp xúc này, hàng chục tác phẩm văn học Koea cũng đã được giới thiệu với người Việt. Hơn thế nữa, một số vấn đề về văn học Korea đã được đưa ra tranh luận, bình giá.
3. Lần tiếp xúc thứ ba là vào năm 1481-1482. Lần này, có nhiều cuộc trao đổi giữa nhiều cá nhân trong sứ bộ với số lượng tác phẩm được cho là khá nhiều. Cụ thể như sau:
Sách Bạch Sa tiên sinh tập 白 沙 先 生 集 (quyển 2) của Lí Hằng Phúc 李 恒 福 (이항복, 1556~1618) có bài Thư Lý Tham nghị Toái Quang Triều thiên thi hậu 書 李 參 議 睟 光 朝 天 詩 後 trong đó chép lời của Lí Hằng Phúc kể về mình: “Thưở nhở đến nhà Thân quân, được thấy quyển Triều kinh thi thiếp của Tham phán Quyền Thúc Cường([11]), trong đó có chép việc cùng sứ giả An Nam là Vũ Tá([12]) xướng họa rất nhiều thơ. Vả lại phụ thêm thơ của Khuê Tú([13]) của bản quốc làm tiễn tặng Vũ Tá đến mấy chục bài. Như bài Thuần vu, Anh anh, Chử ngọc lan, Từ ôn,... đều thanh kiện, hào sảng, có thể biện bác cái thói hoa lá cành của đám trẻ con. Có lẽ cũng rong ruổi được với âm hưởng còn sót lại của những bậc anh liệt xưa vậy. Ngài Thân có họa lại)”([14]). Như vậy, theo sách này, Quyền Thúc Cường và Khuê Tú đã xướng hoạ thơ văn với Vũ Tá hàng mấy chục bài. Tiếc rằng những thơ văn của hai bên tặng nhau hiện chưa tìm thấy. Cũng liên quan đến Vũ Tá, sách Tục Đông văn tuyển 續 東 文 選 quyển 8/21 của Từ Cư Chính và Thân Dụng Khái 申用漑 (신용개, 1463 - 1519), có chép 1 bài thơ thất ngôn bát cú của Thân Tùng Hoạch([15]) tặng Vũ Tá (Tặng An Nam sứ Vũ Tá).
Cuốn Hư Bạch Đình tục tập 虛 白 先 生 續 集 (bài “Hư Bạch Đình niên phổ” 虛 白 亭 年 譜) ghi chép niên phổ của Hồng Quý Đạt([16]) cho biết ông có hoạ thơ của ba vị sứ thần Việt Nam là Nguyễn An([17]), Nguyễn Văn Chất([18]) và Nguyễn Vỹ([19]). Bài “Niên phổ” có đoạn nói: “Năm Thành Hoá thứ 17, Thành Tông đại vương năm thứ 20, Tân Sửu [1481] […] mùa hạ sung Thái tử Thiên thu tiết tiến hạ sứ, theo Thư trạng Thân Tùng Hoạch đến Yên kinh (đi đến đâu đều có thơ) (…) Lại hoạ thơ của sứ thần An Nam là 3 ông họ Nguyễn: Nguyễn An tự Hằng Phủ; Nguyễn Văn Chất tự Thuần Phu, Nguyễn Vỹ tự Đĩnh Phu, [ba vị này] cũng vì việc đi sứ chúc mừng thánh tiết mà đến Yên kinh, dùng thơ tặng tiên sinh để cầu hoà. Văn Chất là đại gia trong chốn từ lâm. Tiên sinh liền hoạ lại, [trong thơ] rất tôn sùng ông ta”([20]).
Như vậy, sứ đoàn Joseon sang nhà Minh năm 1781 có các tên tuổi như: Thân Tùng Hoạch, Quyền Thúc Cường, Khuê Tú, Hồng Quý Đạt. Phía An Nam có 4 tên tuổi được tư liệu ở Korea ghi nhận: Nguyễn An, Nguyễn Vỹ, Nguyễn Văn Chất, Vũ Tá. Về lai lịch của sứ bộ An Nam, ta thấy một số thông tin ít ỏi được chép trong Toàn thư như sau: “Canh Tý, [Hồng Đức] năm thứ 11 [1480], [tháng 8] (…) Mùa đông, tháng 11, ngày 18, sai bọn bồi thần Nguyễn Văn Chất, Doãn Hoành Tuấn, Vũ Duy Giáo sang tuế cống nhà Minh và tâu việc Chiêm Thành”([21]). Toàn thư xác nhận sự có mặt của Nguyễn Văn Chất trong sứ bộ. Vậy còn Nguyễn Vỹ, Nguyễn An và Vũ Tá? Chúng ta chưa có thông tin về Nguyễn An, Nguyễn Vỹ. Riêng nhân vật Vũ Tá, phải chăng chính là Vũ Duy Giáo? Thơ văn xướng hoạ của các sứ thần An Nam cũng không thấy được ghi lại trong tư liệu của cả hai bên.
Hiện chỉ còn 4 bài thơ của Hồng Quý Đạt tặng sứ thần An Nam: Thứ An Nam sứ Nguyễn An Hằng Phủ vận 次 安 南 使 阮 安 恒 甫 韻, Thứ An Nam sứ Nguyễn Văn Chất Thuần Phu vận 次 安 南 使 阮 文 質 淳 夫 韻, Thứ An Nam sứ Nguyễn Vỹ Dĩnh Phu vận 次 安 南 使 阮 偉 挺 夫 韻, Thông Châu dịch quán thứ An Nam sứ vận 通 州 驛 館 次 安 南 使 韻. Bốn bài thơ này nằm trong Hư Bạch tiên sinh tục tập 虛 白 先 生 續 集 quyển 1 và 4. Ba bài thơ đầu dùng 3 bộ vần khác nhau, chứng tỏ sứ thần An Nam mỗi người đã tặng Hồng Quý Đạt một bài thơ khác nhau và ông đã hoạ tặng lại họ mỗi người một bài. Phải chăng bài thứ tư là bài tặng Vũ Tá? Tóm lại, ở lần tiếp xúc thứ ba, số lượng tác phẩm văn học Korea được “giới thiệu” với người Việt đã lên đến mấy chục bài (hiện còn khoảng 5 bài) của 4 tác giả.
2. Một vài nhận định về sự hiện diện của văn học Korea ở Việt Nam thế kỉ XV
2.1. Theo tư liệu hiện còn, ở nửa cuối thế kỉ XV, đã có 3 cuộc tiếp xúc, giao lưu văn học giữa Korea và Việt Nam với mật độ ngày càng dày với số lượng tác phẩm trao đổi ngày càng nhiều. Điều đó phản ánh nhu cầu giao lưu văn hoá, văn học, học thuật giữa Korea - Việt Nam trên đất Trung Hoa ngày càng lớn. Điều đó cũng phản ánh sự hưng thịnh của hai vương quốc, hai triều đại (ở Korea là các đời các vua Thế Tổ, Thành Tông nhà Lý; còn ở Việt Nam là các đời vua Thái Tông, Thánh Tông nhà Lê sơ) ở thế kỉ XV. Sang thế kỉ XVI, An Nam chìm trong cơn biến loạn nội chiến, quan hệ bang giao với các nước láng giềng “đồng văn” bị ảnh hưởng không nhỏ. Điều đó cũng khiến cho sự giao lưu, tiếp xúc văn học giữa Korea và Việt Nam bị gián đoạn trong một thời gian khá dài([22]). Mãi đến năm 1597, cuộc gặp gỡ giữa Lý Toái Quang và Phùng Khắc mới nối lại sự giao lưu, tiếp xúc này và làm sâu sắc thêm chúng trong bối cảnh mới. Tiếng vang của lần gặp này thậm chí đã che khuất các cuộc gặp gỡ sớm hơn nhiều của tiền nhân. Trong bối cảnh giao lưu sôi động đó, một bộ phận nhỏ văn học Korea đã đến với độc giả Việt Nam với con số hàng chục tác phẩm của một số tác giả. Di sản để lại hiện nay, trong phạm vi tư liệu được khảo sát, là 11 bài thơ, 1 bài văn. Những tác giả, những tay “đại bút”, tinh hoa của văn học Joseon đương thời đã được các sứ thần người Việt biết đến như Từ Cư Chính, Tào Thân, Hồng Quý Đạt, Thân Tùng Hoạch, Khuê Tú,v.v…Và hẳn khi về nước, các sứ thần này đã mang theo những tác phẩm của sứ thần nước bạn và giới thiệu với người trong nước.
2.2. Do giới hạn bởi bối cảnh giao lưu, tiếp xúc, các tác phẩm văn học Korea được “giới thiệu” đó là loại văn chương tao nhã, bác học và mang tính thù ứng, giao đãi. Cụ thể, đó là những bài thơ, bức thư được viết bằng chữ Hán theo khuôn thức của văn học Hán dưới hình thức tặng-đáp, tặng-hoạ hết sức phổ biến trong văn học trung đại thuộc khu vực “đồng văn”. Tập quán đó hết sức lâu đời và được duy trì cho đến thời cận đại. Với con đường giao lưu chính thống, quan phương và đầy rào cản như thế này, ít có cơ hội cho những tác phẩm văn học khác được trao đổi, truyền bá. Nếu có, hẳn cũng rất hiếm hoi, và chưa được phi lộ. Bởi vậy, không lấy gì làm ngạc nhiên trước những bài thơ toàn theo thể Đường luật đầy những điển tích, điển cố, sáo ngữ, mỹ từ, thậm chí chữ nghĩa hiểm hóc,v.v…
Tuy nhiên, bên cạnh những công thức sáo mòn ấy, trong các tác phẩm văn học của sứ thần Joseon gửi tặng sứ thần An Nam cũng có những cái chân thành, cảm động xuất phát từ sự đồng cảnh, cảm thông chia sẻ lẫn nhau. Nhiều bài vượt ra ngoài tính nhạt nhẽo của lễ nghi xã giao để trở thành tiếng nói tâm tình tri âm tri kỉ. Chẳng hạn, bài thơ Thân Tùng Hoạch viết tặng Vũ Tá rất “tâm trạng”: “Đến từ Mê Linh, vùng đất gần biển đầy chướng khí/ Sớm nay mới xuống thuyền ở Lộ Hà/ Trời thấp xuống nơi cột đồng, đi về phía Nam là Ngũ Lĩnh/ Đất xa xôi chốn Kim đài, đi lên phương Bắc là Yên Kinh/ Đường khách gió khói dài muôn dặm/ Thời hạn về nhà đằng đẵng 3 năm liền/ Than cho ta cũng là kẻ nhớ quê hương/ Đầu bến sông mưa đọng, mọi người đều buồn bã” ([23]). Hay bài thơ Hồng Quý Đạt viết tặng sứ thần An Nam cũng rất chân thành với những câu như: “Áng mây nổi trên toà thành phủ bóng mát mười ngày/ Lòng khách trống không ngăn được cơn mưa mùa thu/ Nửa năm hồn mộng phiêu du ngàn dặm/ Một bức thư nhà đáng giá ngàn vàng/ Chẳng có ánh trăng chiếu khuôn mặt ẩn trong nỗi sầu/ Chỉ có ngọn đèn là hiểu tâm trạng khi đêm về này/ Gặp ngài muốn nói về sự khác nhau về tiếng nói hai bên/ Đành dựa vào một bài thơ mới để xứng với khúc ngâm nước Việt”([24]). Và đương nhiên, đáp lại tấm chân tình đó, nhiều bài thơ của sứ thần An Nam cũng có tình cảm dạt dào, xúc động.
2.3. Như ở một bài viết trước của chúng tôi đã đề cập, mối quan hệ giữa sứ thần Việt Nam và Korea là mối quan hệ vừa “giao hảo” vừa “cạnh tranh”[25]. Chúng tôi nhận thấy ở đây cũng vậy. Sự tiếp nhận của người Việt với văn học Korea ở thế kỉ XV là một phức cảm: vừa ngưỡng mộ - vừa ganh đua, vừa sẵn sàng tâm thái đồng tình, vừa manh nha ý thức dị biệt.
Một mặt, trước các tác phẩm văn học Joseon được tiếp xúc, người Việt (cụ thể là các sứ thần) đều bày tỏ sự ngưỡng mộ, thán phục. Chẳng hạn, Lương Như Hộc sau khi đọc thơ Từ Cư Chính đã ca ngợi ông là “kì tài”. Lê Thì Cử cũng ca ngợi tài thơ của Tào Thân: “Lầu thơ cao trăm thước” (Thi lâu cao xích bách) [Kí điện dư đồ cựu],v.v… Phía các sứ thần Triều Tiên cũng có sự hồi đáp tương ứng([26]). Tuy nhiên, mặt khác, hai bên đều có sự tự tôn dân tộc và ý thức cạnh tranh mạnh mẽ. Ý thức này thực ra không thường xuyên được bộc lộ chính thức với đối phương mà chỉ bộc lộ trong những ghi chép riêng của mỗi bên([27]). Tuy nhiên, có một lần hiếm hoi, điều đó đã được bộc lộ trực tiếp, qua lại giữa hai bên. Đó là cuộc tranh luận giữa Lê Thì Cử và Tào Thân. Các phiến đoạn, khía cạnh khác nhau của cuộc tranh luận này được các tư liệu khác nhau ghi chép lại, bổ sung cho nhau rất thú vị. Chúng tôi xin trích dẫn toàn văn những ghi chép này.
Thứ nhất, sách Hải Đông tạp lục chép: “Thích Am đến chầu Kinh sư, cùng sứ thần An Nam là Lê Thì Cử xướng hoạ. Lê Thì Cử áp thông các vần “thù”, “thu”, “châu” làm thành bài thơ như sau: “Phong vực phương Đông và phương Nam xưa nay khác nhau/ Nhưng giọt sương rơi xuống cây ngô đồng ngoài sân đều báo hiệu một mùa thu/ Trong khi làm khách, ngẫu nhiên có cuộc gặp gỡ văn tự/ Sắc xuân rực rỡ khắp cả đất Trung Hoa”. Thích Am chê việc dùng thông vận “ngu” và “vưu”([28]). Thì Cử viết thư đáp rằng: “Xét cổ nhân làm thơ thì liên đầu có thể dùng thể ‘biệt vận’. Như: “Ba nghìn giáp binh Việt đêm hợp thành vòng vây/ Yến tiệc xong vua tôi từ biệt mà chẳng hay biết/ Nếu luận công lao phá Ngô số một/ Thì lượng vàng [thưởng] chỉ đủ để đúc tượng Tây Thi”. Lại nữa, bài thơ Chư hiền của Trương Kính Phu([29]) rằng: “Bãi thơm hoa liễu mười ngày tạnh ráo/ Mưa gió suốt năm canh tiễn chút xuân tàn/ Chớ ngại rằng hồng tía đều bị thổi bay hết/ Màu xanh mới đầy vườn lại khiến người ưa thích” cũng lấy vận bộ “chân” trong loại “thượng bình” mà hiệp với vận bộ “canh” trong loại “hạ bình”. Loại thơ như thế, nhiều bài nhiều quyển, không thể chỉ ra hết được. Ông coi bài thơ Chư hiền của Kính Phu cũng là sáng tác cẩu thả ư?”([30]) Không thấy sách chép Tào Thân đáp lại như thế nào, nhưng có vẻ như lí lẽ của Lê Thì Cử đã khiến Tào Thân “tâm phục khẩu phục”.
Thứ hai, sách Bại quan tạp kí (quyển 2) chép: “Tào Thích Am là Thân từng đến Yên Kinh, cùng với sứ thần An Nam là Lê Thì Cử xướng hoạ thơ văn,có đến hơn chục bài. Một bài thơ của Lê như sau: “Nghe nói Tam Hàn([31]) cảnh rất độc đáo/ Sông Áp Lục trong trẻo sắc nước mùa thu/ Biết đó là chỗ có tứ thơ về núi sông đẹp đẽ/ Lại phỏng theo cú pháp của Tô Châu”([32]). Thích Am hoạ lại như sau: “Nếm món tay gấu hay món cá, mùi vị nào có khác([33]) / Tôi yêu bài thơ của ông bình đạm tựa mùa thu/ Họ Ôn, họ Lý([34]) chỉ mong khoe giàu có, rực rỡ/ Bình dị thì chính nên học Tô Châu”. Lê cho việc áp chữ “Tô Châu” là phạm vào vần thơ đã xướng, không đúng với thể xướng hoạ, đưa thư chê. Lại tặng một bài thơ rằng: “Phong tục Mã Hàn, Thìn Hàn xưa khác nay/ Đời đời thay đổi, trải đã mấy thu rồi/ Danh quan “nậu tát” có ý nghĩa gì vậy?/ Biết rằng lễ nghi, chế độ nước ngài khác với Trung Hoa”. Thích Am viết thư đáp lại, đại khái nói: “Bệnh thừa, nghĩ cạn, cam lòng nép lui. Đồ công thành đã sẵn sàng giáp chiến, mà gái ngoan biết tự giữ mình. Ngài thấy quân Hoài Âm chạy bên sông, chớ bật cười như người nước Triệu([35]). Ngày khác đợi tôi khoẻ lại, sẽ cùng đến tranh giỏi ở thi đàn. Thử xem Lão Tử tựa yên ngựa ngoái nhìn([36]). Việc tính toán ở trong màn trướng, chẳng ôm hối tiếc ru! “Nậu tát” vốn là phương ngôn, xưa là người ẩn sĩ. “Danh quan” là nghĩa gì vậy? “Giao Chỉ” há có nghĩa là hai ngón chân cái song song sao?”. Lê Thì Cử gửi thư đáp, đại ý viết: “Ngài tự xem mình là Hoài Âm, đang đợi người nước Triệu. Bộc tôi ắt cho là không đúng. Trận thế dựa lưng vào sông của Hoài Âm kia, chính là dùng kỉ luật trong binh pháp mà giành thắng lợi. Nay ngài phỏng rập theo vần đã được dùng trong bài thơ trước. Nếu dùng binh pháp mà xét luật thơ, thì ngài đã mất đội ngũ, lìa trật tự rất nhiều. Tướng bỏ giáp, kéo quân mà chạy, sao còn rỗi rãi mà tựa yên ngựa ngoái nhìn? Đại trượng phu hiên ngang, lỗi lạc, lấy mực làm giáp, lấy bút làm giáo, một trận quét cả ngàn quân. Hà cớ gì dùng mưu lược trong màn trướng? Ngày khác quý thể khoẻ mạnh, may được một lần gặp gỡ. Kính cẩn sai lập đàn chiến, nghiêm đặt cờ trống đợi chờ. Giao Chỉ vốn là một quận. Phía bắc quận này có núi Thiên Chỉ ở cửa Nam Giao([37]). Vì thế mà gọi quận là Giao Chỉ. Sau nhầm Chỉ (nơi chốn) thành Chỉ (ngón chân). Không lấy làm lạ rằng ngài đã tiếp thu sự sai lệch đó”([38]). Cũng lại lần này, người đáp trả cuối cùng là Lê Thì Cử, không thấy Tào Thân đáp lại. Phải chăng, lí lẽ của Lê Thì Cử cũng lại thuyết phục được họ Tào khiến ông lặng tiếng.
Có lẽ, cũng không cần phải bình luận nhiều, qua hai tư liệu kể trên, ta thấy quả thực đã có một cuộc bút chiến nhỏ nổ ra giữa Tào Thân và Lê Thì Cử mà trong đó không phải không có những ý gay gắt và động chạm đến lòng tự ái dân tộc (như nói về chữ “Giao Chỉ”, “cột đồng”). Tuy nhiên, trọng tâm của việc bút chiến là việc làm thơ “hợp cách” hay “không hợp cách” và học theo phong cách thơ nào. Dù hẳn chưa hoàn toàn nhất trí với nhau nhưng dường như hai bên ngày càng hiểu nhau hơn. Họ cũng đồng ý với nhau ở thị hiếu thi học: chuộng phong cách chất thực, giản dị của Vi Ứng Vật hơn là phong cách lãng mạn, hoa mĩ của Ôn Đình Quân, Lí Thương Ẩn. Xét riêng về thái độ của người Việt với văn học Joseon được “giới thiệu” ở đây, ta thấy đó là một sự tiếp nhận vừa có sự trân trọng vừa phê phán. Đó phải được xem như một cách tiếp nhận, một sự phê bình văn học rất tích cực, sòng phẳng dù trong không khí xã giao. Về phía các tác giả Joseon, hẳn các cuộc tranh luận như vậy cũng giúp họ rút ra nhiều kinh nghiệm sáng tác cũng như bang giao quý báu. Bằng chứng là câu chuyện đã được lan truyền trong học giới Joseon qua nhiều thế hệ như một “giai thoại” thú vị.
Khởi đầu sự hiện diện văn học Korea tại Việt Nam qua ba lần tiếp xúc như vậy là khá ấn tượng. Sự hiện diện đó có xu thế ngày càng mạnh mẽ song hành với việc cơ hội tiếp xúc giao lưu văn hoá giữa hai dân tộc ngày càng nhiều. Mảng văn chương được “giới thiệu” với người Việt chủ yếu là mảng văn chương lễ nghi, thù ứng mang tính bác học của giới trí thức tinh hoa Korea đương thời. Về cơ bản, văn học Korea được đánh giá cao, được ngưỡng mộ và chia sẻ vì sự tương đồng nhiều mặt. Tuy nhiên, ở đôi chỗ sự khác biệt, mâu thuẫn về quan điểm, bút pháp sáng tác với quan điểm, thị hiếu tiếp nhận đã dẫn đến sự tranh luận sôi nổi. Cùng với tính chân thực trong cảm hứng sáng tác của một số tác phẩm, nó làm bức tranh tiếp xúc, giao lưu văn học hai dân tộc giảm mang tính khuôn sáo, hình thức, xã giao của loại văn học lễ nghi, thù ứng để có được diện mạo đầy đủ, thực chất hơn. Trong những thế kỉ tiếp theo của thời trung đại, tuỳ vào tình hình của từng giai đoạn, những xu hướng, đặc điểm này sẽ có những diễn biến khác nhau. Tuy nhiên, dù thế nào, chúng cũng không đi ra ngoài quá xa cái đã được thiết lập nền tảng ở thế kỉ XV. Vì vậy, thiết nghĩ, chỉ trường hợp này thôi cũng đủ tiêu biểu cho toàn bộ thời trung đại (kể từ thời điểm đó trở về sau) và xứng đáng được xem là mốc son (vừa là khởi đầu, vừa rất tiêu biểu và độc đáo) trên con đường trường kì văn học Korea đến với Việt Nam./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Lý Xuân Chung (2009), Nghiên cứu, đánh giá thơ văn xướng hoạ của các sứ thần hai nước Việt Nam - Hàn Quốc, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Thư viện Quốc gia Hà Nội, kí hiệu: LA09.0239.1-2.
(2) Trần Văn Giáp (1970), Một số tư liệu về việc giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Triều Tiên, Tài liệu chép tay, Thư viện Quốc gia Hà Nội, kí hiệu: Vv.1005/70.
(3) Phan Huy Lê, Kim Yong Deok, Yu Insun,… (2009), Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong lịch sử: Kỷ yếu hội thảo lần thứ nhất, Nxb Thế giới, Hà Nội.
(4) Phan Huy Lê, Ro Myoung-ho, Jeong Jae-jeong,…(2009), Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong lịch sử: Hậu Choson và triều Nguyễn Việt Nam thách thức, chuyển biến và các mối quan hệ khu vực, Nxb Thế giới, Hà Nội.
(5) Ngô Sĩ Liên吳士連, Phạm Công Trứ 范公著,… (1993), Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書, quyển IV, Viện Sử học Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
(6) Từ Cư Chính 徐居正 (서거정), Tứ giai tập 四佳集 (사가집), URL: db.itkc.or.kr.
(7) Từ Cư Chính 徐居正 (서거정), Thân Dụng Khái 申用漑 (신용개), Tục Đông văn tuyển 續東文選 (속동문선), URL: db.itkc.or.kr.
(8) Hồng Quý Đạt 洪貴達 (홍귀달), Hư Bạch đình tập 虛白亭集 (허백정집), URL: db.itkc.or.kr.
(9) Quyền Văn Hải 權文海 (권문해), Đại Đông vận phủ quần ngọc 大東韻府群玉 (대동운부군옥), URL: db.itkc.or.kr.
(10) Quyền Miết 權鼈 (권별), Hải Đông tạp lục 海東雜錄 (해동잡록), URL: db.itkc.or.kr.
(11) Lí Hằng Phúc 李恒福 (이항복), Bạch Sa tiên sinh tập 白沙先生集 (백사선생집), URL: db.itkc.or.kr.
(12) Ngư Thúc Quyền 魚叔權 (어숙권), Bại quan tạp kí 稗官雜記 (패관잡기), URL: db.itkc.or.kr.
(13) Thôi Thường Thọ 崔 常 壽 (최상수) (1966), 韓 國 과 越 南 과 의 關 係 ( Han’guk koa Weolnam goa eui Kwan’gye), 韓 越 協 會 (Hanweolhyeophoe), Seoul.
(14) Triều Tiên vương triều thực lục 朝 鮮 王 朝 實 錄 (조 선 왕 조 실 록), URL: sillok.history.go.kr/main/main.jsp.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 1 (155)/ 2014, tr
* TS, Khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội.
[1] Xem: Lý Xuân Chung (2009), Nghiên cứu, đánh giá thơ văn xướng hoạ của các sứ thần hai nước Việt Nam - Hàn Quốc, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Thư viện Quốc gia Hà Nội, kí hiệu: LA09.0239.1-2; Trịnh Khắc Mạnh, Nguyễn Đức Toàn (2012), “Thơ xướng hoạ của sứ thần Đại Việt - Hoàng giáp Nguyễn Đăng với sứ thần Joseon - Lí Đẩu Phong”, Tap chí Hán Nôm, số 3; Xem Nguyễn Thanh Tùng (2013), “Giao hảo và cạnh tranh: Về cuộc hội ngộ giữa sứ thần Đại Việt và sứ thần Joseon trên đất Trung Hoa năm 1767”, Tập san Khoa học xã hội & Nhân văn, Trường Đại học KHXH&NV Thành phố Hồ Chí Minh, số 59, năm 2013,v.v…
[2] Xem Đông A (2011), “Ba bài thơ của sứ giả Việt Nam tìm thấy ở Triều Tiên” (10/07?), “Kim An Quốc có gặp sứ giả Việt Nam tại Trung Quốc?” (10/07); “Thơ trao đổi giữa sứ giả Triều Tiên và Việt Nam” (05/10) trên blog: donga01.blogspot.com. Ngoài ra, theo chúng tôi được biết các học giả phía Hàn Quốc cũng đã có nhiều phát hiện về vấn đề này và từng công bố đây đó. Tiếc là chúng tôi chưa có điều kiện tiếp cận các nghiên cứu của họ nên chưa rõ những phát hiện của họ đến đâu.
[3] Từ Cư Chính 徐 居 正 (서거정, 1420 - 1488), tự Cương Trung 刚中, hiệu Tứ Giai Đình 四 佳 亭, quê ở Khánh Thượng đạo. Ông là quan chức, đồng thời là một học giả lớn, nhà thơ lớn của Joseon thế kỉ XV. đỗ Tiến sĩ năm 1444, làm quan trải các chức:Hình tào Phán thư, Binh tào Phán thư,...Tác phẩm tiêu biểu của ông có Bút uyển tạp ký, Đông nhân thi thoại, Tứ giai tập, Đông nhân thi văn, Tục Đông văn tuyển,...
[4] Lương Như Hộc 梁 如 鵠 (1420 - 1501): tự Tường Phủ, người làng Hồng Liễu, huyện Trường Tân (nay là xã Tân Hưng huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương), đỗ Thám hoa khoa Nhâm Tuất (1442), làm quan trải các chức An Phủ phó sứ, Trực học sĩ Viện Hàn lâm, Đô ngự sử, Thị lang bộ lễ,… đi sứ Trung Quốc 2 lần: 1443 và 1459. Công trình của ông có: Tinh tuyển chư gia luật thi (bình luận sách của Dương Đức Nhan), Cổ kim chế từ tập, Hồng Châu quốc ngữ thi tập, Tiêu tương bát cảnh thi (đều đã thất truyền). Hiện chỉ còn 6 bài phú chữ Hán chép trong Quần hiền phú tập và 6 bài thơ chữ Hán chép trong Trích diễm thi tập,…
[5] Nguyên văn: “庚 辰 移 吏 曹 參 議, 以 謝 恩 使 赴 京, 於 通 州 館 遇 安 南 國 使 梁 鵠, 乃 制 科 壯 元 也。 居 正 以 近 體 詩 一 律 先 之, 梁 和 之, 居 正 卽 酬 連 十 篇, 梁 嘆 服 曰: “眞 天 下 奇 才 也” [成 宗 223卷, 19年(1488 戊申 /(弘治) 1年) 12月 24日(癸丑)].
[6] Toàn thư, Bản kỉ, quyển XIII, tờ 12b và tờ 27b. Nguyên văn: “十 一 月 二 十 日 帝 遣 兵 部 左 市 郎 陳 中 立 翰 林 院 校 討 黎 彦 俊 潘 貴 等 如 明 歲 貢” và “兵 部 左 侍 郎 陳 中 立 翰 林 院 檢 討 黎 俊 彦 潘 貴 等 奉 命 徃 使 如 明 國 還 朝”.
[7] Lê Thì Cử 黎 時 擧 (?-?): Chưa rõ tiểu sử. Có lẽ là Lê Tuấn Ngạn trong sử Việt. Có thể Tuấn Ngạn 俊 彥 tên chính, còn là tên còn Thì Cử là tên tự (hoặc hiệu). Theo tục đặt tên xưa thì tên và tên tự (hoặc tên hiệu) thường có liên quan đến nhau. Tuấn Ngạn là chữ lấy từ Kinh Thư (“Thái Giáp thượng”), có nghĩa là tài trí hơn người. Còn “Thì Cử” có nghĩa là được đời suy tôn. Phải chăng vì “tài năng hơn người” nên “được người đời suy tôn”? Lê Tuấn Ngạn 黎 俊 彥 (? - ?) hoặc Lê Ngạn Tuấn: người xã Vĩnh Lộc huyện Tế Giang (Bắc Ninh), trú quán xã Ngọc Bộ (nay thuộc xã Long Hưng huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên), đỗ Hội nguyên năm 1472, làm quan đến Thượng thư, tham gia hội Tao đàn, 2 lần đi sứ Trung Hoa (1480, 1495).
[8] Tào Thân 曹 伸 (조신, 1454 - 1529), tự Thúc Phấn 叔奮, hiệu Thích Am 適庵, làm quan đến chức Thông tín sứ quân quan, Nội thị giáo quan, Sư phó,…Ông nổi tiếng về ngôn ngữ, văn học (có tài làm thơ) và y thuật. Ông nhiều lần được cử đi công cán ở Nhật Bản và Trung Quốc. Tác phẩm của ông có: Nhị luân hành thực đồ 二 倫 行 實 圖, Thích Am thi cảo 適 庵 詩 稿, Tẩu ngôn toả lục 謏 聞 瑣 錄,…
[9] Toàn thư, Bản kỉ, quyển XI, tờ 98b.
[10] Đây là những bài thơ không có tiêu đề, chúng tôi tạm lấy dòng đầu bài làm tiêu đề cho cả bài.
[11] Quyền Thúc Cường 權 叔 强 (굳셀 강, ? - ?): đỗ Tiến sĩ, giữ chức Tham phán, đi sứ Trung Hoa.
[12] Vũ Tá 武 佐 (? - ?): chưa rõ tiểu sử. Có lẽ là Vũ Duy Giáo. Tá (giúp rập) có lẽ là tên, còn Duy Giáo (duy trì phong giáo) là tên tự. Hai cái tên cũng có những nét nghĩa liên quan đến nhau. Về Vũ Duy Giáo 武維教 (?-?), hiện chưa rõ tiểu sử.
[13] Khuê Tú 閨 秀 (규수 , thế kỉ XV): chưa rõ tiểu sử, chỉ biết rằng ông là một danh sĩ đương thời.
[14] Nguyên văn: “幼 從 申 君 所。得 見 權 參 判 叔 强 朝 京詩 帖。 與 安 南 使 者 武 佐。 酬 唱 者 居 多。而 且 附 本 國 閨 秀 送 武 佐 之 作 數 十 篇。如 淳 于,鸎 鸎,褚 玉 蘭,徐 媼。皆 淸 健 豪 爽。能 弁 髦 宮 掖 艷 冶 之 習。盖 亦 駸 駸 乎 古 烈 士 擊 筑 之 遺 音 歟。申 次 韶”.
[15] Thân Tùng Hoạch 申 從 濩 (신종호, 1456 - 1497): tự Thứ Thiều 次韶, hiệu Tam Khôi Đường 三魁堂, đỗ Trạng nguyên, làm quan đến chức Lễ tào Tham phán, được cử đi sứ năm 1480, chức Thư trạng. Tác phẩm có Tam Khôi đường tập. Chuyến đi sứ này cũng xảy ra một vài trục trặc trong chuyện nội bộ, nên khi về nước Thân Tùng Hoạch và Hồng Quý Đạt bị khiển trách.
[16] Hồng Quý Đạt 洪貴達 (홍귀달, 1438 - 1504): tự Khiêm Thiện 兼善, hiệu Hàm Hư Đình 涵虗亭, đỗ Tiến sĩ năm 1461, làm quan đến Đề học, Lại Tào phán thư, cuối đời bị Yên Sơn Quân giết. Ông tham gia tiếp sứ Trung Hoa đến Joseon cùng với Từ Cư Chính; đi sứ Trung Hoa năm 1780-1781. Trong thời gian đi sứ, mẹ ông mất, ông trở về trước để chịu tang. Tác phẩm của ông được tập hợp trong bộ Hư Bạch tiên sinh tục tập.
[17] Nguyễn An 阮安 (?-?): chưa rõ tiểu sử.
[18] Nguyễn Văn Chất 阮文質 (? - ?): Người huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đái (nay là thôn Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc) hiệu là Nhuệ Hiên tiên sinh. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1448, giữ các chức quan Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, Đồng tu soạn ở Quốc Sử viện, Đô Ngự sử ở Ngự Sử đài, Thượng thư bộ Hộ. Nguyễn Văn Chất có viết phần "Tục bổ" sách Việt điện u linh của Lí Tế Xuyên.
[19] Nguyễn Vỹ 阮偉 (?-?): chưa rõ tiểu sử.
[20] Nguyên văn: “十 七 年 成 宗 大 王 十 二 年。 辛 丑。 先 生 四 十 四 歲。 (…) 夏。充 皇 太 子 千 秋 節 進 賀 使。與 書 狀 官 申 從 濩 赴 京。所 經 皆 有 詩。 (…) 又 次 安 南 使 三 阮 [ 阮 安 字 恒 甫。阮 文 質 字 淳 夫。阮 偉 字 挺 夫] 亦 以 賀 節 使 來 京。以 詩 贈 先 生 求 和。蓋 文 質。詞 林 大 家 也。先 生 於 次 韻。頗 推 詡 之”.
[21] Toàn thư, Bản kỉ, quyển XIII, tờ 29a. Nguyên văn: “冬十一月 十 八 日 遣 陪 臣 阮 文 質 尹 宏 濬 武 維 教 歲 貢 于 明 并 奏 占 城 事”.
[22] Trên thực tế, năm 1500 có cuộc gặp gỡ giữa các sứ thần Joseon như An Xứ Lương 安处良, Kim Vĩnh Trinh 金永贞 với các sứ thần An Nam, nhưng cuộc gặp gỡ này dường như rất chóng vánh và cũng không để lại gì. Một số nhà nghiên cứu có nói đến cuộc tiếp xúc trực tiếp ở đầu thế kỉ XVI giữa Kim Thế Bật 金世弼, Kim An Quốc金安國 với sứ thần An Nam (Nguyễn Lâm 阮琳, Nguyễn Chuẩn 阮淮, Trương Phu Duyệt 張孚說), nhưng theo tác giả Đông A và chúng tôi khảo sát, không hề có cuộc tiếp xúc này; thực tế là, năm 1518, Kim Thế Bật đi sứ sang nhà Minh đã đọc được những bài thơ của sứ An Nam đề ở quán Lộ Hà; ông đã hoạ lại các bài thơ đó, lại mang về Joseon để các vị khác cùng đọc. Trong đó, Kim An Quốc có đọc và hoạ lại.
[23] Nguyên văn: “來 自 麊 泠 瘴 海 堧/ 今 朝 初 下 潞 河 船/ 天 低 銅 柱 南 逾 嶺/ 地 逈 金 臺 北 走 燕/客 路 風 煙 將 萬 里/ 還 家 歲 月 抵 三 年/ 嗟 余 亦 是 思 鄕 者/ 滯 雨 江 頭 各 黯 然”.
[24] Nguyên văn: “城 上 浮 雲 十 日 陰/ 客 懷 無 乃 阻 秋 霖/ 半 年 魂 夢 勞 千 里/ 一 紙 家 書 抵 萬 金/ 無 月 照 他 愁 裏 面/ 有 燈 知 此 夜 來 心/ 逢 君 欲 說 方 咅 異/ 憑 仗 新 詩 當 越 吟”.
[25] Xem Nguyễn Thanh Tùng (2013), Tlđd.
[26] Chẳng hạn, Từ Cư Chính khen Lương Như Hộc “Chất đầy trong bụng năm xe sách/ Nhả ngọc phun châu đến có thừa” (Hung trung lỗi lạc ngũ xa thư/ Châu ngọc phân phân khái thóa dư). Hồng Quý Đạt khen Nguyễn Văn Chất: “Biết ông là bậc đại gia rất mực trên văn đàn, Xem ra thi luật của ông cũng như Hà Tốn và Âm Kiên” (Tri thị từ lâm tối đại gia, Khán lai thi luật tự Âm Hài), lại gọi ông là bậc “thi tiên” (Khước kiến thi tiên nhật nhật qua),v.v…
[27] Đọc ghi chép, bút kí của sứ thần hai bên, đặc biệt là ghi chép của sứ thần Joseon nhận xét về nhau sẽ thấy rõ điều này (chẳng hạn, Từ Hạo Tu có rất nhiều nhận xét khá “nhạy cảm” về vua tôi An Nam trong cuốn Yên hành kí của ông).
[28] Theo âm vận học Hán ngữ cổ thì “thù” thuộc vận bộ “thượng bình” Ngu, còn “thu”, “châu” thuộc vận bộ “hạ bình” Vưu. “Thượng bình” có 15 vận bộ: Đông, Đông, Giang, Chi, Vi, Ngư, Ngu, Tề, Giai, Hôi, Chân, Văn, Nguyên, Hàn, San. “Hạ bình” cũng có 15 vận bộ: Tiên, Tiêu, Hào, Hào, Ca, Ma, Dương, Canh, Thanh, Chưng, Vưu, Xâm, Đàm, Diêm, Hàm.
[29] Tức Trương Thức 张栻 (? - ?), một nhà thơ, nhà lí học, nhà giáo dục nổi tiếng thời Nam Tống, ngang với Chu Hy, Lã Tổ, tác phẩm có Nam Hiên tập 南轩集.
[30] Nguyên văn: “適 菴 朝 京 師。與 安 南 國 使 黎 時 擧 相 唱 和。時 擧 通 押 殊 秋 州 云。東 南 封 域 古 來 殊。霜 到 庭 梧 一 樣 秋。客 裡 偶 成 文 字 會。煕 煕 春 色 滿 皇 州。適 菴 譏 虞 尤 之 通 用。時 擧 以 書 答 曰。按 古 人 作 詩 起 聯。有 別 用 別 韵 之 軆。如 三 千 越 甲 夜 成 圍。宴 罷 君 臣 辭 不 知。若 論 破 吳 功 第 一。黃 金 只 合 鑄 西 施。又 張 敬 夫 諸 賢 詩。花 柳 芳 洲 十 日 晴。五 更 風 雨 送 餘 春。莫 嫌 紅 紫 都 吹 盡。新 綠 滿 園 還 可 人。以 上 平 之 眞。協 下 平 之 庚。如 此 之類。連 篇 累 牘。不 可 縷 指。公 以 爲 敬 夫 諸 賢。亦 苟 作 耶”.
[31] Tam Hàn: tức liên minh ba bộ tộc Mãn Hàn, Thìn Hàn, Biện Hàn ở Korea thời cổ. Ở đây, từ này chỉ Triều Tiên nói chung.
[32] Tô Châu: chỉ Vi Ứng Vật韋應物 (737 - 792), một nhà thơ nổi tiếng thời Trung Đường. Vi Ứng Vật làm Thứ sử Tô Châu nên được người đời gọi là “Vi Tô Châu”. Thơ Vi Ứng Vật giản dị, đậm chất đời thực, vì thế được nhiều nhà Nho xưng tụng.
[33] Mạnh Tử (“Cáo Tử thượng”): “Cá là món ta thích, tay gấu cũng là món ta thích; hai thứ đó không thể được cả hai, thì bỏ cá mà giữ tay gấu vậy”. Điển này nói cả hai đều là cái ưa thích, không dễ bỏ.
[34] Ôn Lý: tức Ôn Đình Quân 溫庭筠 (812 - 870), Lý Thương Ẩn 李商隱 (813 - 858), hai nhà thơ thời Vãn Đường. Thơ của hai ông rất tài hoa, diễm lệ. Nhưng nhiều nhà Nho thường chê là lả lướt, khoe chữ.
[35] Chỉ việc Hàn Tín dùng kế dụ quân nước Triệu, cho đóng quân ở bên bờ sông, quân Triệu tưởng Hàn Tín không hiểu binh pháp nên chê cười, vì thế càng chủ quan khinh địch, sau quân Triệu bị Hàn Tín đánh thua
[36] Chưa rõ xuất xứ điển tích. Có lẽ câu này chỉ Trương Lương, một mưu sĩ tài năng của Hán Cao Tổ.
[37] Nam Giao: phiếm chỉ khu vực từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (xem Thượng Thư, “Nghiêu điển”).
[38] Nguyên văn: “曹 適 庵 伸 嘗 赴 燕 京。與 安 南 國 使 黎 時 擧。作 詩 酬 唱。至 數 十 餘 篇。黎 詩 一 首 云。三 韓 見 說 景 偏 殊。鴨 綠 澄 澄 水 色 秋。知 是 江 山 詩 思 好。還 將 句 法 效 蘇 州。適 庵 次 云。嗜 魚 熊 掌 味 何 殊。我 愛 君 詩 淡 似 秋。溫 李 只 要 誇 富 艶。平 平 端 合 學 蘇 州。黎 以 押 蘇 州 字 犯 唱 韻。非 和 詩 軆。贈 書 譏 之。又 贈 一 首 曰。馬 辰 遺 俗 古 人 殊。世 代 相 移 幾 度 秋。耨 薩 名 官 何 意 義。知 君 禮 制 異 中 州。適 庵 以 書 答 之。畧 曰。病 餘 思 涸。甘 心 屛 退。梯 衝 舞 於 前。而 處 女 自 守。君 見 淮 陰 之 走 水 上 軍。毋 發 趙 人 笑 也。異 日 竢 身 健。當 相 就 爭 長 詩 壇。試 觀 老 子 據 鞍 顧 盻 也。幕 中 之 籌。無 容 惜 焉。耨 薩 本 是 方 言。古 之 雲 鳥。名 官 何 義 哉。交 趾 豈 騈 拇 之 義 耶。黎 復 書 略 曰。君 以 淮 陰 自 居。以 趙 人 相 待。僕 則 以 爲 不 然。彼 淮 陰 之 背 水 陣。正 用 兵 法 中 紀 律 取 勝。今 君 蹈 襲 唱 詩 徑 用 之 韻。以 兵 法 律 之。則 君 失 伍 離 次 甚 矣。將 見 棄 甲 曳 兵 而 走。何 暇 據 鞍 顧 盻 哉。大 丈 夫 磊 磊 落 落。墨 甲 筆 鋒。千 軍 一 掃。焉 用 幕 中 之 籌。他 日 貴 軆 安 健。幸 一 相 訪。謹 命 壇 夫。嚴 設 旗 鼓 以 待。交 趾 本 一 郡 也。郡 之 北 有 南 交 闕 天 阯 山。故 名 郡 以 交 阯。後 誤 以 阯 爲 趾。無 怪 乎 君 之 承 訛 也”.
http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/VanhocVietNamtrungdai/tabid/102/newstab/353/Default.aspx