Những quốc gia muốn hiểu Việt Nam một cách cơ bản sẽ phải lắng nghe văn chương Việt, thứ âm thanh tuy khó lĩnh hội tức thì nhưng cho phép giải mã phần nào tâm tính, tâm hồn Việt Nam.
Dịp đầu năm 2018, thay vì món quà xuân là rượu hay trà, một người bạn đã tặng tôi tuyển truyện ngắn “Skogens salt”. Chị bảo rằng chồng chị, nhân chuyến sang thăm Thụy Điển, đã nhọc công tìm mua một tác phẩm văn chương Việt được dịch và bày bán ở đất nước Bắc Âu xinh đẹp ấy. Khó tìm vì ít ỏi, thưa vắng. Vì chưa đủ uy tín lớn để có thể phổ biến và gây tiếng vang ngoài những nhóm độc giả ít ỏi. Mặc dù, “Skogens salt”, như chúng ta biết, là “Muối của rừng”, một tập truyện xuất sắc của tác giả danh tiếng Nguyễn Huy Thiệp.
1.
Nhìn lại văn học Việt Nam từ đổi mới (1986) đến nay, những tác phẩm có cơ hội được dịch và giới thiệu với văn đàn quốc tế, trước hết, vẫn phải gây chú ý trong nước. Nếu không có thước đo này thì những nỗ lực cá nhân hay thịnh tình giao hảo và điều kiện tài chính cũng không làm cuốn sách đi được quãng đường xa rộng hơn chuyện dịch, in để biếu tặng, trưng bày.
Bản thân những Nỗi buồn chiến tranh, Thời xa vắng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Bến không chồng, Mảnh vỡ của đàn ông, Gia đình bé mọn, Cánh đồng bất tận... được lựa chọn dịch vì chúng xứng đáng là điểm nhấn của văn đàn Việt nên không quá mức “cả thẹn” với bạn bè. Trong đó, trường hợp Nỗi buồn chiến tranh không chỉ được dịch sang nhiều thứ tiếng bậc nhất (khoảng 20) và in với số lượng khá, đủ để không bị khuất lấp giữa rừng văn chương đa ngữ của thời toàn cầu hóa.
Thơ ca tuy khiêm tốn hơn nhưng, theo nhiều cách khác nhau, cũng xuất hiện trong các tuyển chọn mang tính giới thiệu hoặc các tập đơn như Defian Muse: Vietnamese Feminist Poems (nhiều tác giả), The Time Tree (Hữu Thỉnh), The Women Carry River Water (Nguyễn Quang Thiều), Three Vietnamese Poets (Văn Cầm Hải, Nguyễn Quốc Chánh, Phan Nhiên Hạo), Green Rice (Lâm Thị Mỹ Dạ)…
Hiện nay, một số nhà xuất bản trong nước cũng nỗ lực tạo ra phiên bản ngoại ngữ cho tác phẩm “con cưng” của họ như trường hợp nhà xuất bản Trẻ với Oxford yêu thương (Beloved Oxford), Nhắm mắt thấy Paris (Paris Through Closed Eyes), Cung đường vàng nắng (In the Golden Sun) của Dương Thụy; Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (Open the window, eyes closed) của Nguyễn Ngọc Thuần.
Xu hướng tự thân các nhà xuất bản quảng bá tác phẩm rất cần được khuyến khích và nhân rộng trong điều kiện các hội sách quốc tế lớn hay kênh phát hành trực tuyến Amazon đều đã đón chào “nền văn học nhỏ” như Việt Nam.
Tinh thần tự mình làm lấy cũng khiến các nhà văn bây giờ năng nổ, chủ động hơn trong việc dịch, in tác phẩm ở nước ngoài. Hồ Anh Thái và Mai Văn Phấn, theo tôi, điển hình cho ý thức quốc tế hóa tác phẩm của mình dựa trên điều kiện tài chính lẫn mối quan hệ văn chương. Hồ Anh Thái sớm có tác phẩm được dịch sang tiếng Anh, từ Trong sương hồng hiện ra (Behind the Red Mist), Người đàn bà trên đảo (The Women on the Island) cho đến Cõi người rung chuông tận thế (Apocalypse Hotel) và nhiều truyện ngắn khác. Mai Văn Phấn còn có biên giới ngôn ngữ rộng hơn khi thơ của ông đã được dịch sang nhiều thứ tiếng mà trong hình dung nhiều người, nó “xa lắc lơ” như tiếng Anbani, Rumani, Slovakia, Macedonia, Montenegro.
Cho dẫu việc dịch ra các thứ tiếng nhìn chung là thiểu số đó không quá hiệu quả về thị trường nhưng ít ra, nó chứng thực khát vọng tìm thêm các không gian tiếp nhận. Ở thời điểm hiện tại, giới cầm bút không thể trông cậy mãi vào chân lý hữu xạ tự nhiên hương mà cần xây dựng một đội ngũ cộng sự, một êkíp dịch thuật, xuất bản chuyên nghiệp để truyền thông, chuyển ngữ tác phẩm càng tích cực càng tốt.
2.
Việc quốc tế đón nhận văn chương Việt Nam, thật ra, không chỉ vì mối quan hệ thân sơ giữa các cá nhân hay đơn vị xuất bản mà còn vì ở quốc gia đó, nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu Việt Nam đã thành nếp khiến thị trường xuất bản có thể tìm kiếm, nắm chắc một lượng độc giả ổn định. Đấy chính là lý do vì sao văn chương Việt thường được dịch nhiều ở Pháp, Mỹ và Nhật, ba quốc gia có truyền thống và thành tựu Việt học.
Ở Pháp, nhà xuất bản Éditions de L’aube (thành lập năm 1987) đã rất mực nồng nhiệt và kiên trì xuất bản, tái bản Nguyễn Huy Thiệp với một loạt các tập truyện, kịch, tiểu thuyết: Un général à la retraite (Tướng về hưu); Le Coeur du tigre (Trái tim hổ), Les Démons Vivent Parmi Nous (Quỷ ở với người), La vengeance du loup (Sói trả thù), Conte d’amour un soir de pluie (Truyện tình kể trong đêm mưa), L’Or et le feu (Vàng và lửa), À nos vingt ans (Tuổi 20 yêu dấu), Mon oncle Hoat (Chú Hoạt tôi), Crimes, amour et châtiment (Tội ác, tình yêu và trừng phạt)…
Gần đây, nhà xuất bản Riveneuve, dưới sự cộng tác dịch thuật, giới thiệu của Đoàn Cầm Thi và cộng sự, cũng ấn hành nhiều tác phẩm văn chương đương đại: Thoạt kỳ thủy (A l’orignie) và Trí nhớ suy tàn (Un autre ciel) của Nguyễn Bình Phương; Cơ hội của Chúa (Un opportunité pour Dieu) của Nguyễn Việt Hà; Song song (Paralleles) của Vũ Đình Giang; Delete và Blogger của Phong Điệp, Ngựa thép (Chaval d’acier) của Phan Hồn Nhiên; T. a disparu, Paris 11 aout, L’Ascenseur de Saigon, Lettres à Mina của Thuận…
Ở Mỹ, nhà xuất bản Curbstone đã lập tủ sách “Tiếng nói từ Việt Nam” để chuyển ngữ và xuất bản một số tác phẩm văn xuôi của Lê Minh Khuê (tập truyện ngắn The Stars, the Earth, the River - Những ngôi sao, mặt đất, dòng sông), Ma Văn Kháng (tiểu thuyết Against the Flood - Ngược dòng nước lũ), Nguyễn Khải (tiểu thuyết Thời gian của người - Past Continuous), Nguyễn Huy Thiệp (tập truyện Sang sông - Crossing the River).
Ở Nhật, tác phẩm của Mai Ngữ, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Lựu, Nguyễn Thị Thu Huệ, Bảo Ninh cũng đã được dịch. Từ tiếng Anh và tiếng Pháp, văn chương Việt tiếp tục có những phiêu lưu nhỏ lẻ qua một số ngôn ngữ khác (Thụy Điển, Đức, Ý, Hàn Quốc, Trung Quốc…) nhưng nhìn chung, mức độ xuất hiện ở các thứ tiếng này còn khá ít ỏi và thường lặp lại các tác giả, tác phẩm. Dường như chưa có thêm gương mặt mới khi mà số lượng dịch giả, chuyên gia về văn chương Việt ngoài khu vực tiếng Anh, Pháp là không quá nhiều.
Như thế, đường đi của văn chương Việt ra quốc tế, còn chịu tác động khá lớn từ các mối quan hệ học thuật và kinh tế-xã hội. Không khó nhận ra Hàn Quốc, một quốc gia đang ăn nên làm ra về kinh tế với Việt Nam, đang trở thành “thị trường mới” của văn chương Việt khi họ đã lần lượt dịch tác phẩm của Ma Văn Kháng, Lê Minh Khuê, Đoàn Lê, Phan Thị Vàng Anh, Hồ Anh Thái cho đến Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Nhật Ánh.
Khi hợp tác kinh tế thuận buồm xuôi gió thì các trao đổi văn hóa văn chương cũng nảy nở đa dạng hơn. Dĩ nhiên, cơ hội của sự hợp tác này phụ thuộc con mắt xanh tiến cử và các mạnh thường quân nghệ thuật. Ở Việt Nam, hỗ trợ tài chính cho dịch thuật văn chương (như một chiến lược xuất khẩu văn hóa) đang quá ít ỏi trong khi các “ông lớn”, “đại gia” kinh tế thì chỉ giỏi chịu chi cho nhà lầu, xe hơi, bóng đá hoặc chơi golf…
3.
Cho đến năm 2019, Hội nhà văn Việt Nam đã tổ chức được 4 Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam với bản tổng kết khá chung chung: Có thêm nhiều tác phẩm được dịch, xuất bản tại nhiều quốc gia; được đón nhận bởi các tặng thưởng hoặc giảng dạy, nghiên cứu. Nhưng “nhiều” là bao nhiêu, ở nhà xuất bản nào và được đón nhận theo phạm vi nào, trong một nhóm nhỏ hay trong thị trường đọc lớn, thì chưa thấy một công bố có tính phân tích đáng tin cậy. Thành thử, quảng bá văn học, tuy được hiểu là việc cấp thiết nhưng có lẽ là hoạt động ít có kết quả thuyết phục của đời sống văn chương Việt Nam đương đại. Để tìm kiếm, xây dựng thị trường văn chương ngoài nước, theo tôi, không nên dựa dẫm vào dăm ba thi sĩ, văn sĩ, dịch giả ngoại quốc bằng hữu đôi khi còn ấm ớ về văn học Việt Nam, mà trước hết và quan trọng, phải là ông chủ các nhà xuất bản, các chuyên gia, mạnh thường quân môi giới và truyền thông văn chương. Vì chính họ sẽ quyết định đầu tư in hay không, in số lượng nhiều hay ít, in để bán hay để biếu tặng. Với những tập đoàn xuất bản lớn, chẳng cần đến hội nghị quảng bá, tự khắc họ cũng tìm đến nếu mùi vị thị trường đủ mạnh.
Khi chưa có nhiều tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và in số lượng lớn thì giá trị văn chương Việt trên văn đàn quốc tế sẽ trở nên mơ hồ. Chúng ta mới chỉ có dăm ba giải thưởng văn chương khu vực và quốc tế ở mức “tạm được” cho dù giấc mơ ẵm giải Nobel Văn học luôn đau đáu trên truyền thông. Chúng ta cũng chưa có tác phẩm nào nằm trong danh mục “best-seller” của các tờ báo/tạp chí uy tín cho dù ngày nào độc giả Việt cũng bắt gặp tác phẩm bán chạy của các nước bạn trên hiệu sách. Bản thân tôi nhiều lúc không thể hiểu vì sao vô số tác phẩm xoàng xĩnh lại có thể dễ dàng dịch, bán được thị trường Việt trong khi để có một tác phẩm nội địa ra quốc tế thì khó khăn, chậm chạp đến thế. Chúng ta thiếu gì, cần gì và sẽ phải học hỏi cách tiếp thị văn chương của bạn bè ra sao để cải thiện tình hình? Nếu cứ mãi một mình, nỗ lực tự thân hay thân tình bằng hữu, con đường ra quốc tế của văn chương Việt sẽ càng vạn dặm mênh mông.
Mai Anh Tuấn
Nguồn: Lao động, ngày 15.02.2021.