Chương III
Cao trào sân khấu cải lương từ 1930 đến 1945
I. Sự ra đời nhiều ban hát cải lương trên mọi miền đất nước
Cao trào sân khấu cải lương là giai đoạn tập chung dồn dập ra đời liên tục nhiều ban hát mạnh, nhiều vở diễn hay, tác giả, nghệ sĩ nổi tiếng. Cao trào tập chung những tinh hoa nghệ thuật so với quá trình phát triển sân khấu cải lương trong nhiều giai đoạn.
Sự phát triển cải lương giai đoạn 1918 – 1930, cao trào của giai đoạn từ năm 1926 đến 1930, nhưng phát triển cải lương từ năm 1930 đến 1945 là cao trào của hai giai đoạn. Đó là sự ra đời liên tục dồn dập các đoàn cải lương Nam – Bắc – Trung. ở Nam bộ hàng trăm ban hát lớn nhỏ đua nhau ra đời, nhiều bầu chủ bỏ vốn kinh doanh nghệ thuật cải lương, có các thành phần tham gia. Người là địa chủ, tư sản, cảnh sát, công tử Bạc Liêu, nhà báo… đứng ra lập các ban hát để chơi, hoặc kinh doanh. Những bầu chủ mới xây dựng các ban hát cải lương khẳng định ảnh hưởng, tác động lớn đến mọi tầng lớp xã hội. Nghệ thuật cải lương có vị trí quan trọng không thể thiếu trong đời sống văn hoá, xã hội. Sân khấu cải lương không chỉ đáp ứng công chúng, kinh doanh, kiếm sống, còn là thú chơi nghệ thuật của những người có danh tiếng vị trí trong xã hội. Vì nhiều lý do thiết thực, cải lương Nam Bộ phát triển mạnh dẫn đến cao trào, tập trung những giá trị mới về số lượng các ban hát, chất lượng nghệ thuật và diễn viên ngôi sao. Sân khấu cải lương Nam Bộ ảnh hưởng đến mọi miền đất nước, công chúng hâm mộ, ra đời nhiều ban hát cải lương trở thành môn nghệ thuật duy nhất có ở khắp vùng miền. Đó là sức mạnh chinh phục của nghệ thuật cải lương trước công chúng, trở thành một hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Sân khấu cải lương từ một hình thức sinh hoạt văn hoá nghệ thuật Nam Bộ, đã hội tụ nhiều nhân tố nghệ thuật đáp ứng công chúng yêu thích sân khấu trên cả nước.
1. Sự ra đời các ban hát cải lương Nam Bộ
Nghệ thuật cải lương tiếp tục ra đời các ban hát, trước kia còn tập chung ở một số tỉnh Nam Bộ như Mỹ Tho, Bạc Liêu, Cần Thơ… Chủ yếu là Mỹ Tho, nơi khai sinh sân khấu cải lương. Ngay giai đoạn một cải lương phát triển trên nhiều tỉnh Nam Bộ, sang giai đoạn hai mở rộng đến hầu hết tỉnh lỵ, các huyện thị, làng xã có ban hát và diễn cải lương.
Cuối năm 1929 - đầu năm 1930, ở Châu Đốc, ông Charler Hai, lập gánh Nhã tinh ban, diễn quanh tỉnh Tây Ninh như một thú chơi cải lương của riêng mình. Nhã tinh ban diễn cải lương các vở tuồng Tây – tuồng Việt, chủ yếu là tuồng Tây, có dàn nhạc Tây hoà tấu làm chủ sân khấu.
Ban Vạn phước của cô chủ Lai Pháp Giannơvaecdel, mời các diễn viên nổi tiếng: Mười Bửu, Tư út, Tám Cang, Ba Cương… diễn tuồng Tây, dàn nhạc Tây, đoàn hoạt động ba năm tại Sài Gòn, sau năm 1933 nghỉ diễn. Ban Nghĩa hiệp, chủ là cô Sáu Thôi ở Chợ Lớn cùng ông Trần Phong Sắc, lập ban diễn tuồng Tầu. Diễn viên tự đào tạo thế hệ mới là những người trẻ thành phố, chỉ có một số nghệ sĩ trụ cột: Ba Vân, Ba Xuân, Hữu Phượng, Tư Bồ, …
Ban Nam hưng, do Sáu Ngọ làm chủ, hoạt động sau hai năm tan rã, diễn viên có đào chính Bảy Năm, diễn cải lương tuồng Tầu.
Đồng nữ ban bầu chủ Ba Viện. Ban có phong cách độc đáo, diễn các loại tuồng, nhưng diễn viên toàn nữ không có nam. Các vai nam do nữ đóng, từ ban Đồng nữ, sau này cải lương có mốt các tướng nam do nữ đóng. Những nhân vật tướng võ do nữ đóng thay nam trong các vở cải lương, kéo dài hàng chục năm của những đoàn hát từ Nam ra Bắc. Cải lương Bắc đến năm 1954 mới hết nữ đóng vai võ tướng, cải lương Nam phải sau năm 1975 mới gần như chấm dứt các vai tướng võ do nữ đóng.
Cải lương Nam phát triển mạnh từ Sài Gòn đến các tỉnh cực Nam, có thể kể đến các tỉnh đồng bằng Nam Bộ.
Rạch giá, có các ban Tấn Thành, Nghĩa Thinh… Ban Tấn Thành diễn tuồng Tầu, đào kép: Xuân Thời, Tấn Thành, Bảy Bình, Hoa Nhi… hoạt động trên năm năm tan rã 1938.
Ban Nghĩa Thành, ra đời 1937, chủ ban là cô Ba Nghĩa, diễn tuồng Tầu là ban thứ hai diễn viên toàn nữ, diễn một số vở cũ như Bàng Quý Phi, Bao Công… vì không có phong cách riêng đoàn tan rã năm 1939.
Năm 1930, đoàn hát Phước Hưng của ông Năm Thời công diễn tại Cà Mau, đoàn chỉ diễn ở trong tỉnh, các đào kép không nổi, sau ba năm tan rã năm 1933.
Đoàn Thái dương ở Bạc Liêu, hoạt động sáu tháng tan rã. Bầu chủ là nghệ sĩ Thái Dương, tập hợp một số nghệ sĩ chung vốn thành lập ban, nhưng thiếu nhiều điều kiện nên không tồn tại lâu. Ban ra đời năm 1936 tan rã năm 1936.
Đoàn Chấn Hưng do ông Năm Thành và Chín Diệp bầu chủ, diễn cải lương kiếm hiệp kỳ tình của Mộng Vân. Có một số đào kép nổi tiếng: Mộng Vân, Bảy Cao, Năm Nghĩa, Ba Khuê… Đoàn có phong cách riêng diễn cải lương trinh thám qua những câu chuyện tình ly kỳ, đánh chưởng giật gân nên hấp dẫn công chúng. Sau này, Mộng Vân phát huy thế mạnh tiếp tục sự nghiệp của ban. Ban ra đời năm 1935 ra rã năm 1939 tại Bạc Liêu.
Đoàn Sở Sanh ra đời tại thành phố Cần Thơ, bầu chủ là nghệ sĩ Ba Sanh và hoạ sĩ Hai Sở. Đoàn diễn tuồng Tầu, do các diễn viên trẻ ở trong tỉnh đào tạo nghề ca diễn. Đoàn thường diễn những vở của các tác giả Nguyễn Công Mạnh, Ba Miêng, Thanh Sơn, các vở: Hàng Châu quy vị, Quách Sùng An…
Đoàn ái Nghĩa, Cần Thơ do một nhà giáo làm chủ, mua lại các đào kép ở các ban khác về diễn tuồng xã hội, tuồng Việt có các vở: Nặng gánh giang sơn của Ba Phát… Vì tổ chức không chặt, chưa đủ lực sau hai năm tan rã năm 1934.
Đoàn Long Phụng, chủ là Chín Quảng, một công tử Cần Thơ bỏ vốn lập gánh hát chơi. Từ thú chơi, bầu chủ thành kép chính diễn cùng các diễn viên. Đoàn diễn các loại tuồng Việt, thường là các vở của ban ái Nghĩa, sau ba năm tan rã năm 1935.
Từ năm 1926 một số ban hát cải lương ra đời mang tên bầu chủ, đến năm 1930, có hàng chục ban hát đứng tên riêng của các bầu chủ. Mỗi ban hát không cần thiết phải có tác giả biên kịch, họ có thể diễn lại những vở cải lương của các ban khác, đây là nét mới của giai đoạn cải lương lần thứ hai. Vì sự ra đời quá nhiều ban hát, không thể có đủ tác giả cho mỗi ban, nên mọi người chỉ quan tâm đến thành lập ban và lưu diễn doanh thu. Những chuyện bản quyền, độc chiếm các vở diễn trong khuynh hướng của mỗi ban, không còn quan tâm nữa, bởi sự trăm hoa đua nở không kiểm soát nổi các quyền lợi khác. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời nhiều ban hát, hợp tan, thoái trào sân khấu cải lương, nghệ thuật giảm sút mất công chúng. ở các tỉnh Nam Bộ tiếp tục ra đời nhiều ban hát cải lương, bởi còn đang là bước đầu giai đoạn hai dẫn đến cao trào cải lương. Thoái trào sân khấu cải lương từ năm 1939 đến 1945, còn 15 ban cải lương Nam Bộ.
Tại Long Xuyên có các đoàn hát:
Đoàn Tư Hoà, có các nghệ sĩ Tám Điền, Ba So, Tư Xe, Tám Củi, Sáu Mão… chuyên diễn tuồng Tầu. Ban ra đời năm 1932, tan rã năm 1935.
Đoàn Tân Đồng, chủ Ba Sô, chuyên diễn tuồng Phật và một số vở đương đại. Đoàn ra đời năm 1935, tan rã năm 1939. Diễn viên nổi Ba Đắc, Năm Thoàn, Hai Nhiêu… Đoàn có những vở nổi như Phật nhập niết bàn, Lỗi lầm…
Đoàn Hải Triều, bầu chủ là hoạ sĩ, ông chủ chương diễn tuồng Phật. Đoàn ra đời năm 1936, tan rã năm 1939. Dù những vở tuồng Phật cố ý làm mới lạ bằng lối trang trí sân khấu, nghệ thuật diễn có đánh đồ như thật, nhưng thiếu diễn viên ngôi sao đã nhanh chóng tan rã.
Đoàn Tân Thành, tỉnh Vĩnh Long, ra đời năm 1933, tan rã năm 1935. Diễn viên có: Hai Nữ, Ba Hồng, Ba Trường… Đoàn diễn cải lương đương đại, sân khấu đượm mầu văn học lãng mạng, trang trí thuỷ mạc sương khói.
Đoàn Trường Thịnh, bầu chủ Năm Bùi. Đoàn ra đời năm 1936 tan rã năm 1939. Đoàn diễn tuồng Tầu, sân khấu lộng lẫy, hoành tráng có đánh đồ thiệt.
Đoàn Tân Thinh Sa Đéc, bầu chủ Ba Thông. Ông diễn các loại tuồng đương đại, tuồng Tầu, tuồng Phật. Diễn viên: Ba Nghĩa, Ba Mảng, Hai Nữ, Hai Nhiêu… Đây là đoàn lớn nhất tỉnh Sa Đéc, họ thường chia làm hai đoàn diễn những vở cải lương tuồng cổ. Đoàn khai trương tại Sài Gòn năm 1930, tan rã năm 1944 ở Vĩnh Long.
Đoàn cải lương Đồng ấu, không rõ bầu chủ, họ tập hợp các em nhỏ diễn cải lương, có tác giả Lê Hoài Nở tức Năm Nở, Ba Phát viết kịch bản. Đoàn ra đời năm 1936, tan rã năm 1939 tại Sa Đéc.
Tỉnh Trà Vinh có đoàn Thanh Điền, bầu chủ là ông Tám Thạch. Đoàn ra đời năm 1939, tan rã năm 1941. Đoàn diễn cải lương tuồng Phật, tuồng xã hội. Diễn viên có Ba Điều, Hai Nhiêu, Tám Mẹo… Đoàn không tồn tại lâu vì phong cách diễn chưa rõ, doanh thu thấp không tồn tại.
Đoàn Dân Hồng, bầu chủ Sáu Cường. Ông diễn cải lương tuồng võ hiệp, đây là một hướng mới theo cải lương kiếm hiệp của Mộng Văn. ông cố tạo phong cách riêng, mỗi đêm diễn có màn đánh võ hấp dẫn, nhưng thiếu đào kép trụ cột đoàn đã tan rã.
Đoàn Phụng Hảo, do bà Phùng Há bầu chủ. Phụng Hảo ra đời năm 1936 tồn tại đến giai đoạn sau. Diễn viên Phùng Há, Năm Phỉ (1940), Tư Sạng, Hai Giỏi, Tư Chơi… Ban diễn tuồng Tầu, tuồng Việt. Những vở tuồng Tầu của Nguyễn Trọng Quyền và Nguyễn Công Mạnh. Những vở cải lương đương đại của Nguyễn Phong Sắc, Năm Châu. Đoàn diễn hai loại cải lương khá hấp dẫn, phần ca đượm mầu âm nhạc lãng mạn.
Đoàn Huỳnh Thanh ra đời tại Bến Tre, bầu chủ ông Năm Đào, chủ nhà máy xay, đầu tư cho ban hát. Ban chuyên diễn tuồng Tầu và các vở cải lương đương đại như Tham phú phụ bần, Trường tình bí mật, Giữ lời non nước…
Đoàn Long Vân, ra đời tại huyện Ba Tri, Bến Tre. Bầu chủ Ba Giỏ, Ba Sanh. Ban chuyên diễn tuồng Tầu của Mộng Vân, Ba Phát. Diễn viên có Ba Giỏ, Ba Sanh, Tư Mão, Hai Nhiêu, Tám củi… Ban khai trương năm 1938, tan rã năm 1940, tại Bến Tre.
Đoàn Tân Đồng Minh, ra đời tại Bến Tre, năm 1934 tan rã năm 1937. Bầu chủ Văn Cảnh, chuyên diễn tuồng Tầu, có các vở: Tống Địch Thanh, Thất Huyền Quyền, Phụng Nghi Đình của Văn Cảnh.
Đoàn Thái bình, ra đời năm 1938, tan rã năm 1944 tại Bến Tre. Bầu chủ Ba ngọc, chuyên diễn cải lương đương đại, các vở: Một tấm lòng son, Mảnh gương đời, Ăn mày đã muộn… do chính bầu chủ biên soạn và đạo diễn. Tuy nhiên, đạo diễn xưa là tập cho diễn viên vào từng vai rồi ghép lại thành vở diễn. Vì thế có đoàn bỏ nhiều tiền luyện tập công phu, sau đó diễn được ít ngày bị vỡ gánh, do thu không đủ chi.
Đoàn Vạn Phước, ra đời năm 1938, tan rã năm 1943 tại Bến Tre. Bầu chủ Ba Vạn chủ nhà hàng khách sạn, thú chơi cải lương đã lập ban hát. Ban chuyên diễn tuồng cải lương kiếm hiệp kỳ tình của Mộng Vân.
Đoàn Đồng Thinh, ra đời năm 1938, tan rã năm 1940 tại Bến tre. Bầu chủ là nghệ sĩ Ba Liên, chuyên diễn tuồng Tầu, các vở: Tôn Tẫn hạ sơn, Hoa mộc lan của Sáu Đỏ, một số vở kiếm hiệp kỳ tình của Mộng Vân.
Đoàn Nhạn Trắng, bầu Huỳnh Hữu Huân ra đời năm 1926, ra Hà Nội năm 1944, tan rã.
Đoàn Nhạn Trắng ra đời 1930, bầu chủ Ba Quận, năm 1944 ra Quy Nhơn năm 1945, ra Vinh, ra Hà Nội. Các diễn viên ái Hựu, Cò Lý, Ngọc Sương, Ba Khuê… diễn cải lương xã hội.
Tại tỉnh Mỹ Tho có các đoàn: Tân Phong, Vạn Phước… Đoàn Vạn Phước diễn tuồng Phật các vở Phật nhập miết bàn, Quan âm bồ tát…Đoàn thành lập năm 1936, tan rã năm 1939.
Đoàn Tân Phong, bầu chủ Hai Châu, đoàn diễn tuồng Tầu, các vở: Kiếm khách, Tây du ký, Bồng lai hiệp khách… Đoàn công diễn năm 1937, tan rã năm 1939.
Đoàn cải lương Tân An, ra đời tại tỉnh Tân An, bầu chủ là một thương gia, ông chủ chương đào tạo diễn viên trẻ, nhưng hoạt động được một năm thì tan rã.
Đoàn An Lạc, ra đời tại Tân An năm 1938, tan rã năm 1944. Bầu chủ là nghệ sĩ Tám Quảng, tập hợp một số đào kép nên hấp dẫn và tồn tại. Đoàn chủ chương diễn cải lương đương đại, nói về những người lao động nông thôn của hai soạn giả: Tám Quảng, Ba Miêng.
Tại Gò Công có các ban cải lương: Hồng nhật và nhiều đoàn nhỏ, nhưng nhanh chóng tan rã. Đoàn Hồng nhật có các nghệ sĩ: Tư Lực, Năm Diệp… Đoàn diễn tuồng Tầu, có múa võ, múa sinh hoạt Triều Quảng mới lạ hấp dẫn. Đoàn Hồng nhật ra đời năm 1939, tan rã năm 1944 tại địa phương.
Điểm qua sự ra đời các ban cải lương đồng bằng Nam Bộ, có 70 ban hát, trong đó có 35 ban tên tuổi, diễn các loại cải lương:
- Cải lương kiếm hiệp La mã năm 1935
- Cải lương tuồng Phật năm 1936
- Cải lương kiếm hiệp kỳ tình năm 1935
- Cải lương đương đại nhuộm mầu lãng mạn năm 1933
- Cải lương chiếu cinema minh hoạ năm 1942.
Năm khuynh hướng diễn cải lương dưới đồng bằng, đại diện cho các khuynh hướng diễn cải lương lúc ấy, nổi bật là ba khuynh hướng cải lương tuồng Phật, cải lương lãng mạn, cải lương kiếm hiệp kỳ tình. Cải lương tuồng Phật do Tân đồng ban đề xướng, tác giả là Ba Sanh, diễn cải lương kiếm hiệp của Mộng Vân. Hai khuynh hướng cải lương này nổi bật vào giai đoạn cao trào cải lương từ 1930 đến 1938, tại các tỉnh Nam Bộ. Sau này, đến giai đoạn thoái trào, cải lương kiếm hiệp kỳ tình bị quyên lãng, nhưng cải lương tuồng Phật còn tồn tại như một điểm tựa tâm linh của công chúng. Cải lương phát triển sô bồ, lúc hợp, lúc tan, khi mạnh, khi yếu, dù là của các bầu chủ tư nhân tự do phát triển, nhưng xu hướng cải lương hoàn toàn phụ thuộc vào chính trị thời cuộc. Khi đất nước thuận lợi, kinh tế phát triển phong trào cải lương lên cao, khi kinh tế khủng hoảng các ban hát đổ vỡ từng mảng. Vào thời gian sau năm 1934, sau nạn khủng hoảng kinh tế thế giới, phong trào dân chủ lên cao, cải lương phát triển mạnh. Tại Sài Gòn có 41 đoàn cải lương, đây là con số chưa bao giờ lịch sử lặp lại số lượng các ban hát nhiều như thế.
Tại Nam Bộ từ năm 1930 đến 1945, có các ban hát tên tuổi tan rã lại tái sinh: Phước Cương, Văn Hý ban, Huỳnh Kỳ, Hồng Nhật, Tân Thinh, Hồng Châu, Trường Châu, Phụng Hảo, Kỳ Quang, Trường sanh, Nam phương, Thái bình, Tân xuân, Phương đông, Nhạn trắng, Tân hoà, Tiến hoá, Kim Khánh, Kim Chung, Thanh Vân, Tiếng chuông, Viết kịch Năm Châu, Đại Phước, Nghề mới, Thanh Tùng, Tô Huệ, Tỷ Phượng, Đông dương, Thanh long, Phước tường, Trần Đắc…
Đoàn Phước Cương tái diễn năm 1937, bầu chủ ông Ngọc Cương, diễn cải lương Pháp – Việt, soạn giả cải lương mới nổi tiếng Sáu Hải. Diễn viên Năm Cần Thơ, Ba Tuý, Ba Bến Tre, Ba Trà Vinh, Bảy Nam, Ba Giỏi, Bảy Cao, Năm Nghĩa, Sáu Vi, Hồng Châu… Đoàn Phước Cương lớn nhất Nam Bộ, ra Quy Nhơn, tan năm 1945.
Đoàn Trần Đắc, diễn viên: Phùng Há, Ba Liên, Tư Chơi, Tư út… hoạt động dưới các tỉnh lẻ, tan rã năm 1944.
Quốc gia kịch đoàn, đoàn cải lương, và kịch do chính phủ Pháp bảo trợ, lưu diễn tại Sài Gòn. Đoàn có tính chất văn nghệ quốc gia phục vụ nhiệm vụ bang giao Việt – Pháp.
Đoàn Nam Phương, do Bảy Nhiêu làm bầu, kiêm soạn giả của đoàn. Diễn viên Kim Lan, Kim Cúc, Thanh Loan… đây là ba nữ diễn viên được hâm mộ. Đoàn Nam Phương ra đời năm 1940, tan rã năm 1944. Đoàn diễn cải lương đương đại và kiếm hiệp.
Đoàn Tân Hoà, ra đời năm 1938, tan rã năm 1941, bầu chủ Năm Ngầu. ông chủ chương diễn cải lương kiếm hiệp kỳ tình, vở diễn là những vở cải lương dã sử, sử thi La Mã, A Rập… tạo những màn đấu võ ly kỳ, rùng rợn. Những pha bay người, phi dao, bắn tên cắm phập vào người… Đây là hướng diễn cải lương võ hiệp, sau này ở Hà Nội, Ngọc Dư trong đoàn Kim Phụng, ông đã diễn một số vở cải lương La Mã giống như ban Tân Hoà.
Đoàn Tỷ Phượng, ra đời năm 1944, công diễn được tám tháng thì kháng chiến bùng nổ, đoàn tan rã. Đoàn có các diễn viên Hai Tỷ, Ba Phượng, Ba Nữ, Ba Điền… diễn tuồng Mộng Vân. Tiếp tục hướng cải lương kiếm hiệp kỳ tình, cải lương tình cảm xã hội.
Đoàn Nhạn trắng khá nổi tiếng, thành lập năm 1938 đến năm 1945 tan rã. Bầu chủ Nguyễn Công Huân, nhiều diễn viên nổi tiếng, nên ban được công chúng hâm mộ, chuyên diễn cải lương đương đại, tuồng Tầu.
Đoàn Việt kịch Năm Châu, do nghệ sĩ Năm Châu làm bầu, có đội ngũ tác giả hùng mạnh, Huỳnh văn Tiểng, Mai văn Bộ, Tư Trang, Năm Châu, Năm Nở… có ba người của đoàn, với đội ngũ diễn viên danh tiếng: Ba Vân, Bảy Nhiêu, Tám Danh, Kim Lan, Kim Cúc… Việt kịch Năm Châu là đoàn được dư luận cho là hay nhất Sài Gòn lúc ấy, thu hút nhiều giới trí thức, những công chức, quan chức đến xem. Đoàn diễn những vở cải lương đương đại, một số vở có tinh thần yêu nước, tiến bộ như Chiếc áo thiên nga của Bạch Sơn, Hậu chiến trường, Trần Hữu Trang, Nguyễn Huệ bình Thăng Long, Điêu Huyền, Tây Thi gái nước Việt của Huỳnh Mai Lưu, (nhóm tác giả bộ ba: Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước)… Còn nhiều ban cải lương Sài Gòn nổi tiếng, nhiều đào kép với các hướng diễn cải lương đặc sắc không thể kể hết. Mỗi ban hát ra đời, thêm một hướng phát triển cải lương. Những giai đoạn phát triển cải lương Nam Bộ đã hình thành phong cách cải lương nổi lên hai loại:
- Phong cách ca diễn cải lương đồng bằng Nam Bộ
- Phong cách ca diễn cải lương thành thị (cải lương Sài Gòn.)
Hai phong cách diễn cải lương đặc sắc này còn tồn tại đến nay, ngày càng tô đậm qua các Hội diễn sân khấu cải lương toàn quốc.
Phong cách ca diễn cải lương đồng bằng Nam Bộ mang tính dân dã, đồng quê chân chất giản dị. Các vở diễn nói về sinh hoạt thôn quê của người nông dân. Mỗi vở có lối ca diễn tự nhiên, tiết tấu chậm rãi, kể chuyện tâm tình, ít xung đột bạo liệt, cảnh trí tả thực trữ tình, mộc mạc. Nghệ thuật ca đằm thắm đầy chất dân ca sông nước Hậu Giang của đồng bằng Nam Bộ, ngọt mùi sống thực.
Phong cách cải lương thành thị, lộng lẫy, phù hoa, hào nhoáng cuốn hút. Nghệ sĩ ca diễn xưa nặng về khoe giọng ca trưng mốt thời trang. Giọng ca óng chuốt, kỹ thuật ca cao siêu, nghệ thuật diễn điêu luyện mang chất văn hoá đô thị. Trang trí sân khấu biến ảo sử dụng nhiều kỹ xảo, gây ảo giác thực, cảm giác mới lạ hấp dẫn.
Hai phong cách diễn cải lương thành thị và thôn dã phát triển mạnh vào giai đoạn hai, mỗi giai đoạn để lại ấn tượng giá trị nghệ thuật cải lương. Tại cái nôi cải lương Nam Bộ là Mỹ Tho và các tỉnh đồng bằng, nhưng khi lên Sài Gòn cải lương trở thành hình thức nghệ thuật phát triển nhiều hướng diễn. Tại Nam Bộ từ năm 1918 đến 1945, có bốn đoàn cải lương lớn ảnh hưởng đến cả nước: Đoàn cải lương Trần Đắc, Đoàn Phước Cương, Đoàn Việt Kịch Năm Châu, Đoàn Quốc gia kịch đoàn, là những đoàn tổ chức quy mô, nhiều tác giả nổi tiếng, diễn viên ngôi sao. Mỗi đoàn có phong cách nghệ thuật ca diễn đặc sắc, hấp dẫn công chúng.
2. Đội ngũ tác giả, tác phẩm.
a. Tác giả, tác phẩm
Sự xuất hiện nhiều ban hát cải lương, diễn các loại đề tài cuộc sống xã hội, đòi hỏi ra đời đội ngũ tác giả hùng mạnh, có đội ngũ tác giả, đội ngũ diễn viên đáp ứng mọi yêu cầu sân khấu cải lương. Đội ngũ tác giả đã đáp ứng vở diễn cho mỗi ban hát hoàn chỉnh phong cách, khuynh hướng nghệ thuật. Đội ngũ diễn viên giúp các ban hát thực hiện ý đồ nghệ thuật, mỗi ban hát có diễn viên ngôi sao để tồn tại lâu dài, không có sao sẽ không tồn tại. Thực tiễn nghệ thuật cần đội ngũ tác giả quyết định khuynh hướng, phong cách và thẩm mỹ công chúng, nhưng người thực hiện cuối cùng là diễn viên. Các ban hát, thiếu tác giả có thể lấy kịch bản ở nơi khác về diễn, nhưng thiếu diễn viên không thể doanh thu.
Đội ngũ tác giả, diễn viên luôn quan hệ với nhau, quyết định phương hướng nghệ thuật có tính xã hội, nhưng tác giả là người mở đường phát triển nghệ thuật. Nhờ đội ngũ tác giả, có nhiều vở diễn đáp ứng công chúng, từ năm 1930 đến năm 1945, xuất hiện gần 80 tác giả biên kịch cải lương. Những tác giả gạo cội của giai đoạn trước tiếp tục làm trụ cột ở giai đoạn sau. Nhiều tác giả ở giai đoạn trước như hoa mai hé nở, sang giai đoạn 30 – 45, trở thành những người viết chính, đề xuất các hướng cải lương: lãng mạn, hiện thực xã hội, tuồng Tây, tuồng Phật, cải lương kiếm hiệp kỳ tình… như Mộng Vân, Trần Hữu Trang, Năm Châu… Các tác giả sáng tác tự do, nhưng họ luôn bám sát hiện thực đời sống chính trị xã hội. Tác giả Năm Châu khi viết vở Ngọn cờ hiệp nữ năm 1927, tại Cần Thơ do đoàn Trần Đắc dựng bị gọi đến sở cảnh sát tỉnh, bọn mật thám bắt đưa kịch bản đọc duyệt, buộc tác giả đổi tên là Tấm lòng quê, đến ngày công diễn thì có lệnh cấm. Bắt đầu từ vở cải lương Ngọn cờ hiệp nữ, chế độ Pháp đề ra quyền kiểm duyệt vở diễn của các ban hát từ năm 1927, còn trước đó mọi người tự do sáng tác, dàn dựng và diễn chẳng ai bận tâm đến nội dung vở diễn, tư tưởng tác phẩm và nghệ thuật. Sân khấu cải lương tác động tới tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, là một diễn đàn có tính chính trị, thời đại, buộc nhà cầm quyền Pháp phải kiểm duyệt. Sân khấu có đội ngũ tác giả vững vàng; bản lĩnh nghề nghiệp, đạo đức, nhân cách dân tộc, viết nhiều kịch bản, nổi danh trong giới cải lương. Số tác giả sưu tầm được trên 50 người, đây là con số gồm nhiều thế hệ tác giả của hai giaiđoạn. Những tác giả đầu tiên viết cải lương, như Trương Duy Toản, Giáo Quyển, Trần Phong Sắc, Trần Tấn Chức, Lâm Hoài nghĩa, Nguyễn Quốc Biểu, Nguyễn Công Mạnh, Đào Châu, Đặng Công Danh,… Lớp sau: Tư Chơi, Năm Châu, Tư Trang (Trần Hữu Trang), Nguyễn An Khương, Ba Phát, Bảy Nhiêu, Thanh Sơn, Ba Sanh, Lương Võ Đố, Ba Mảng, Ba Miêng, Ba Nghĩa, Sáu Mẹo, Năm Nở, Duy Lân, Văn Cảnh, Ba Ngọc, Sáu Đỏ, Sáu Hải, Hai Chấn, Mộng Vân, Mười Bửu, Song Hỷ, Nguyễn Trọng Quyền, Năm Lâm, Sáu Hồng, Ngọc ấn, Tử Long, Phạm Công Bình, Nguyễn Đăng Phong, Sáu Cương, Phú Đức, Trúc Viện, Ba Đô, Ngô Vĩnh Khang, Viễn Châu, Quang Sô, Phạm Thị Phương…
Nhiều tác giả có vở cải lương được xếp vào loại kinh điển, tiêu biểu cho các khuynh hướng cải lương, là sự lớn mạnh về đội ngũ tác giả và chất lượng kịch bản. Những tác giả có tính chuyên nghiệp hoá, tạo sự phong phú cho sân khấu cải lương về các mặt nghệ thuật.
Tác giả Mộng Vân khởi xướng cải lương kiếm hiệp kỳ tình có các vở: Long hình quái khách (vở khai sinh trường phái mới, có đánh duy đô, phi dao găm nhào qua vòng lửa), Chiếc lá vàng, Bích Liên vương nữ, Hoàng Hà đẫm máu, Đả Nguyệt Nương, Đường xích đạo, Quan công trá hàng, Bồng lai hiệp khách…
Nhiều tác giả viết cải lương theo hướng hiện thực xã hội: Trần Phong Sắc vở: Tham phú phụ bần, Cô ba lưu lạc… Đặng Công Danh: Tứ đổ tường, Duyên chị tình em… Tư Chơi: Đời cô Lý, Ai bạn chung tình, Bạc trắng lòng đen, Chàng và nàng, Lỡ tay đã chót nhúng chàm, Khúc oan vô lượng, Ba chị em, Cô gái mới, Tôi xin chừa… Trần Hữu Trang: Chị chồng tôi, Tô ánh Nguyệt, Đời cô Lựu, Sấm sét, Đầu xanh vô tội… Năm Nở: Những kẻ vứt đi, Nỗi lòng chị Bếp, Hội yêu chồng, Thử làm bé, Ông huyện hâm hâm, Anh chị ăn mày… Ba Ngọc: Ăn mày đã muộn, Mảnh gương đời, Một tấm lòng son… Phạm Công Bình: Tối độc phu nhân tâm…
Những vở cải lương lãng mạn, tác giả: Trần Hữu Trang: Lá ngọc cành vàng, Lan và Điệp… Ba Đô: Biển tình chìm nổi, Trường tình bí mật… Ngô Vĩnh Khang: Tơ vương đền thác… Phạm Thị Phượng: Quả báo kỳ duyên… Số vở cải lương lãng mạn không nhiều, nhưng khi trào lưu văn học, ca nhạc lãng mạn thâm nhập vào cải lương, ngoài những vở có tính mở đường cho hướng cải lương lãng mạn sau năm 1930 của thế kỷ XX, có giai đoạn cải lương chìm đắm trong đám mây mù của chủ nghĩa lãng mạn thì vở cải lương nào cũng trở thành cải lương lãng mạn. Đó là lối ca diễn lê thê, vàng vọt, sướt mướt thê lương… Cải lương lãng mạn ra đời sau những vụ đàn áp đẫm máu của Pháp vào phong trào yêu nươc cách mạng, con người mất niềm tin, không lối thoát. Từ đó, lối ca hát uỷ mị xuất hiện trên hầu hết các vở cải lương kéo dài sau năm 1930 đến 1945, và sau nữa. Sân khấu cải lương đan xen nhiều trường phái khác nhau, nhằm đáp ứng công chúng.
Cải lương tuồng Phật là hướng mới, tiếp sau cải lương lãng mạn, bởi nó tạo chỗ dựa cho niềm tin bế tắc không lối thoát của con người sau những chấn động xã hội, chiến tranh, nô lệ, mất nước, nạn lụt, nạn đói liên miên đè lên nỗi sống khổ của nhân dân. Sân khấu cải lương tuồng Phật tìm hướng giải thoát có phần tiêu cực, nhưng bước đầu khủng hoảng niềm tin, thì đây là lối thoát. Sau này xã hội vận động sân khấu tìm đi hướng mới. Hướng cải lương tuồng Phật ban đầu khá hấp dẫn công chúng, nhiều ban hát chạy theo diễn có đánh đồ thật, tác giả đầu tiên viết cải lương tuồng Phật: Trần Phong Sắc các vở: Tam tạng thỉnh kinh, Mục Liên Thanh đề, Phật nhập miết bàn, Tam Tạng xuất thế… Nguyễn Công Mạnh: Quan âm Thị Kính; Ba Mảng: Tạo thiên lập địa, Phật nhập miết bàn, Lương Võ Đố: Bà Chúa thượng ngàn, Thích ca đắc đạo…
Những khuynh hướng, cải lương hiện thực phê phán, lãng mạn, cải lương diễn tuồng Phật… tạo chỗ dựa tâm linh con người, khơi dậy niềm tin cuộc sống. Một số tác giả xuất hiện những vở cải lương yêu nước, nêu cao tinh thần cách mạng và tự hào dân tộc. Đây là niềm tin, hướng công chúng đến với sự tiến bộ xã hội, tin vào truyền thống yêu nước cách mạng.
Tác giả Năm Châu vở: Ngọn cờ hiệp nữ, Đêm không ngày, Ba Phát: Nặng gánh giang sơn, Giữ lời non nước… Đào Châu: Triệu Trinh Nương, Trưng Trắc Trưng Nhị… Nguyễn Công Mạnh: Lê Lợi khởi nghĩa… Nguyễn Thành Châu: Đời hàm oan, Phạm Thị Phương: Triệu ẩu. Đặng Công Danh: Tiểu anh hùng võ Kiệt, Nguyễn Trọng Quyền: Trần Hưng Đạo bình nguyên, Võ Tánh thủ tiết…
Những vở cải lương hiện thực xã hội như Tô ánh Nguyệt, Đời cô Lý, Đời cô Lịu, Cô ba lưu lạc, Men rượu hương tình, Ngọn cờ hiệp nữ… Những vở đề tài dã sử, lịch sử… hợp thành đề tài cải lương yêu nước nêu cao tinh thần dân tộc, tinh thần khởi nghĩa, hướng tới cuộc Cách mạng Tháng tám. Đây là thành tựa của cải lương Nam Bộ, khởi xướng từ những tác giả giàu lòng yêu nước, tự hào dân tộc cùng các bầu chủ, diễn viên dũng cảm đưa sân khấu cải lương đến với cách mạng.
Đội ngũ biên kịch cải lương Nam Bộ, qua hai giai đoạn phát triển sân khấu, các tác giả tự học, tự kèm cặp nghề trở thành tác giả. Tuy nhiên có nhiều tác giả nho học, Tây học, là những nhà trí thức Nam Bộ, hầu hết lớp tác giả này không học qua trường lớp biên kịch, nhưng họ lại là những tác giả lớn. Đây là đặc điểm tác giả biên kịch cải lương, tính chất tài tử đến nay còn những tác giả tự yêu thích cải lương viết kịch bản, nhiều đoàn diễn mặc nhiên thành tác giả.
b. Nghệ thuật diễn và diễn viên
Cao trào cải lương ra đời nhiều khuynh hướng, khó kể hết nghệ thuật diễn của đội ngũ diễn viên, với số đông nhiều thế hệ đan xem nhau, nghệ thuật diễn phức tạp qua các hướng. Mỗi hướng cải lương xuất hiện những diễn viên ngôi sao, biểu hiện thành công ca diễn, dù chưa có lý luận nghệ thuật diễn cải lương, các diễn viên tự hoàn thiện mình, sáng tạo từng vai diễn. Các diễn viên cải lương tự tìm ra nghệ thuật diễn từng nhân vật, từng khuynh hướng, ngày càng hoàn chỉnh hệ thống ngôn ngữ hành động ca diễn cải lương.
Giai đoạn cao trào cải lương 1930 – 1945, là đỉnh điểm mọi hướng phát triển cải lương, phong phú, hình thức nghệ thuật diễn. Năm 1935, Mộng Vân thông qua khuynh hướng cải lương kiếm hiệp kỳ tình bộc lộ một số quan niệm về cải lương, nhưng đến Năm Châu năm 1936, những tuyên ngôn của ông làm sáng tỏ quan điểm lý luận nghệ thuật biểu diễn. Năm Châu quan niệm biểu diễn cải lương “thật phải đẹp, đẹp phải thật”. Hai từ rất đơn giản đúc gọn lại thành chân lý tổng hợp của nghệ thuật cải lương, đây là một phát minh lý luận vĩ đại. Chỉ có hai từ ghép thành hai vế như hai câu đối, rút ra bản chất biểu đạt nghệ thuật cải lương.
Chữ thật, theo ông diễn phải tự nhiên như người thực việc thực, nghĩa là nhân vật có như thế nào nói đúng như thế, ca như thế và hành động diễn ra như sự thật. Hình thức diễn này đến nay các diễn viên cải lương Nam vẫn diễn nguyên như thế, có phần gần gũi cuộc sống như thật. Cải lương Bắc lại diễn tự sự giãn cách có phần xa rời chữ thực, xem cải lương Bắc hơi “thánh thiện”, hoặc kịch nói hoá. Quan niệm của Năm Châu tuyên bố: diễn cải lương càng giống thực càng hay, diễn làm sao dẫn công chúng nhìn thấy đúng là sự thật. Đó là nói về diễn cái thực, nhưng cái thực ông quan niệm có phần trìu tượng là “thực phải đẹp”, thật mà làm đẹp lên đôi khi là khác cái thật, nhưng thật mà không đẹp thì đâu phải là nghệ thuật. Đây là cái nút của nghệ thuật. Nghệ thuật không như thực mà thực. Quan niệm về cái đẹp, đẹp phải thật, đẹp mà không thực thì chẳng có giá trị nữa, bởi mọi cái đẹp đều bắt nguồn từ cuộc sống, cái đẹp nào không bắt người từ cuộc sống không thể tồn tại, đó là “cái đẹp” không nhận thức được. Quan niệm mỹ học của Năm Châu về cái đẹp sân khấu, nghệ thuật diễn cải lương là đẹp phải thật, thật phải đẹp, không đạt những tiêu chí này cải lương không tồn tại. Đây là luận điểm mỹ học sân khấu cải lương từ trang trí mỹ thuật, phục trang đến nghệ thuật diễn tạo hình tượng, vũ đạo, ca nhạc… cho nhân vật đạt tới cái đẹp và thật. Là sân khấu tả thực của cải lương, nếu làm sai quan điểm mỹ học này cải lương không còn bản sắc sân khấu kịch hát Nam Bộ.
Năm Châu diễn giải về nghệ thuật biểu diễn cho các diễn viên, mỗi diễn viên muốn đạt tới “cái đẹp, đẹp thật tự nhiên ấy, diễn viên phải: thành thật, sống với vai tuồng của mình để đạt bản sắc của vai tuồng”[1][1]. Qua lời dẫn của Năm Châu, ông đã chỉ đạo nghệ thuật diễn cải lương cho diễn viên diễn chân thật, giản dị, mọi hình thức diễn ngoại hình khoa trương, diêm dúa, chơi trội, hơn người là phi nghệ thuật. Đây là căn bệnh các diễn viên xưa thường mắc phải, ông đã sớm phát hiện ra những sai lạc của hoạt động diễn cải lương để nêu lên quan điểm chính thống của nghệ thuật diễn cải lương độc đáo, mang tính bản chất sân khấu cải lương khác biệt với các hình thức sân khấu khác. Đó là cái đẹp đoan trang, duyên dáng, cách điệu nhẹ nhàng của sân khấu cải lương.
Những mong muốn ước nguyện của Năm Châu, sớm chỉ ra nhận thức bản chất nghệ thuật cải lương, còn thực tiễn sân khấu cải lương thì sao? Các ban hát đua nhau chơi trội, diễn cải lương đánh đồ thật, như thực, kiếm kích, đao thương không làm bằng gỗ dẻo, mà làm bằng sắt sáng loáng đánh vào toé lửa, chém rơi đầu, tay sách đầu lên tỏa hào quang sáng loé cả sân khấu… Các diễn viên diễn đủ các loại vai, công tử, làng chơi, ăn mày, quan chức, ban thì phục trang như thật, ban lại tô vẽ cho nhân vật thêm hoa lệ… Nghệ thuật diễn tung ra các loại xảo thuật cải lương, không còn là thực như thực mà sử dụng kỹ xảo, xảo thuật để diễn tả hành động nhân vật, diễn ngoại hình xô bồ… Những người giữ khuôn mẫu nghệ thuật diễn theo lối cổ điển bị coi là cổ hủ. Nghệ thuật diễn xuất phát từ các khuynh hướng cải lương hết sức phong phú, một số diễn viên vào các loại vai: cải lương đương đại nhân vật công nhân, nông dân, kẻ ăn mày, người là bà đầm, ông tây, kẻ là vua quan, chú tiểu, ông phật, ông thánh, cô tiên, công chúa, hoàng hậu, ác ôn, trộm cướp, thằng nghiện, cờ gian, bạc bịp… Vậy họ nhập vai thế nào, một diễn viên thể hiện hàng chục mẫu người ở các tầng lớp xã hội khác nhau, qua các mẫu nhân vật ấy đã thấy sực phong phú nghệ thuật diễn cải lương.
Quy tụ lại nghệ thuật diễn cơ bản ngôn ngữ hành động của các nghệ sĩ nổi tiếng ngày ấy:
1. Diễn kinh điển theo hát bội và carabộ
2. Diễn tự nhiên như kịch nói
3. Diễn cương xuất thần vào nhân vật
Nguồn gốc hình thành sân khấu cải lương mở đầu từ trào lưu cải cách hát bội thành hát bộ. Hát bộ là khởi hình ngôn ngữ diễn cải lương, lấy điểm tựa ngôn ngữ hành động diễn tuồng chuyển thành diễn cải lương bằng cách ra bộ, nhẹ hoá những động tác khuôn mẫu tuồng thành ngôn ngữ ra bộ. Khi diễn những vở cải lương tuồng Tầu, cải lương lịch sử, dã sử, dân gian, các nghệ sĩ, diễn viên thường diễn theo ngôn ngữ hành động tuồng nhẹ hoá, hoặc diễn theo ngôn ngữ carabộ. Carabộ là ngôn ngữ diễn cải lương, hình thức diễn ngôn ngữ ra bộ vận dụng vào các vở cải lương cổ, hoặc cải lương đương đại. Đây là lối diễn phổ biến của diễn viên cải lương khi nói, hát lấy điệu bộ minh hoạ cho lời văn, hoặc đi điệu bộ theo lời ca. Hình thức diễn theo hát bội và carabộ, phổ biến trong ngôn ngữ hành động diễn cải lương ở các giai đoạn phát triển nghệ thuật diễn. Đó là đặc điểm ngôn ngữ hành động biểu diễn có tính kinh điển, mở đầu nghệ thuật diễn cải lương tuồng cổ.
Bước phát triển tiếp theo, các nghệ sĩ, diễn viên diễn tự nhiên như diễn những lớp thoại kịch nói, ngôn ngữ thoại và hành động diễn cải lương chỉ khác kịch nói ở chỗ ngôn ngữ kịch nói là hành động, còn ngôn ngữ cải lương là ra bộ. Ra bộ là ngôn ngữ hành động diễn cải lương, dù có xung đột hành dộng, thì cải lương nghiêng về xung đột tâm lý, lời thoại mềm hơn, đây là ranh giới giữa hành động diễn cải lương và hành động kịch nói. Về điểm này giống như các nghệ sĩ cải lương diễn theo ngôn ngữ hành động của tuồng nhưng nhẹ hơn tuồng, đó là ngôn ngữ hành động cải lương. ngôn ngữ hành động diễn cải lương tạo ra đặc trưng nghệ thuật cải lương, dù có những lớp diễn cải lương tuồng cổ, hay lớp thoại kịch nói thì cải lương là cải lương. Đó là nghệ thuật diễn ngôn ngữ hành động tự nhiên theo đề xướng lý luận của Năm Châu. Nhiều diễn viên, nhiều ban hát, học tập và diễn cho ra ngôn ngữ hành động cải lương: như kịch nói nhưng không phải sân khấu ngôn ngữ hành động của kịch nói.
Ngày xưa, nổi bật trên sân khấu cải lương Nam – Bắc –Trung, phần lớn các nghệ sĩ tài danh diễn tuồng cương. Họ cương những màn đối thoại xem như là viết sẵn, nhưng thực ra là đối đáp cương trực tiếp trước khán giả. Trong Nam có: Ba Du, Tám Danh, Năm Châu, Tư Chơi, Phùng Há, Hai Cúc… Ngoài Bắc có: Phan Ninh, Bellanhư Nhung, Hồng Hiệp, Sĩ Tiến… Trong Nam nổi danh Ba Du cương hài, cương nói móc châm biến xã hội, làm bạn diễn lúng túng, nhưng gặp những đối thủ ngang tài, ngang sức làm khán giả bái phục. Diễn cương xuất thần vào nhân vật, là sự nhập vai, người diễn viên đứng trên nhân vật để chỉ đường nhân vật, đó là thoát vai. Những diên viên tài ứng biến thông minh mới có bản lĩnh thoát vai theo lối diễn cương nhảy ra khỏi nhân vật, khỏi lối thoại kịch bản là lời nhân vật, lời của kịch bản – kịch trong kịch – nhân vật của nhân vật. Đó là diễn cương xuất thân vào nhân vật, Nữ có hàng loạt nghệ sĩ Năm Phỉ, Kim Cúc, Năm Cần Thơ, Hai Cúc… Nhưng nổi bật hơn cả là nghệ sĩ Năm Phỉ, bà diễn nhiều loại tuồng: cải lương tuồng Tàu, cải lương tuồng hương sa, tuồng xã hội, cải lương tình cảm, cải lương sắc mầu, kiếm hiệp, võ hiệp… Đây là những thuật ngữ của giới cải lương đặt tên cho các hình thức diễn cải lương, thực ra không nhiều đến thế, cải lương sắc mầu là loại cải lương lãng mạn, hay hương xa có khác nhau đâu, cải lương tình cảm, cải lương nào không tình cảm…? Nhưng hàng loạt cách đặt tên các hình thức diễn cải lương ấy, không phải là vô lý, vì mức độ mỗi hình thức diễn có khác nhau đôi chút. Cải lương tình cảm là những câu chuyện thương tâm thiên hướng diễn tình cảm qua những cuộc tình đẫm lệ, éo le, người diễn viên chìm đắm trong mộng mị, nước mắt khổ đau, còn cải lương mầu sắc, mỗi thứ một tí, tình cảm một chút, võ hiệp một chút, tường trình bí mật một chút… Những nhân vật Tây, Ta, Tầu… nghệ sĩ Năm Phỉ xuất thần, nhập vai diễn loại nào ra loại ấy, đó là tài năng đặc biệt của lớp nghệ sĩ nổi danh cải lương Nam Bộ. Nghệ thuật diễn cải lương đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật ca, ngôn ngữ hành động, mỗi nghệ sĩ vào vai đem lại hình tượng nhân vật tạc vào ký ức khán giả, khiến họ chỉ thích xem những đào kép chính. Dù xem nhiều lần nghe câu Vọng cổ xuống hò, khán giả cứ bám theo ban hát, cô đào, anh kép mà khán giả thành kẻ liu lạc giang hồ. Đó là sự chinh phục đến mê hoặc công chúng, các thế hệ nghệ sĩ diễn viên cải lương của hàng trăm ban hát cải lương Nam Bộ, có đội ngũ diễn viên nổi tiếng. Các đào kép: Năm Châu, Tư Chơi, Tư út, Tư Anh, Bảy Nhiêu, Mộng Vân, Ba Du, Tám Danh, Tấn Thành, Tư Xe, Ba Giáo, Hoàng An, Tám Củi, Tám Dô, út Trà Ôn, Mười Bửu, Ba Đắc, Ba Đĩnh, Ba Trà Vinh, Ba Bến Tre, Năm Cần Thơ, Bảy Nam, Sáu Lực, Năm Bé, Hai Hy, Năm Nghĩa, Bảy Cao, Thanh Tao, Ba Giáo, Sáu Vị, Tư Phức, Hồng Châu, Ba Tuý, năm Phỉ, Phùng Há, Kim Cúc, Kim Thoa, ái Hữu, Kim Lý, Ngọc Sương, Ba Khuê, Tám Quắn, Văn Lắm, Hề Sách, Năm Diệp, Ba Bé, Ngọc Toàn, Hoàng nghi, Văn Trọng, Ba Giỏ, Ba Sanh, Kim Hoàng, Hề Lập, Kim Chưởng, Hoa Tươi, Tư Thới, Ba Ngư, Ba Nhạn, Nam Ninh, Như Long, Bảy Lục, Ba Tọt, Kim Anh, Tô Huệ, Ba Đua, Cao Long Ngà, Chín Phót, Sáu Chầu, Mười Bửu, Tư Lực, Năm Diệp, Bầu Liêm, Ba Điều, Hai Xáng, Sáu Tý, Tư út, Ba So, Tám Điền, Chín Quý, Ba Cương, Mười Bửu, Sáu ngọc, Tám Mẹo, Chín Móm, Ba Giỏi, Hai Nữ, Ba Duy, Năm Thắng, Ba Châu, Tư Lenơ, Ba Đổng, Năm Kiệt, Hai Sự, Tư Long, Năm Long, Ba Nhàn, Ba Liên, Ba Thâu, Năm Thiềng, Sáu Huề, Tư Sạng, Tư út, Tư Anle, Sáu Chương, Năm Định, Bảy Nhỏ, Bảy Thành, Sáu Lê, Hai Lợi, Hai Trì, Bảy Lựu, Chín Lê, Tư Huề, Hai Ngời, Hai Bông, Sáu Chánh, Năm Tỵ (hề), Tư Đẩu, Tư Thạch, Tư Đề, Chín Thêu, Hai Tỷ, Ba Mật, Tư Thới, Văn Chuông, Năm Hỷ, Sáu Ty, Sáu Trâm, Ba Vinh, Hai Hiền, Lẫm Sanh, Dương Hoà, Kiều Loan, Kiều Mỵ, Ngọc Xoa, Đại Hồng, Song Hỷ, Tần Văn, Hai Giỏi, Hề Chín ích, Năm Phồi, Hai Thành, Ba Ngư, Sáu Đảnh, Hai Thà, Sáu Chức, Hai Đàn, Sáu Chánh, Tư Kiều, Bảy Cừ, Tám Sâm, Ba Niệm, Ba Lùng, Bảy Kiên, Năm Điệp, Châu Xương, Sáu Lực, Tư An, Năm Nở (Kiêm soạn giả), Tư Chơi, Ba Vân, Hai Tùng…
Trên đây là những diễn viên nổi tiếng trong giới cải lương Nam Bộ, họ là trụ cột của những ban hát cải lương, tổng số là 160 người, con số này còn bỏ sót không ít nghệ sĩ có tiếng chưa sưu tầm đầy đủ. Với đội ngũ diễn viên mạnh từ thế hệ carabộ kéo dài đến năm 1945, cải lương Nam Bộ hoàn chỉnh nghệ thuật diễn các khuynh hướng cải lương, hoàn chỉnh các hình mẫu nhân vật kép văn, võ, đào, các vai hài, kép độc, kép xanh, kép đổ, kép mặt trắng… Sau năm 1938 đến năm 1945, cải lương Nam thoái trào tan rã cả trăm ban hát, chỉ còn một số ban ở lại Sài Gòn và các tỉnh. Ban đi diễn về các vùng quê chạy loạn, ban diễn tài tử thu đĩa, ca nhạc thính phòng, chờ thời.
3. Âm nhạc, mỹ thuật
A. Âm nhạc
Âm nhạc cải lương giai đoạn hai, lớn mạnh toàn diện, phát triển các khuynh hướng ca nhạc theo từng ban hát diễn các loại cải lương. Cải lương tuồng Tầu, tuồng Tây, tuồng Việt, tuồng Phật, cải lương lãng mạn, ca nhạc phù hoạ, tô đậm mầu sắc các hướng cải lương.
Ca nhạc hoàn chỉnh các mặt, nâng cao kỹ thuật ca, hoà tấu nhạc, xuất hiện những ca sĩ ca Vọng cổ nhịp 16 nổi tiếng: Tư Chơi, Năm Châu, Phùng Há, năm Phỉ, Kim Cúc, Kim Thoa, út Trà ôn, Ba Điều, Bảy Nhiêu… Những nhạc công nổi tiếng trong từng ban hát, đàn ca chinh phục công chúng cải lương qua bài Vọng cổ. Ca nhạc có những nhạc công tổng kết lý luận bài bản cải lương nêu ra nguyên tắc hoà tấu dàn nhạc, xây dựng bài bản trong từng vở diễn. Nhiều diễn viên, soạn giả như Mộng Vân, Tư Chơi, sáng tác những ca khúc vào vở diễn cải lương tuồng Việt, tuồng Tầu, tuồng Tây… Một số bài của Mộng Vân đến nay có nghệ sĩ còn hát như Long Nguyệt, Giang Tô, Tô Vũ Mục dương…. Phương pháp sáng tác của các nhạc công, diễn viên ngày ấy bằng thủ pháp mô phỏng âm hưởng bài bản cũ, phát triển bài bản mới. Nghe những sáng tác mới phảng phất một làn điệu nào đó, hoặc mang âm hưởng nhạc Quảng, nhạc Tây. Thủ pháp mô phỏng này, gần với bài bản, dễ hoà nhập vào vốn ca nhạc cải lương. Sáng tác những ca khúc mới vào vở diễn bắt đầu từ năm 1927, vở đầu tiên Giọt máu chung tình, tác giả soạn nhạc Nguyễn Chí Lạc, có bài Chim én và chim sẻ, Gió thổi nghiêng lều… Nhưng từ năm 1930, các vở diễn mới đồng loạt xuất hiện ca khúc mới vào cải lương. Kỹ thuật hoà tấu dàn nhạc năm 1935, có lớp hoà tấu khí nhạc bằng những bản nhạc Pháp, chuyển cảnh, nhảy van, kết thúc chào khán giả.
Ngay giai đoạn trước, các ban hát cải lương có hình thức giới thiệu diễn viên, chào khán giả bằng màn hát mở màn, từ vở Kim Vân Kiều. Nhưng chưa rõ hẳn là một màn hát mở màn chào khán giả, từ năm 1930 đến 1940, nhiều ban hát có hẳn một bài hát mở màn chào khán giả quảng cáo thương hiệu của ban. Tư Chơi, còn viết một màn Operette mở mà, hoặc kết thúc vở cải lương, làm công chúng chỉ thích đến xem chờ đợi bài ca những sáng tác nhạc cảnh cải lương của ông. Từ giai đoạn hai ca nhạc cải lương hoàn chỉnh các hình thức ca nhạc, hoà tấu dàn nhạc. Âm nhạc sân khấu có nhạc mở màn, chuyển cảnh, cao trào, kết thúc. Những vở diễn xuất hiện ca khúc tình cảm, diễn tả tâm trạng nhân vật, tình huống, hoàn cảnh sân khấu, tính kịch. Âm nhạc trong mỗi vở diễn cấu trúc thành những đắc tính riêng, diễn tả đặc điểm thể loại, đặc tính sân khấu, tính cách nhân vật. Đây là sự hoàn chỉnh ca nhạc sân khấu cải lương như một đề xuất lý luận âm nhạc về hoà tấu dàn nhạc sân khấu cải lương có những nguyên tắc, quy phạm riêng. Ví dụ, người đàn, người ca hết sức tự do tung hứng, nhưng sau tiếng song loan, sau cái đảo phách tất cả cùng vào để kết thúc câu nhạc hoặc đoạn nhạc… Tuy không ai tổng kết, nêu ra thành văn bản lý luận, nhưng các dàn nhạc hoà tấu theo luật chơi như thế, các ban hát có nhạc mở màn, cao trào… biểu hiện tính khí nhạc như nhau. Đó là sự thống nhất, hoàn chỉnh có tính lý luận âm nhạc cho các vở cải lương.
Nghệ thuật ca, phát triển kỹ thuật ca Vọng cổ nhịp 16, đàn ghi ta lõm với sự ghép nối ca khúc mới thành kỹ thuật ca tân cổ dao duyên phổ biến, là phát hiện mới hấp dẫn công chúng. Hình thức hát tân cổ giao duyên ngay từ năm 1925, đã có, nhưng phải tới giai đoạn 30 – 45, mới trở thành kỹ thuật ca Vọng cổ với ca khúc mới trong từng vở diễn, có những lớp hát đôi tân cổ, hoặc mở màn… làm công chúng náo nức đón xem. Là Thành công đích thực của ca tân cổ, đem đến công chúng nhịp điệu, âm thanh mới, làm mới lạ ca cải lương. Vọng cổ trở thành ông hoàng ca nhạc cải lương, diễn viên phải ca câu Vọng cổ để được tán thưởng. Từ một bản nhạc tâm trạng buồn chỉ có một tâm trạng đó thôi, các diễn viên đã phát triển bản Vọng cổ thành bản nhạc đa tính cách, đa tâm trạng, đa tình huống sân khấu, biểu hiện các loại sắc thái tình cảm buồn, vui, hờn, giận, giỗi hờn, căm phẫn, uất ức, mòn mỏi chờ mong, chán trường thất vọng, mộng mị, sướt mướt, chết chóc bi ai, hùng tráng, anh hùng ca trữ tình… Đây là sự hoàn hảo bài Vọng cổ, biến thành bản nhạc chức năng diễn tả, biểu hiện tình cảm, trong lịch sử âm nhạc không có bản nhạc nào mang tính đa phong cách như thế. Đó là sự phát triển cao nhất đặc tính bài Vọng cổ của ca nhạc cải lương, nhờ sự đa phong cách ấy trở thành gu thẩm âm, thẩm mỹ ca nhạc cải lương nghe câu Vọng cổ xuống hò.
Ca nhạc cải lương phát triển toàn diện, đặt ra những nguyên tắc hoà tấu dàn nhạc chung cho các dàn nhạc cải lương, nguyên tắc sử dụng các bài bản cải lương theo 10 nguyên tắc: Nhất lý, nhì ngâm, tam Nam, tứ Oán… Những nguyên tắc viết khí nhạc phân chia thành các loại: nhạc mở màn, chuyển cảnh, diễn tả tình huống, cao trào, kết thúc vở diễn. Ca Vọng cổ phát triển đa phong cách, ca tân cổ… là sự hoàn hảo toàn bộ kỹ thuật âm nhạc cải lương. Sự hoàn hảo ấy, ngày nay dàn nhạc cải lương phải tuân theo, không thể khác được, sự đổi mới ca nhạc hôm nay dựa trên những nguyên tắc xưa để phát triển mà thôi. Ca nhạc cải lương giai đoạn 30 – 45, tự hoàn thiện các mặt kỹ thuật dàn nhạc, kỹ thuật ca hát, có hướng lý luận chung tạo thành nghệ thuật ca và hoà tấu dàn nhạc cải lương mang lại hiệu quả vở diễn, chuyên nghiệp hoá trong các khuynh hướng cải lương.
B. Mỹ thuật phục trang
Mỹ thuật sân khấu cải lương ra đời từ carabộ, kết hợp phông cảnh, đồ vật, gần với trang trí nhạc kịch Opera, trang trí tả thực. Mỹ thuật phục trang sân khấu là mối quan hệ tổng hợp cấu trúc sân khấu cả hình ảnh, đồ vật, kiến trúc, điêu khắc, hoá trang, phục trang từ năm 1930 đã hoàn hảo và phát triển vào các khuynh hướng cải lương. Mỗi khuynh hướng một phương pháp trang trí sân khấu, một hình thức phục trang cấu trúc mỹ thuật toàn vở. Tuy vậy, mỹ thuật cải lương đã kết hợp nhiều hình thức thiết kế sân khấu vào từng vở diễn.
Trước kia từ carabộ đến vở Kim Vân Kiều chỉ là manh nha khuynh huớng cải lương trang trí tả thực, qua giai đoạn một có tả thực ảo giác, tả thực như thật. Sang giai đoạn hai có gì mới?, xét cho cùng các hình thức trang trí chưa vượt khỏi hai khuynh hướng ấy, nhưng đã xuất hiện nhiều cái mới. Mới trong trang trí cấu trúc sân khấu, hoá trang, phục trang… Sân khấu cải lương xưa không có hoá trang dưới dạng vẽ lông mày, vẽ mặt, nhưng từ năm 1926 trong vở diễn các diễn viên vẽ lông mày, vẽ mặt đến năm 1930 trở thành quy phạm sân khấu. Ban hát, đoàn hát to nhỏ, tất cả các nhân vật cổ hay đương đại phải vẽ lông mày, những loại kép vẽ mặt. Đây là cái mới trong hoá trang sân khấu cải lương. Vẽ hình dáng diện mạo bên ngoài, phản ánh tính cách bên trong nhân vật. Phục trang, các khuynh hướng cải lương mặc gần giống con người ngoài xã hội, đôi khi do các mốt thời thượng, hoặc kỳ hoá nhân vật, phục trang khác đi một chút. Nhiều ban hát diễn cải lương tuồng Tầu, nhân vật mặc như giặc cờ đen, chân quấn sà cạp đen trắng, trở thành mốt tướng, sĩ phục trang gần giống nhau. Những đoàn diễn cải lương tuồng Tây phục trang giống Tây… Phục trang các nhân vật, nhiều ban hát tỏ ra tự do, chưa theo đúng hiện thực lịch sử, chủ yếu tạo cái lạ, hoặc chạy theo mốt thời trang. Đây như một đặc tính cải lương, tới nay nhiều vở diễn còn phục trang theo những sở thích riêng, họ cho rằng tạo được ấn tượng hấp dẫn công chúng. Nhìn nhận sân khấu cải lương cần rộng lượng hơn, do đặc điểm là cải lương, nó không hiện thực hẳn, hoặc có khi là hiện thực như thật… Sân khấu cải lương không theo một khuôn mẫu nào, tính chân thực thể hiện ở tổng thể vở diễn, còn các chi tiết luôn là sự khác lạ vì thị hiếu công chúng.
Trang trí sân khấu cải lương khá thống nhất khuynh hướng lý luận theo đề xướng của Năm Châu, không phải thuyết lý của ông buộc mọi người chấp nhận mà ông nói đúng bản chất nghệ thuật cải lương. Những luận điểm ông nêu ra là thực tiễn sân khấu cải lương, theo quan niệm “thật phải đẹp, đẹp phải thật”. Nghệ thuật biểu diễn và mỹ thuật phục trang liên hệ với nhau, thể hiện đặc điểm nghệ thuật cải lương. Thật trong cái đẹp, đẹp trước sự thật. Mỹ thuật trang trí tả thực chiếm hầu hết các vở cải lương,một số khunh hướng khác tả thực và như thật, đó là đạo cụ như thật, biểu diễn có những màn lớp như thật. Mỹ thuật cải lương có các khuynh hướng:
- Trang trí tả thực, năm 1918
- Trang trí ước lệ 1930
- Trang trí tả thực và như thật, năm 1936
Trang trí tả thực ở vẽ phong cảnh, tả thực chi tiết, tạo sân khấu ảo giác,
cảm giác thật. Trang trí ước lệ, về phong cảnh khái quát, đặc biệt các nhân vật vẽ my, vẽ mặt, trang phục… Trang trí tả thực như thật, kết hợp trang trí ngoại cảnh như thật, với cảnh thật như thật của các ban hát diễn cải lương có đánh đồ thật. Mỹ thuật phục trang, hoá trang từ năm 1935, hoàn hảo sân khấu dựa trên cấu trúc tổng thể biểu hiện cái thực, cái thật trong các khuynh hướng cải lương.
II. Sự ra đời và phát triển cải lương Bắc
1. Sự ra đời
Cải lương Bắc ra đời từ sự ảnh hưởng trào lưu cải lương Nam phát triển mạnh, tác động đến công chúng cái lạ, cái hay bắt chước làm theo dần dần ra đời cải lương Bắc. sự ảnh hưởng tiếp xúc đầu tiên qua đĩa hát cải lương Nam ra Bắc năm 1919 – 1920, tạo lớp công chúng hiểu biết cải lương, tiếp theo những ban hát cara bộ Nam ra diễn, sau đó là các ban cải lương: Huỳnh Kỳ, Phứơc Hội, Phước Lập ban, Tân Lập, Nghĩa Hiệp ban… ra diễn tạo bầu không khí sôi động trong nhân dân mê hát cải lương. Cả Hà Nội náo nức bàn tán về cải lương, hâm mộ rạo rực của công chúng buộc các ban hát bội Hà Nội chuyển qua diễn cải lương. Phong trào diễn cải lương lên cao, tạo công ăn việc làm cho nhiều nghệ sĩ cải lương Nam ra Bắc luyện tập cho diễn viên chèo, hát bội Hà Nội chuẩn bị diễn cải lương.
Sự chuẩn bị ra đời cải lương Bắc có thời gian dài: giới thiệu làm quen, tiếp nhận từ năm 1919, công chúng xem các đoàn Nam diễn Cara bộ. Năm 1920 xem đĩa hát, năm 1921 xem các đoàn cải lương Nam diễn. Năm 1925, sinh viên Nam bộ ra học Hà Nội diễn cải lương. Năm 1925, các nhóm tài tử Hà Nội, Đồng ấu Quảng Lạc, tài tử phố Hàng Giấy, Lò Đúc… Đàn ca cải lương. Năm 1924, Nguyễn Đình Nghị diễn chèo cải lương tại Sán nhiên đài, năm 1926, nhóm Đồng ấu diễn cải lương rạp Quảng Lạc… Phong trào xem cải lương từ công chúng, phong trào diễn cải lương nghiệp dư, các ban hát Nam bộ ra Bắc diễn, đào tạo nghề cải lương cho diễn viên Bắc. Năm 1926, Hà Nội có các đoàn diễn cải lương, là điều kiện ra đời cải lương Bắc, cái nôi khai sinh cải lương Bắc ở Hà Nội. Tuy vậy, sự ra đời cải lương Bắc có hai giả thiết lập luận khác nhau:
- Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng cải lương Bắc vào năm 1930 mới có các đoàn diễn tại các rạp Hà Nội và ngoại tỉnh.
- Theo ông Trần Quốc Vượng cuốn Lịch sử thủ đô Hà Nội, chủ biên Trần Huy liệu, Nhà xuất bản Sử học Hà Nội năm 1960, trang 147 – 148, cho rằng cải lương Hà Nội ra đời năm 1920 đến năm 1930 phát triển mạnh.
- Theo nhiều nghệ nhân và tác giả Ngọc Văn cho rằng: cải lương Hà Nội ra đời năm 1926, vở đầu tiên của nhóm Đồng ấu: Nhạc Vân thí võ Kim Đan Tử, Đêm 21-11-1926.
(2) Đêm 22-11, diễn vở Triệu Tử Long, ông ghi danh sách vở diễn với các
vai. Theo ông hai đêm diễn của họ rất thành công, công chúng Hà Thành nức lòng khen ngợi hát hay, múa đẹp…Qua những tư liệu đã dẫn, cải lương bắc ra đời năm 1926, từ năm 1926 đến năm 1930, giai đoạn phát triển cải lương các tỉnh phía Bắc.Năm 1945, cải lương Bắc hoàn chỉnh đội ngũ, diễn viên, tác giả và công chúng ………………………………………………………………………………
2*.trích trang 19 – 20, nghệ thuật cải lương trên đất Bắc
yêu thích cải lương.
2. Sự phát triển cải lương Bắc.
Nhóm Đồng ấu, do ông Sáu Cương, nguyên là kép cải lương Nam Bộ, sau khi nhóm Huỳnh Kỳ tan rã, ông ở lại làm kép chính diễn cải lương tuồng cổ tại rạp Quảng Lạc, ông đào tạo lớp học sinh Đồng ấu đầu tiên cho cải lương Hà Nội (theo Lệ Thanh kể). Nhóm Đồng ấu của ông diễn cải lương thành công tại rạp Quảng Lạc, liền được thu nhận vào rạp gọi là Đồng ấu Quảng Lạc.
Nhóm Đồng ấu Quảng Lạc trở thành ban cải lương đầu tiên của cải lương Bắc diễn cải lương tuồng Việt, tuồng Tầu, gồm các vở: Sơn Hậu, Na Tra dóc thịt, Thí võ Lý Nguyên Bá… Những diễn viên của Đồng ấu: Quỳnh Tư, Kim Vân, Hai nghi, Nhật Thanh, Ngọc Văn, Văn Lộc, Phạm Dư, Vương Cẩm, Hồng Phấn, Mỹ ảnh. Năm Bày, Hồng Hiệp Nhật Thành… (theo tư liệu Ngọc Văn). Sau nhóm Đồng ấu Quảng Lạc trở thành trung tâm đào tạo diễn viên cải lương Bắc, hầu hết các diễn viên nổi tiếng sau này đào tạo từ các đoàn ở Nam ra, học tại các lớp Đồng ấu Quảng Lạc như Lệ Thanh, Ngọc Dư, Bích Hợp… Năm 1927, nghĩa hiệp ban, từ Nam ra Trung kỳ, đến Hà Nội diễn tại Quảng Lạc, có đào kép nổi danh: Năm Ty, Năm Ngời, Bảy Lục, Sáu Ná, Ba Vân, Sáu Lò, Tư bố, Ba trụ, Hai Ký. Sau đó Huỳnh Kỳ lại tăng cường diễn viên cho cải lương Hà Nội. Nữ tài sắc, ca hay, múa đẹp: Ba Xuân, Tứ Tý, Bảy Nhỏ, Hai Nữ, Ba Vinh…
Năm 1926 đến năm 1930, Hà Nội có các đoàn cải lương:
1. Đồng ấu Quảng Lạc
2. Nghĩa Hiệp ban (ở Nam ra)
3. Ca kịch đoàn
4. Càn Long hội
5. S.Y.A.A.
6. U.C.A.H
7. Tân Thanh…
Chỉ sau bốn năm ra đời cải lương Bắc, Hà Nội có bảy đoàn luân phiên diễn cải lương tại các rạp, cải lương Bắc kỳ, Nam kỳ.
Các đoàn cải lương pha trộn diễn viên Nam – Bắc, đoàn kết một nhà xây dựng cải lương trên đất Bắc, một tình cảm nghệ sĩ và máu thịt của người dân Việt. Đó là bằng chứng lịch sử cảm động về tình cảm Nam Bắc con dân một nước, chung lo xây dựng cải lương. Bảy ban hát và sự lưu diễn của các đoàn cải lương Nam tới Hà Nội, con số này không cao so với Sài Gòn, nhưng nhìn lại cải lương Bắc lần đầu tiên có bảy đoàn là khá cao. Từ bảy đoàn Hà Nội, một số tỉnh phía Bắc có các đoàn cải lương tiếp tục ra đời từ sự ảnh hưởng của hai dòng cải lương: Cải lương Nam, Cải lương Hà Nội tạo thành sự phát triển cải lương các tỉnh phía Bắc.
3. Cải lương Bắc giai đoạn 1930 - 1945
Cải lương Bắc sau quá trình tích luỹ ra đời các lối hát cải lương tại Hà Nội, thành phong trào xem cải lương ảnh hưởng khắp các tỉnh phía Bắc.Các đoàn cải lương Nam, cải lương Bắc ra diễn ở các tỉnh Hải Phòng, Nam Định, Bắc Giang, Lạng Sơn, Bắc Ninh…để lại những ấn tượng dẫn đến sự phát triển cải lương ở các tỉnh. Từ bảy đoàn ở Hà Nội, gần đến năm 1930, nhiều ban hát diễn vở mới còn đề quảng cáo cải lương Nam kỳ, sau những hình thức phân biệt này bị bỏ quên, chỉ còn biển hiệu diễn cải lương.
Nghệ thuật cải lương trở thành di sản chung của công chúng, bởi sự phát triển mạnh cải lương Bắc, có các ban hát, tác giả, diễn viên, công chúng tạo dựng phong cách cải lương.
Năm 1930, phủ Lạng Thương, có đoàn cải lương tuồng cổ Vinh Quang
diễn viên: Ánh Tuyết, Thuý Mùi, Ngọc Loan, ông diễn cải lương tuồng cổ tại thị xã phủ Lạng Thương, lúc hợp, lúc tan, đến năm 1960 mới tan rã.
Năm 1931, tới Lạng Sơn đoàn cải lương của Văn Được khai trương tên là: Tân Việt, đoàn có nhiều diễn viên nổi tiếng xứ Bắc như Sác lốt Thọ, Ba sướng, Hai Thương, Ba Hiển Sáu kình, Văn Mầu, nữ có Bảy Tuyền, Yến Nga, Ba Sánh…Đoàn diễn các vở: Lục vân tiên, Bội phu qủa báo, Khúc oan vô lượng…
Năm 1932, ông Trần Phềnh họa sĩ, lập đoàn hồ Quảng diễn cải lương Triều Quảng, công chúng hâm mộ, đặc biệt xem cảnh trí lộng lẫy, vẽ tả thực lung linh, công chúng gọi là: Cải lương Trần Phềnh. Đoàn có soạn giả, thường dạy cải lương đoàn Bá Chính. Ông là người kèm dạy Lệ Thanh từ bé và nhiều nghệ sĩ danh tiếng cải lương Bắc. Diễn viên có: Bá Quyền, Văn Bắc, Hồng Kỳ, Nguyễn thiện… Đào Khánh Hợi, Thu Nhi, Ngọc Oanh, Kim Tước …Đoàn diễn các vở: Thánh mẫu thượng ngàn, Cảnh làm dâu, Thần công lý, Tam hoàng tử tranh hôn, Lã Bố Điêu Thuyền…của Đoàn Bá Chính. Đặc biệt Trần Phềnh là hoạ sĩ thiết kế trang phục, đạo cụ, sân khấu, sáng tác nhạc cho từng vở diễn, có những bài ca riêng cho các nhân vật.
Năm 1934, đoàn cải lương Hiệp Thành ra mắt công chúng tại rạp Sán nhiên đài, lúc ấy đổi tên là rạp Hiệp Thành. Rạp Hiệp Thành và các đoàn cải lương Hiệp Thành do ông Trương Văn Tố làm chủ, đặt tên đoàn cải lương Hiệp Thành bởi có đội ngũ diễn viên Nam Bắc hợp thành nhiều diễn viên nổi tiếng: Tư Cao, Hải Tùng, Tư Chơi Sáu Hải, Năm Út, Tư Vĩnh, Sáu Kình, Thọ An, Bảy Hậu, Hoan Lạc, Sáu Thảo, Si Mông (hề), Năm Vi (hề)…Đào: kim Thoa, Đào Mão, Thuý Nga, Hồng phấn, Hai Thung, Cẩm Tú,…Đoàn diễn các loại cải lương tuồng cổ truyền thống, đương đại. Một số vở kịch tây chuyển thể cải lương.
Năm 1935, ông Bửu Long (Long Bưởi) lập đoàn cải lương Quảng Lạc có các diễn viên: Đào Mộng Long, Tư An, Ba Thâu, Huỳnh Kỳ, Sĩ Tiến, Văn Bảy, Hai Em, Bảy Cư, Sáu Đào, Văn Mầu,… Diễn viên nữ: Bẩy Cồng, Lý Nương, Bạch Hường, Tường Vi, Ba Liên, Hồng Liên, Mỹ ảnh… Rạp Quảng Lạc mới hội tụ sân khấu tuồng Bắc, nay chuyển sang diễn cải lương Triều Quảng.
Tại Hải Phòng đầu năm 1935, đoàn cải lương ứng Lập công diễn ở rạp Sông Cấm, sau đó diễn ra các tỉnh: Hải Dương, Nam Định, Bắc Ninh…có một số vở cải lương tuồng Phật; Thánh mẫu thượng ngàn, Phật nhập niết bàn…
Từ năm 1930 đến năm 1935, cải lương Bắc diễn các loại: Cải lương Triều Quảng, cải lương xã hội, tuồng tây, tuồng phật.
Năm 1934, Đoàn Cải Lương Ái Liên công diễn tại Hà Nội, có các nghệ sĩ: Ái Liên, Hồng Hiệp, Hồng Liên, Lan Phương, Đào Mộng Long, Hoàng Bách, Tư Sinh, Quốc Dũng, Thọ An… diễn cải lương đương đại, có một số cải lương mang tinh thần cách mạng. Bà Ái Liên là người đầu tiên ở ngoài Bắc hưởng ứng phong trào tân nhạc từ năm 1930, hát những bài lời ta điệu Tây, những bản nhạc Hồng Kông, Pháp… thu đĩa được công chúng hâm mộ. Sau này vào đoàn cải lương bà tiếp tục hát nhạc cải cách và sáng tác một số vở cải lương cách mạng.
Hà Nội còn có đoàn Đồng ấu, Nhật Tân, Quảng Lạc năm 1935, 1936, nghệ sĩ Lệ Thanh, Ngọc Dư, Bích Hợp… vào nghề trưởng thành từ đây.
Năm 1937, đoàn cải lương Quảng Thành công diễn tại phố Bạch Mai, nay là Nhà Văn hoá Quận Hai Bà, diễn viên: Tư Hiền , Nhật Thanh, Hồng Ngọc, Sác Lốt Miều (hề), Ngọc Danh, Mỹ ảnh, Kim Vân, Bạch Tri,…Đoàn có diễn viên tuồng, cải lương, chèo, điện ảnh, nhưng đoàn thường diễn cải lương tuồng cổ.
Tại Nam Định, ông Trần Thành ra mắt đoàn cải lương Bình Minh, nay là rạp Bình Minh tại thành phố Nam Định năm 1937. Đoàn có các diễn viên: Trần Thịnh, Ba lý, Ba Bái, Thành An, Ba tri… diễn chèo cải lương các vở: Lưu Bình Dương Lễ, Tống Trân Cúc Hoa…
Tại Nam Định còn đoàn Long Thịnh, ra đời năm 1938, diễn viên: Kim Liên, Thanh Hải, Cẩm Thuý, Ngọc Toàn, Văn Lộc… diễn cải lương tuồng cổ.
Năm 1938(3), nghệ sĩ Mười Bửu lập gánh Hồng nhật, diễn viên có: Ba Sáng, Bảy Thương, Tư Ban, Sĩ Hoàng, Sáu Đào, Ba Chức. Các diễn viên nữ: Kim Chi, Hồng Liên. Đoàn Hồng Nhật… diễn vào Ninh Bình, Thanh Hoá, Vinh, sang Lào… Cải lương Bắc có sức ảnh hưởng đến mọi miền đất nước.
Năm 1938, đoàn cải lương Đồng ấu Quốc hoa ban, các diễn viên: Lệ Thanh, Ngọc Dư, Bích Hợp, Bạch Yến, Bích Được, Quỳnh Nga, Mộng Dần, Tuấn Sửu, Ba Thiềng, Giang Long, Hề cò, Tư Ban, Bích Lộc… Đoàn diễn các vở cải lương xã hội như Trang tử cổ bồn, Mỵ Châu Trọng Thuỷ…
Tại Hà Nội còn đoàn Tùng Châu, các diễn viên: Huỳnh Thái, Hồng Hiệp, Thái An, Mộng Dung… Đoàn diễn cải lương tuồng cổ, dựng lại những vở cổ, sau một năm tan rã.
Năm 1939, (theo ngọc Văn), tại Nghệ An, Đoàn Hồng thanh ra mắt công chúng, có diễn viên: Ngọc Thanh, Ba Chi, Hề Núi, Thanh Thảo,Kim Thụ… diễn tuồng, chèo, cải lương. Sau đó thêm đoàn đồng tử âu ca, Đồng ấu. Hai đoàn chuyên diễn cải lương có nghệ sĩ ái Sơn, Hề Thịnh…. Các Đào: Ngọc Trai, Ngọc Vân, Băng Tâm, Lệ Bình, Lệ Tình… Diễn các vở: Hai bàn tay máu, Chiếc ngai vàng, Con thú dữ, Vì nước của ái Sơn.
Cải lương Bắc sau năm 1930, xuất hiện những vở cải lương yêu nước, đó là sự ảnh hưởng phong trào đâú tranh cách mạng tác động đến văn nghệ sĩ, diễn viên. Khơi dậy lòng tự hào cho công chúng. Vào những cải lương phát triển mạnh, hàng chục đoàn cải lương từ Nam ra Bắc diễn như: ánh Ngọc, Tân Thinh, Việt Kịch năm châu, Phụng hảo, Hồng nhật, Phi phụng, Trần Đắc, Phước Cương, Tân hồng ban, Nhạn trắng… Những đoàn cải lương Nam ra diễn trên đất Bắc, tạo công chúng và truyền nghề vững mạnh cho cải lương Bắc.
Cải lương Bắc từ năm 1930 đến năm 1945, tại Hà Nội có 18 đoàn, 4 đoàn đồng ấu, tại các tỉnh có từ hai đến bốn đoàn như Nam Định, Bắc Ninh, Thanh Hoá, Hải Phòng…Tổng số đoàn cải lương có 32 đoàn cải lương. Tuy nhiên, những đoàn này hợp tan bất ổn, sau năm 1945 tan rã gần hết. Một số đoàn chạy ra kháng chiến, hội đô ở liên khu III Thanh Hoá, số còn lại ở Hà Nội. Sau năm 1945, Hà Nội còn hai đoàn Kim Chung, Chuông Vàng, Thanh Hoá còn bốn đoàn.
...............................................................................................................................
3* Trích trang 90, Nghệ thuật cải lương trên đất Bắc
của ngọc văn - Viện sân khấu - Trường Sân Khấu Điện Ảnh: 2000
Cải lương Bắc còn tám đoàn trên khắp các tỉnh miền Bắc, Sau năm 1945, cải lương Bắc chia thành hai ranh giới: cải lương cách mạng kháng chiến, diễn những vở lịch sử, dân gian, một số vở đương đại phục vụ lớp người mới. Cải lương vùng tạm chiếm diễn cải lương tuồng cổ, kiếm hiệp, hương sa, cải lương tình cảm xã hội. Những câu chuyện tình lãng mạng, cải lương thương mại. Cải lương Bắc qua ba giai đoạn hình thành - ra đời - phát triển, ra đời các đoàn cải lương có khuynh hướng phong cách riêng. Qua từng giai đoạn lớn mạnh, có đội ngũ tác giả, diễn viên, công chúng số đông hưởng ứng. Đội ngũ tác giả đầu tiên của cải lương Bắc như: Đoàn Bá Quyền, Nguyễn Đăng Phong, Đoàn Bá Chính, Phạm Công Bình, Phạm Ngọc Khôi, Ngọc Văn, Sĩ Tiến, Vũ Đào, ái Sơn, ái Liên (diễn viên)… Số tác giả cải lương Bắc không đông, nhưng đủ để có vở diễn cho một số đoàn tạo phong cách riêng. Tác giả cải lương Bắc xưa và hiện nay thường quá ít so với tác giả cả lương Nam, đây là một điểm yếu, cho thấy tác giả cải lương rất khó đào tạo, không như diễn viên.
Diễn viên cải lương Bắc có đội ngũ khá đông nhiều người nổi tiếng như: ánh Tuệ, Bích Thuận, Văn Thái, Mộng Lan, Lữ Nhàn, Lệ Sửu, Văn Mão, Tường Vi, Thuý Liễu, Lệ Mai, Hải Tí, Văn Thìn, Sĩ Thành, Tư Giã, Phan Ninh, ái Liên, Bích Được, Bích Hợp, Khánh Hợi, Ba Bí, Tám Ngân, Văn Khoa, Ba Thiện, Ngọc Văn, Văn Giáo, Sáu Phú, Hai Giò, Chín Sâm, Ba Nhung, Tư Kình, Tư Liên, Tư Tín, Hoa Ngân, Trung Cao, Hồng Ngọc, Sác Lốt Miều, Năm Vi, Văn Nhân, Bá Nghĩa, Văn Khoa, Ba Thiện, Ngọc Sắc, Tư Thản, Văn Đức, Vương Cần, Thanh Liên, Ben La Như Nhung, Bảy Cồng, Tư Đông, út Dân, Quỳnh Tư, Năm Bảy, Kim Vân, Kim Ngôn, Mỹ ảnh, Hồng Phấn, Kim Lộc, Hai Nghi, Đào Mộng Long, Hồng Hiệp, Vương Cẩm, Nhật Thanh, Đình Xuân, Lệ Thanh, Ngọc Dư, Anh Đệ, Tuấn Sửu, Tuấn Nghĩa, Kim Thoa, Kim Chung, Kim Xuân, Hồng Liên, Gia Kình, Văn Suý, Xuân ứng, Huỳnh Thái, Chính Phú, Năm Ngũ (chèo), Lê Hậu, Trần Mão, Văn Tý, Bé Thìn, Hề Thọ, Hề Thịnh, Ngọc Vân, Mỹ Duyên, Băng Tâm, Lệ Bình, Tư Sinh, Tùng Giang, Tư Hiền, Sỹ Cường, Thu Chung, Thuý Nga, Bích Liên, Ngọc Oanh… Số diễn viên có hàng trăm người rải trên hàng chục đoàn cải lương khắp các tỉnh miền Bắc. Cải lương Bắc phát triển vững mạnh, hình thành phong cách cải lương Bắc, mỗi giai đoạn có khuynh hướng riêng:
- Năm 1926, ra đời cải lương Bắc, diễn cải lương xã hội
- Năm 1930, cải lương lãng mạn
- Năm 1932, cải lương Triều Quảng Trần Phềnh.
- Năm 1938, cải lương tuồng Phật
- Năm 1939, cải lương tuồng Tây
- Năm 1940, cải lương yêu nước.
Cải lương Bắc, quá trình hình thành, phát triển giai đoạn 30 - 45 đã có những đoàn cải lương lớn, những nghệ sĩ, tác giả chuyên nghiệp, tạo dựng khuynh hướng phong cách cải lương Bắc.
3.1. Nghệ thuật diễn.
Nghệ thuật diễn cải lương Bắc xuất phát từ các thày tuồng Miền Nam ra Bắc như Sáu Cương, Tư Khôi, Mộng Vân, Năm Châu, Năm Cần Thơ… Sau đó, có các thày cải lương Bắc như Đoàn Bá Chính, Đoàn Bá Quyền, Trần Phềnh, Ngọc Văn, ái Sơn, Trần Thịnh… Những thày cải lương từ ba nguồn sang dạy: cải lương Nam, thày tuồng, thày chèo, chuyển sang dạy cải lương. Về cơ bản các thày học lối diễn cải lương tuồng cổ, cải lương đương đại từ cải lương Nam, biến hoá vào cải lương Bắc tạo hình thức ca diễn riêng.
Cải lương Bắc có nguồn gốc xuất sứ từ cải lương Nam, nên sau giai đoạn 1930 – 1945, cải lương Bắc diễn như bản sao cải lương Nam. Dù nghệ thuật diễn, ngôn từ, hành động, có khác đôi chút, cả trang phục… nhưng về cơ bản gần giống cải lương Nam. Các diễn viên ca bằng tiếng Nam, đó là điểm dễ nhận ra sự lặp lại cải lương Nam, dấu ấn này còn ảnh hưởng đến tên biệt danh các diễn viên như Ba Thiềng, Chín Sâu, Năm Vi… Đặt tên theo phong tục của các nghệ sĩ Nam Bộ. Tình trạng ca cải lương tiếng Nam chiếm hầu hết các diễn viên kéo dài đến năm 1990, cải lương Bắc mới chấm dứt ca diễn cải lương tiếng Nam, chuyển sang diễn cải lương tiếng Bắc. Nghệ thuật diễn cải lương Bắc, ảnh hưởng cải lương Nam, ảnh hưởng tuồng cổ, một số ảnh hưởng tuồng chèo. Sự ảnh hưởng ngôn từ, hành động vào cải lương Bắc từ tuồng, chèo, đây là phong cách riêng của cải lương Bắc. Phong cách pha trộn truyền thống vào cải lương Bắc, vào giai đoạn phát triển mạnh. Nghệ thuật diễn qua các bước biến đổi:
- Bản sao cải lương Nam
- Biến đổi ngôn ngữ hành động ca diễn.
- Tạo phong cách riêng.
Nhiều nghệ sĩ biểu diễn cải lương Bắc, tạo phong cách ca diễn đưa chất dân ca Bắc Bộ, ngâm thơ, sa mạc, ru con… tạo phong cách cải lương Bắc hấp dẫn, mang đặc phẩm sân khấu vùng miền Bắc Bộ. Cải lương Bắc qua những giai đoạn phát triển, tạo chỗ đứng trong công chúng tồn tại, phát triển thành hình thức sân khấu đồng bằng Bắc Bộ.
3.2. Âm nhạc, mỹ thuật.
a. Âm nhạc.
Cải lương Bắc tái lập lại bước đi ban đầu của cải lương Nam, ra đời các ban nhạc tài tử phố Lò Đúc, Hàng Giấy, tài tử của Giáo Vân, những người chơi đàn tự do, Kim Sinh, Đinh Lạng, Nhạc Tấn… hoà tấu những bài bản tài tử Nam Bộ. Ngày ấy, họ coi là những người sành điệu, tiếp nhận những trào lưu âm nhạc mới lạ từ năm 1923,… dẫn đến sự ra đời các ban nhạc tài tử, ban hát cải lương tạo dựng lớp nhạc công đàn ca cải lương. Nếu nghệ thuật diễn gần như một bản sao của cải lương Nam thì ca nhạc tài tử lại mang phong cách riêng, dù hoà tấu những bản nhạc tài tử Nam Bộ, nhưng những lối nhấn vuốt lại nghiêng về cung Bắc. Tổ chức dàn nhạc không theo biên chế từng ban tài tử mà theo nhóm có mõ, sênh tiền, song loan, phách… đây là sự khác biệt tài tử của cải lương Bắc.
Những dàn nhạc tài tử cải lương các ban hát cải lương Hà Nội thường sử dụng biên chế dàn nhạc: đàn thập lục (đàn chủ của dàn nhạc), đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tứ. Phương pháp hoà tấu: lục nổi, cò chìm, đàn Kìm giữ nhịp cho ca. Song loan, sênh tiền, phách… điểm nhịp để vào ca. Những nhạc công cải lương nổi tiếng: Trần Minh, Văn Ngọ, Minh Khanh, Xuân Đông, Ba Hưng, Văn Thập, , Đinh Lạng, Kim Sinh, Đình Long.... Năm 1936, cải lương Bắc có dàn tân nhạc trong ban hát của nghệ sĩ ái Liên chuyên đệm cho ca tân nhạc. Ca nhạc cải lương Bắc tạo cái riêng cấu trúc dàn nhạc, kỹ thuật hoà tấu, nội dung âm nhạc, năm 1930, xuất hiện sáng tác ca nhạc vào vở mới.
Năm 1932, Trần Phềnh sáng tác các điệu Hồ Quảng, nhạc Tầu vào cải lương, ngày ấy có mốt ca cải lương pha Quảng, hoặc hát bài tây thi pha Quảng nghe lạ tai hấp dẫn. Ban hát Trần Phềnh, thường có những bài Quảng do ông sáng tác như: Chiều Xuân, Trường hận, Hoài vọng… phần ca có hai phương pháp: ca bài bản cải lương, ca hơi Quảng, ca bài Quảng, hoặc pha hơi Quảng.Pha hơi Quảng trong bài bản cải lương ca nguyên bản bài bản sau chuyển qua nói lối ca hơi Quảng, hoặc trong một bài bản ca cải lương, giữa bài chuyển hơi cải lương sang ca hơi Quảng… Những vở cải lương tuồng Tầu ca nhiều hơi Quảng, bài Quảng, nhưng những vở tuồng Việt người ca chuyển hơi Quảng để được hoan nghênh. Cải lương Bắc, ca nhạc đầu tiên ca bài bản cải lương, tiếp đến ca hơi Quảng, sau năm 1933, còn đậm màu ca nhạc lãng mạng.Các ban diễn ca nhạc ảo não, sướt mướt như các vở: Tình Lan Điệp, Ai lau nước mắt cho cha… Năm 1935, ca tân nhạc những bài hát chào khán giả, nhảy van… là những ca khúc Pháp, Anh, Hồng Kông… Nhưng nghệ thuật ca chưa có lối ca tân cổ, thường cổ nhạc, tân nhạc là những mảng ca tách rời nhau. Kỹ thuật ca phát triển đa phong cách:
- Ca cải lương
- Ca Triều Quảng
- Cải lương pha Quảng
- Cải lương – Tân nhạc
Tổng thể ca nhạc cải lương, phát triển các hình thức ca, đặc biệt xuất hiện một số hình thức ca ngâm thơ, sa mạc, ru con, đọc kinh, ru kệ… vào cải lương. Ca nhạc cải lương Bắc có mầu sắc riêng phong cách đồng bằng Bắc Bộ, kỹ thuật ca mới vào nhạc cải lương, hấp dẫn có tính tân thời.
B. Mỹ thuật.
Mỹ thuật cải lương, từ năm 1930 đến năm 1945, phát triển theo khuynh hướng vở diễn, ảnh hưởng các hướng cải lương tuồng cổ, tuồng Tầu, tả thực và ước lệ của kịch nói. Các ban hát lớn tại Hà Nội có hoạ sĩ riêng, Sán nhiên đài, Đồng ấu Quảng Lạc. Đại Quốc hoa có hoạ sĩ Mộng Long, Mộng Goòng, Trọng Can… Phần lớn sân khấu trang trí tả thực vẽ cầu kỳ, chi tiết tranh thủy mặc, trang trí lộng lẫy, hoành tráng. mhững vở cải lương hát nhạc Tây có những lớp diễn cảnh thật, đồ thật… Các ban hát ảnh hưởng nhạc kịch opera Pháp, mở màn có lớp chào khán giả, đưa các đào kép hoá trang theo nhân vật đứng hát. Hoá trang vẽ my, vẽ mặt các nhân vật kép đỏ, kép rừng xanh, kép mặt trắng… Các đào vẽ my, hoá trang đậm theo nhân vật. Phục trang cải lương tuồng cổ, áo tay nước, đi hài, mũ lông chim,… tuỳ theo nhân vật. Trang phục, hoá trang theo hình mẫu các nhân vật có tính tả thực. Kép trang phục giống như tuồng cổ. Mỹ thuật cải lương Bắc tiến nhanh bởi kế thừa cải lương Nam, tuồng cổ sớm hoàn chỉnh phong cách, khuynh hướng. Mỹ thuật cải lương xưa, các hoạ sĩ một mình tự vẽ ma két, thực hành công phu, chi tiết tả thực như thật. Sân khấu mang tính hình thức, tìm mọi cách chinh phục khán giả, mỗi hình thức cố ý tìm hình thức chiếm lĩnh công chúng.
Mỹ thuật cải lương Bắc các hoạ sĩ Mộng Long, Trần Phềnh, Mộng Goòng, Trọng Can… Mỹ thuật mới đầu mang theo trang trí tuồng cổ. Riêng cải lương Trần Phềnh trang trí theo tranh Tàu, sân khấu triều Quảng. Những vở cải lương đương đại trang trí tả thực. Người diễn viên tìm cách xâm nhập vào trái tim công chúng trở thành thần tượng của họ bằng ngoại hình, trang phục, hoá trang mang hình mẫu một nhân vật ấn tượng ngay khi bước ra sân khấu và quá trình diễn.Mỹ thuật sân khấu, mỗi ban hát, mỗi hoạ sĩ tạo ấn tượng riêng thành phong cách nhà hát, ấn tượng một vở diễn, làm nhiều người xen ngoài giọng ca, hình thức đẹp của một cô đào, một chàng kép hát, nhiều người còn mê chính cảnh trí của ban hát. Mỗi lần có vở diễn mới lại đến xem những cảnh sân khấu lộng lẫy, phục trang óng ánh kim tuyến, kim sa… Bằng mọi hình thức, dáng vẻ sân khấu cải lương chinh phục công chúng ngay hình thức bên ngoài, những vẻ đẹp đập vào mắt người xem. Sau đó là câu chuyện kịch ly kỳ, trắc trở, tình tiết éo le, bi luỵ, làm người xem luyến tiếc mãi một ban hát với tất cả ấn tượng bị khuất phục. Mỹ thuật cải lương, ngay cửa rạp nhìn lên mỗi vở mới vẽ quảng cáo cảnh trí, trưng ảnh những đào kép nổi tiếng hạng sao, siêu sao mà công chúng hâm mộ. Mỗi ban hát một hướng diễn cải lương trang trí theo phong cách riêng, cải lương Đồng ấu, Nhật tân ban chuyên hát những điệu Quảng Trần Phềnh, hoạ sĩ Trần Phềnh, trang trí đến mức ban cải lương Đồng ấu đổi thành tên gọi chung là cải lương Trần Phềnh. Tên hoạ sĩ thành tên ban hát, được công chúng đặt tên và suy tôn, là chuyện xưa nay không thể có trong bất cứ ban hát nào, đó là sự thành công cao. Mỹ thuật cải lương Bắc có các hướng:
- Mỹ thuật cải lương tuồng cổ
- Mỹ thuật tả thực
- Mỹ thuật cải lương tuồng Tầu.
Mỹ thuật trang phục, hoá trang cải lương Bắc hoàn chỉnh từ khuynh hướng, phong cách theo quan niệm của mỗi ban hát, mục đích chinh phục công chúng bằng mọi hình thức nghệ thuật. đó là mục đích tồn tại, doanh thu của từng ban hát, nhưng phần nào lại nói lên sự trân trọng khán giả, đáp ứng thị hiếu, tìm cái khoái lạc trong nghệ thuật. Mọi hoạt động nổi bật của sân khấu cải lương vì mục đích doanh thu, nhưng lại thành công vì nghệ thuật. Mỗi giai đoạn cải lương Bắc, là từng bước trưởng thành nghệ thuật, phát triển cải lương với số lượng các ban hát, đội ngũ tác giả diễn viên, tác phẩm và công chúng.
[1][1] Trích trang 103, Lịch sử sân khấu Việt Nam tập 2. Sách đã dẫn.
-Tuấn Giang-
Nguồn: http://www.vanchuongviet.org