Truyện Thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản

(Nguyễn Văn TrungIn trong cuốn "Những vấn đề ngữ văn " (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN) 

Chúng tôi ghi nhận được một số điểm liên quan đến truyện Thầy Lazaro Phiền, xuất bản ở miền Nam năm 1887, như sau:

1. Về kỹ thuật viết tiểu thuyết theo Tây phương

Chúng tôi đề nghị hiểu tiểu thuyết theo lối Tây phương là một thể văn xuôi kể một câu chuyện tuy là tưởng tượng nhưng vẫn là dựa vào thực tế đời sống hằng ngày, nghĩa là có thể có thực; và người đọc không thể dự đoán trước được mọi diễn biến hay kết thúc của câu chuyện kể (nghĩa là truyện không nhất thiết phải có hậu). Nếu là đoản thiên thì phải viết thế nào để người đọc chú ý ngay đến câu chuyện kể, và nhất là kết cấu câu chuyện làm sao để người đọc phải đợi đến dòng chót mới biết được manh mối câu chuyện.

Chúng tôi coi truyện Thầy Lazaro Phiền đã đạt ít nhiều những tiêu chuẩn viết tiểu thuyết đoản thiên theo lối Tây phương:

a) Trong mấy lời nói đầu (tặng bạn đọc cùng lớp, nói với người đọc) tác giả không nói gì liên hệ đến câu chuyện sắp kể, mà chỉ giãi bày tâm sự gồm những mơ ước, dự định làm văn hoá và trình bày quan niệm viết truyện cuả tác giả nhằm hai mục đích:

- Viết những chuyện đời nay, chuyện bình thường cuả những con người bình thường và cho những người bình thường đọc, không phải những chuyện về những anh hùng tài đức đời xưa đã được nói đến nhiều trong thơ phú;

- Viết cho người ngoại quốc biết người Việt Nam cũng chẳng thua kém ai về tài trí, và làm cho họ hiểu điều này bằng cách dùng ngay chính lối viết truyện ngắn, tiểu thuyết cuả Tây phương. Trong hoàn cảnh lúc đó, người ngoại quốc trước hết và chủ yếu là người Pháp, là những người đang cầm quyền cai trị đất nước. Điều này sau đó đã được chứng minh, vì có người Pháp dịch đoản thiên kể trên ra Pháp văn; thậm chí, đến ngày nay, chúng ta vẫn thấy quả thật là tác giả đã sử dụng khéo léo kỹ thuật truyện Tây phương.

b) Trong phần truyện, tác giả không dùng những tựa đề gợi ý như "chương", "hồi" theo kiểu truyện Tàu, mà chỉ ghi nhận những phần, những đoạn câu chuyện bằng một khoảng cách, khoảng trống, với những ký hiệu I, II, III...

Tóm lại, người đọc không thể dựa vào bất cứ một gợi ý nào cuả tác giả để dự đoán diễn tiến những sự việc sắp xảy ra. Từ những dòng mở sầu, người đọc bắt buộc phải theo sát người kể, chỉ biết được những gì tác giả vừa kể đến. Đạt được yêu cầu này truyện kể mới có tính cách hấp dẫn, và tạo ra thích thú, ngạc nhiên, nhất là dẫn đến những kết thúc bất ngờ.

c) Câu truyện kể có nhiều tình tiết, nhiều sự kiện được trình bày như thể không có liên hệ gì với nhau, để chỉ đến cuối truyện mới cho thấy mối liên hệ hoặc nguyên nhân. Chẳng hạn sự xuất hiện của người vợ tên quan ba.

d) Hư cấu cái có thể có thực trong đời sống hằng ngày của người dân thường, không phải cái ước lệ, điển hình, lý tưởng. Đôi khi cái có thể thực chính là cái thực nhưng vẫn phải xem là tưởng tượng, là chỉ có thể có thực. Đó là thủ pháp cuả tiểu thuyết. Ngày nay, người viết tiểu thuyết tuy kể một câu chuyện xảy ra có thực, nhưng anh ta vẫn có thể minh định rằng "đây chỉ là tiểu thuyết, nghĩa là chuyện tưởng tượng. Nếu chẳng may có sự trùng hợp với ai đó thì chỉ là sự thể xảy ra ngoài ý muốn của tác giả". Nhưng có những trường hợp ngược lại, người viết tiểu thuyết hoàn toàn tưởng tượng một chuyện không có thực, có nhiều tình tiết phi lý khó tin, nhưng tác giả của nó vẫn có thể minh định rằng "đây là một truyện có thực, người viết đã dựa vào những tài liệu chắc chắn chính xác cuả những cơ quan chức năng"... Sở dĩ nói cái thực vì như thế sẽ không phải chuyện tưởng tượng, vì chính cái thực đã quá sức tưởng tượng rồi, đã đủ hấp dẫn người đọc rồi. Do đó, tác giả có thể ghi rõ địa danh, thời gian xảy ra câu chuyện, hoặc dựa vào một biến cố lịch sử vừa xảy ra hãy còn nóng hổi, đang còn gây xúc động lòng người. Truyện Thầy Lazaro Phiền đã thể hiện những điều kể trên.

Chúng tôi trích dẫn lại ở đây vài đoạn tư liệu lịch sử đương thời ghi lại vụ tàn sát giáo dân ở Bà Rịa:

"Tỉnh Biên Hoà thì là nhơn số bổn đạo đông, ở rải rác theo mấy chỗ lớn, khi ấy các quan truyền bắt các bổn đạo hết mà cầm tù, nhằm trong tháng Août năm 1861. Quan ra lịnh truyền cho các làng mà có bổn đạo ở thì phải làm sổ bổn đạo hết nam phụ lão ấu cho kỹ càng... Khi lấy sổ rồi, thì mỗi làng nắm lấy sổ ấy mà đi bắt bổn đạo đem nộp cho các tổng làng mình, lên tổng thì bắt đóng trăng lại, cùng thích tự mỗi người hai bên má bốn chữ "Tả đạo Biên Hoà". Có ý hễ mấy người bổn đạo ấy có thoát đi đâu thì biết mà bắt, như có kẻ đã trốn khỏi còn sống sau này thì dấu thích tự ấy còn vậy hai bên má cho đến chết. Thích tự đau đớn như vậy rồi thì làm gông đóng lại mà dẫn đem vào trong bốn cái ngục cầm đó"...

"Ngục chánh thì tại phủ, cách xa dinh quan phủ chừng hai trăm thước tây, tại làng Phước Lễ, ngục ấy thì để cầm đàn ông, số mấy người tù ấy gần ba trăm người, còn ngục khác thì lập tại làng Long Kiển cách xa tù kia bốn năm ngàn thước, ở đó cầm đàn bà và con nít số tới 135 người. Còn ngục thứ ba thì ở tại làng Long Điền (Thành) bên hữu đàng đi Bà Rịa xuống Đất Đỏ ở xa đàng đi nhà thờ Thành bây giờ một ít. Ở đó cầm đờn bà và con nít còn dư lại, nhơn số đặng 125 người, ngục này ở tại làng Phước thọ, gần ở giữa họ Đất đỏ...

"...Hồi ấy thì là trúng mùa mưa, là tháng Septembre 1861, tù thì nó bắt nằm dưới đất ướt át trong mùa mưa như vậy, nên có nhiều người mang bịnh mà bỏ mình. Nó không cho đi đâu nới ra một chút, đi sự cần cũng không cho, phải mượn mấy đứa nhỏ đi đổ xúc xơ. Vậy trong tù thế ấy thì hôi thúi quá, ước chớ chi chết thì là hơn sống mà cực thúi quá...

"... Hồi nhà nước Lang Sa lấy tỉnh Biên Hoà, khi ấy quan dạy phải chất gai chè mà bổ vi bốn cái khám cho tù đạo đừng trốn đặng, và có ý sâu độc là lấy đó làm bổi mà thiêu sống tù đạo khi nguy hiểm.

“Ngày 7 tháng Janvier 1862, có ba chiếc tàu thiếc xuống tới sông chỗ có hai ngả (Cỏ May), một ngả về Bà Rịa, một ngả về Chợ Bến, có ý định đánh cứu người có đạo bị lao tù ở đó.

“Các quan An Nam thấy vội chống cự không xuôi, thì thừa dịp giãn ra vây, dạy chất lửa đốt bốn cái khám, tới đêm ấy thì thấy lửa phát cháy lên theo phía mấy cái khám, thì liền biết là đốt khám, biết mấy người bổn đạo đó đã bị chết thiêu rồi. Quả thật sáng ngày thì chẳng còn thấy chi, thấy đống tro cùng những xác cháy mà thôi, nơi khám cầm tù đàn ông.

“Nhưng vậy chớ cũng có ít người bị bổn đạo trong đám đốt thiêu ấy chạy qua lửa mà ra khỏi cũng là sự lạ, nhờ mấy người ấy thuật lại quân dữ làm thế nào cùng nói tiểu vẽ ra những sự độc ác quân lính giữ ngục, chúng nó mỗi đứa có giáo mà canh giữ ai chạy ra thì nó đâm mà xô vào lửa, nên ít người mà chạy khỏi đặng...

"... Thuở ấy thì có một điều này đáng nhớ là bổn đạo đều than trách về sự độc ác của quan quân dữ tợn bất nhơn, nhưng mà khen ngợi những người ngoại đạo xứ Đất Đỏ khéo lo. Những kẻ ấy không theo phe kẻ bắt đạo, có lòng thương xót giúp đỡ những người bổn đạo bị bắt bớ, giấu đút che đậy, có lúc đem về nhà mình mà giấu người có đạo cho khỏi tay quan quân bắt, nuôi dưỡng cho ăn, giúp tiền bạc, nên dể hiểu Cha Trí ở lại trong họ đặng trong lúc cấm kín bắt bớ như vậy mà quan quân chẳng hay biết. Khi ấy bổn đạo nhơn số thì bớt nhiều lắm, vì hồi chạy lên trú tại Bà Rịa đó thì bị bịnh thiên thời, lớn nhỏ gì chết hết nhiều, bởi đó bổn đạo tan tác đi chỗ này chỗ kia. Còn những đờn bà con nít ở trong ngục mà chạy ra đặng thì phải lửa cháy, phải bịnh hoạn, nhiều người mồ côi chết cha chết mẹ bơ vơ không nơi nương tựa phải lên Saigon, tốp thì vào nhà thương điều trị thuốc thang, tốp thì vào nhà mồ côi bà phước..."[1]

Theo tài liệu ghi chép này thì số người bị thiêu sống trong bốn trại là 444 người. Hiện nay vẫn còn một nhà nguyện nhỏ được dựng để tưởng niệm những người bị chết thiêu và cốt tro được gom chung vào một mồ tập thể có bảng ghi tên những nạn nhân và bia khắc bằng tiếng Latinh, quốc ngữ như Nguyễn Trọng Quản đã chép lại trong truyện. Nhà nguyện này bây giờ nằm trong khuôn viên nghĩa địa họ đạo Bà Rịa. Chúng tôi có nhờ một người công giáo lớn tuổi gốc Bà Rịa tìm xem còn gốc tích gì về ngôi mộ của thầy Lazaro Phiền, nhưng không thấy gì, chỉ còn lại cách tìm tra sổ Tử của họ đạo. Tuy nhiên việc tìm xem nhân vật có thật hay không chỉ là vì tò mò, không dính dáng gì đến cuốn truyện vốn chỉ là một tác phẩm hư cấu.

2. Về tư tưởng chủ đề

Theo chỗ chúng tôi nhận định, chủ đề chung của truyện Thầy Lazaro Phiền là tội lỗi và ơn tha thứ. Đây là chủ đề quen thuộc trong văn chương chịu ảnh hưởng Kitô giáo. Do đó có thể nói, truyện Thầy Lazaro Phiền hoàn toàn theo Tây phương cả về kỹ thuật viết lẫn nội dung tư tưởng chủ đề.

3. Giao lưu văn hoá

Ngày nay, nếu ai đã đọc Stéfan Sweig rồi đọc truyện Thầy Lazaro Phiền không thể không nghĩ đến mối quan hệ giữa đoản thiên cuả Nguyễn Trọng Quản và đoản thiên Amok hay Người điên Mã Lai của Stéfan Sweig[2]. Dĩ nhiên câu chuyện kể thì khác nhau, nhưng cốt truyện, cách vào truyện thật giống nhau, vì cả hai đều mở đầu bằng sự kiện tác giả xuống tàu và gặp một người sẽ là nhân vật chính có một cuộc đời và một tâm sự bi thảm. Có thể giả thiết là có một cuộc “giao lưu văn hoá” đưa đến một phóng tác? Ai đọc của ai rồi phóng tác? Nguyễn Trọng Quản in truyện Thầy Lazaro Phiền năm 1887, kể một câu chuyện xảy ra vào năm 1867. Stéfan Sweig sinh năm 1881, xuất bản truyện Amok năm 1922, kể câu chuyện xảy ra năm 1912. Như vậy không thể nghĩ rằng Nguyễn Trọng Quản biết và đọc Stéfan Sweig, nhưng có thể nghĩ rằng Stéfan Sweig đọc Nguyễn Trọng Quản qua bản dịch tiếng Pháp. Là người hay đi du lịch nhiều nơi, kể cả Đông Nam Á thì rất có thể ông đã đọc tập Recueil cuả Chéon[3].

Chúng tôi đã nhờ người tìm trong các hồi ký ức của Stéfan Sweig xem tác giả có nói gì về nguồn cảm hứng của ông khi viết những truyện như Amok nhưng chưa tìm ra dấu vết. Nếu như giả thuyết này được chứng nghiệm thì thật thú vị. Hoặc có thể giả thuyết rằng cả Stéfan Sweig và Nguyễn Trọng Quản đều đọc một truyện nào đó của Tây phương, như ông Phạm Văn Phúc, giảng viên khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm TP. HCM, đã nêu ra? Giả thuyết này cũng có thể nêu lên để tìm kiếm.

4. Ảnh hưởng

a) Đối với quần chúng: Cho đến nay chúng tôi chưa tìm được tài liệu nào cho biết dư luận người đọc đương thời, hoặc của người đọc vào những năm đầu thế kỷ XX... Tuy nhiên có thể nêu lên giả thuyết đoản thiên cuả Nguyễn Trọng Quản ít được chú ý và ưa thích vì ba lý do chính dưới đây:

* Lối viết theo Tây phương: Có lẽ còn quá mới, xa lạ đối với cảm nhận của dư luận đã quen thuộc với lối viết truyện Tàu: câu chuyện bao giờ cũng có hậu, người hiền được gặp lành, kẻ ác bị trừng trị; câu văn biền ngẫu đối xứng; truyện có hồi có đoạn, lúc vào đầu luôn có báo hiệu trước những chủ đề muốn nêu.

Trong truyện Thầy Lazaro Phiền, vợ thầy Phiền hiền lành chung thuỷ, lại phải chết oan ức, còn vợ tên quan ba - kẻ gây ra tội ác - lại không bị trừng phạt gì cả...

Truyện cũng còn là một thứ văn viết theo lối Tây phương để đọc một mình trên bản viết, phải tập trung tinh thần mới theo dõi sát được diễn tiến câu chuyện; không phải truyện ta viết theo truyện Tàu, lời văn viết nhưng thật ra là để nói, để kể to tiếng cho người khác nghe nên cần có chương hồi, có đoạn giáo đầu để gợi ý nhắc nhở, và lời văn cần đối xứng, nhịp nhàng, biền ngẫu để dễ đọc, dễ nhớ.

* Tâm lý nhân vật: Tâm lý ba nhân vật chính trong truyện có lẽ không phù hợp với tâm lý người miền Nam là bộc trực, có gì nói thẳng ra, "nói phứt cho rồi", không để bụng như người Trung hay người Bắc. Khoa tính tình học (caractériologie) phân biệt tính tình đệ nhất đẳng (primaire) và đệ nhị đẳng (secondaire). Tâm lý "nói phứt cho rồi" bộc lộ rất rõ trong nhiều truyện của Hồ Biểu Chánh. Trái lại, trong truyện Thầy Lazaro Phiền, nhân vật chính không hề mở miệng thắc mắc, chất vấn người vợ mà cứ im lặng, rồi để mặc cho sự nghi ngờ và ghen tuông sai khiến hành động của mình. Bà vợ thầy Phiền cũng vậy, tuyệt đối im lặng, chỉ nói một lời trước khi chết. Thái độ cuả vợ chồng thầy Phiền tương tự như thái độ của đôi vợ chồng trong truyện Thiếu phụ Nam Xương: cái bóng của người vợ in trên vách mà đứa con nói là của bố nó cứ đến tối mới về, đã gây ra sự hiểu lầm và dẫn đến bi kịch vì không có trao đổi, chất vấn, kiểm tra, để giải toả ngộ nhận...

* Lý do tôn giáo: Chủ đề truyện là những khái niệm Kitô giáo, còn khá xa lạ đối với người đọc ngoài Kitô giáo. Tác giả đã muốn giới thiệu truyện của mình cho người đọc không phân biệt tôn giáo, nên mới in ở một nhà xuất bản đời, không phải nhà in Tân Định của Công giáo. Tuy nhiên, đối với người không Công giáo, những gì bên Công giáo không những chỉ xa lạ mà còn có thể gây ác cảm nữa, nên khó được đón nhận. Khi vừa đọc nhan đề truyện, tên tác giả, và nếu thử đọc giòng đầu, thì khung cảnh, các nhân vật rồi nội dung, đề tài truyện đều có thể tạo những phản ứng "dội" lại.

* Nhan đề của truyện: Giá tác giả đặt cho truyện của mình một cái tên kiểu "Cành hoa trắng điểm", "Giọt máu chung tình", "Mối hận thiên thu" ... thì có thể mọi chuyện sẽ khác đi. Đằng này tác giả lại đặt cái tên "thầy Lazaro Phiền" làm công chúng Việt Nam nghĩ ngay đây là một "truyện Thánh tử đạo" do một tu sĩ Kitô giáo viết ra để "phổ biến nội bộ" trong cộng đồng Kitô giáo, một cộng đồng xưa cũng như nay vẫn là thiểu số so với dân số Việt Nam. Tuy thực ra tên người lại rất hợp với nội dung truyện lấy Kitô giáo làm khung cảnh. Lazarô là tên hai nhân vật trong Kinh Thánh (Tân ước). Một người là một trong số các thân hữu của Đức Chuá Giêsu chết đi được làm cho sống lại, và một người là kẻ nghèo khó trong ngụ ngôn về người giàu xấu và Lazarô, người nghèo ăn mày ngoài cửa nhà giàu (Luca. 16, 19 tt). Còn tên Phiền cho ta thấy đúng là đời người phiền muộn. Sự đau khổ buồn phiền của thân phận con người ở đời kêu gọi tha thứ và ơn cứu độ.

* Cái tên tác giả: cái tên họ chính "Nguyễn Trọng Quản" thì bình thường thôi, nhưng ba mẫu tự P.J.B. đứng trước tên Việt ấy khiến cho độc giả nghĩ ngay: đây là một "dân Tây", nghĩa là một người Việt đang sống trên đất Việt mà lại đã từ bỏ quốc tịch Việt để "vào làng Tây". Một con người như thế bị đánh giá rất thấp về phương diện đạo lý cũng như về mặt tinh thần. Bởi thế truyện của một Nguyễn Trọng Quản thì có thể được tiếp đón như đã đón nhận Hồ Biểu Chánh. Còn P.J.B. Nguyễn Trọng Quản thì lại khác.

Cũng cần nói thêm sự kiện này: người Việt nói chung ít phân biệt được người Việt có tên thánh với người Việt quốc tịch Pháp ở miền Nam. Bởi thế một người Kitô hữu Việt Nam thường không dùng tới tên thánh trong sinh hoạt hằng ngày. Trước 30-4-1975 phải đổi từ Pétrus Ký sang Trương Vĩnh Ký, tên nhà văn hoá này mới được tồn tại trên bảng tên trường. Và một bác sĩ tên Trần Văn Louis đã phải đổi thành Trần Lữ Y khi được cử làm Bộ trưởng Y tế.

* Khung cảnh và nhân vật chính: Tác giả vào truyện bằng khung cảnh như sau: "Ai xuống Bà Rịa mà có đi ngang qua đất thánh ở trong cát tại làng Phước Lễ, thì tôi xin bước vô đất thánh ấy, kiếm cái mồ có cây thánh giá bằng ván, sơn nửa đen nửa trắng, gần một bên nhà thờ những kẻ tử đạo mà thăm mồ ấy kẻo tội nghiệp. Vì đã hai năm nay không ai thăm viếng, không ai màng ngó tới. Mồ đó là mồ một thầy đã chịu lương tâm mình cắn rứt đã mười năm, bây giờ mới đặng nằm an nơi ấy." Một khung cảnh như thế làm người đọc nghĩ ngay đến một truyện "thánh tử đạo". Và cảm nghĩ này càng được củng cố khi đọc tiếp cả truyện có 32 trang mà tác giả để 14 trang đầu nói về sự cấm đạo ở Bà Rịa, trước khi Pháp sang.

Nhân vật chính khi xuất hiện trong truyện lại cũng mang dáng dấp một "thầy tu" tên là Lazarô Phiền.

Ngày nay không ai bảo những tác phẩm như Cung oán ngâm khúc hay Quan Âm Thị Kính không phải là những tác phẩm văn chương, mặc dù nội dung Phật giáo của chúng. Gần đây, trước 30-4-1975, Bộ Giáo dục chế độ cũ đưa vào chương trình môn Văn tác giả Hàn Mặc Tử. Sự kiện này không hề gây phản ứng nào trong giáo giới hay trong công chúng. Không hề có vấn đề "kỳ thị tôn giáo" trong văn chương. Bởi thế bây giờ có trả lại cho truyện Thầy Lazaro Phiền vị trí một tác phẩm đầu tiên ở miền Nam viết theo lối văn xuôi Tây phương thì cũng là điều tự nhiên, công bằng thôi.

b) Đối với giới nghiên cứu, sáng tác: Trong giới người Pháp, có lẽ truyện của Nguyễn Trọng Quản đã gây được sự chú ý vì viết theo lối văn Tây phương. Vì thế nên Chéon mới trích dịch, chú thích vào những năm cuối thế kỷ XIX. Đến năm 1934, có bản dịch toàn văn "L'histoire de Lazaro Phiền. Traduction en francaise de Nguyễn Trọng Đắc. Avant-propos de P. Midan. Saigon, Ed. Asie nouvelle. Imp. de l'Union Nguyễn Văn Cuả, 1934, 31 pages."

Về phía người Việt, truyện của Nguyễn Trọng Quản đã gợi hứng cho Hồ Biểu Chánh thay đổi hẳn đường hướng sáng tác: tiếp thu kỹ thuật viết theo Tây phương, tuy về tư tưởng chủ đề vẫn dựa trên chủ trương văn hoá truyền thống theo Nho học. Cuốn truyện dài đầu tiên của Hồ Biểu Chánh, Ai làm được, viết năm 1912. Nếu tìm hiểu tại sao Hồ Biểu Chánh viết truyện dài bằng văn xuôi, chúng ta có thể căn cứ vào chính lời ông phát biểu mà ghi nhận được mấy ý sau:

Trong tập hồi ký Đời của tôi về văn nghệ[4], Hồ Biểu Chánh cho ta biết là vào năm 1909-1910, sau khi viết cuốn đầu tiên loại sáng tác của ông, U tình lục, bằng văn vần, theo thể lục bát (in tại nhà in P.H. Schneider năm 1913), ông được đọc truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, nhà in Joseph Viết 1910, và Hoàng Tố Oanh hàm oan của Trần Chánh Chiếu (nhà in Phát Toàn, 1910) và Phan Yên ngoại sử của Trương Duy Toản . Đó là ba truyện bằng văn xuôi đầu tiên ở Nam kỳ đã ảnh hưởng nhiều đến việc định hướng sáng tác của ông[5].

Cả ba cuốn truyện trên đều có một điểm chung là kể chuyện trong nước, nghĩa là truyện có thể có thực trong đời sống hằng ngày cuả người dân mình. Đây chính là một yêu cầu của tiểu thuyết mới thời bấy giờ. Về cấu trúc, hai cuốn cuả Trần Chánh Chiếu và Trương Duy Toản ít nhiều còn chịu ảnh hưởng cuả truyện cổ điển Trung quốc (có hậu, văn nhịp nhàng đối xứng), nhưng truyện cuả Nguyễn Trọng Quản xuất bản năm 1887 hoàn toàn theo thể loại văn đoản thiên Tây phương, đã đáp ứng một số tiêu chuẩn của lối viết theo Tây phương đương thời.

Trong nhiều truyện của Hồ Biểu Chánh, người đọc thấy lối ghi rõ địa danh miền Nam, thời điểm xảy ra câu chuyện kể, nhiều khi Hồ Biểu Chánh còn dựa hẳn vào một biến cố lịch sử, như biến cố Lê Văn Khôi được nhắc đến trong Ngọn cỏ gió đùa. Phải chăng tính hiện thực - một tính cách nổi trội trong truyện Hồ Biểu Chánh - phần nào bắt nguồn từ ảnh hưởng của truyện Thầy Lazaro Phiền?

5. Văn viết

Đọc truyện Thầy Lazaro Phiền, ta thấy nổi bật lên mấy nét về văn viết:

* Dùng những từ nôm na, thuần Việt, những "tiếng thường mọi người hằng nói" như tác giả đã lưu ý trong lời tựa, tránh dùng từ Hán Việt khi không cần thiết. Ngay trong những trang bìa, tác giả cũng để lộ chủ trương trên: "Truyện... của... làm ra... Sách làm rồi đang in. Bản in nhà hàng Rey et Curiol” (không dùng từ "nhà xuất bản").

* Ít sai chính tả, nghĩa là không viết theo lối phát âm giọng địa phương.

* Câu văn xuôi gọn, chứng tỏ tác giả nắm vững ngữ pháp tiếng Việt, trừ một đôi chỗ chịu ảnh hưởng ngữ pháp tiếng Pháp.

Điều chúng tôi muốn lưu ý là không nên căn cứ vào truyện này, hay bất cứ một truyện nào khác tìm thấy được trong thời kỳ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX (khoảng 50 năm) coi như tiêu biểu cho lối viết của một giai đoạn. Qua một số tác phẩm tiểu thuyết chúng tôi đọc được của một số tác giả thời kỳ này, và nhất là qua các báo như Gia định báo, Nam kỳ nhựt trình, Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Nam kỳ địa phận, chúng tôi ngạc nhiên khi nhận ra một sự kiện: lối viết trong Gia định báo, Nam kỳ nhựt trình, Nam kỳ địa phận theo một hướng gần những nét chúng tôi liệt kê ở trên. Còn lối viết trong Nông cổ mín đàmLục tỉnh tân văn theo một hướng khác, gồm những nét trái ngược hẳn những nét kể trên. Tại sao những người viết văn viết báo cùng một thời kỳ, cùng một nguồn đào tạo (Nho học, Tây học) lại có hai lối viết khác nhau như vậy? Trong công trình khảo cứu Hồ sơ Lục châu học, chương nhận định về báo chí và văn xuôi, chúng tôi có đưa ra một giả thuyết để giải thích: hai lối viết đều là văn xuôi cả, nhưng khác nhau ở chỗ một đàng là văn viết, một đàng là văn nói, nghĩa là ở cách thể hiện khác nhau giữa các từ về mặt ngữ pháp, ngữ điệu, bút pháp, chứ không phải ở chỗ sử dụng các loại từ khác nhau (từ Nôm thuần Việt, từ Hán Việt, từ gốc Hán).



[1] Địa sở họ Bà Rịa Nam Kỳ địa phận số 462, 463, 464 (13/12/1917, tr. 173. Các tài liệu này kể lại gốc tích mỗi họ trong các sở địa

phận Nam Kỳ.

[2] Bản dịch tiếng Pháp, Amok ou le fou de Malaisie, préface de Romain Rolland, Paris, Librairie Stock, 1933. Bản dịch tiếng Việt,

Người cuồng Mã Lai, của Trần Đình Khải, Thời Mới xuất bản, Saigon, 1964. Bản dịch khác của Phùng Đệ - Lê Thi, Bệnh điên xứ

Malaixia, in trong tập truyện Ngõ hẻm dưới ánh trăng, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1982.

[3] Truyện của Nguyễn Trọng Quản được dịch ra Pháp văn gần hết, được chú giải kỹ lưỡng về từ ngữ trong tập Recueil de

cent textes annamites annotés et traduits et faisant suite au cours d'annamite do A. Chéon - vice-president chef de Cabinet

du Resident Supérieur, chargé des Cours de langue annamite et de caractères chinois - soạn, 2ème édition, Hanoi,

F.H. Schneider, Impr. Éditeur, 1905. Avertissement, Hanoi, 15/7/1899. Tuyển tập gồm 93 truyện vô danh, hầu hết đều trích từ

văn học dân gian miền Bắc, và 7 truyện sau cùng "được biên soạn ở Saigon và vì thế mang tính chất thuần tuý Nam Kỳ". Ba

truyện Người nhà quê với con ngựa của nó, Tên bán mũ vải với bầy khỉ, Con ong với con tu hú là của Trương Minh Ký. Hai

truyện Tra án, Nợ không hòng trả là của Paulus Của. Hai truyện Hút thuốc phiện có ích gì mà hút, Con chồn với con cọp

của Trương Vĩnh Ký. Truyện thứ 100 là truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản.

[4] Bản thảo đánh máy này do ông Hồ Văn Kỳ Trân sao lại, gồm ba tập: (1) Về quan trường; (2) Về văn nghệ; (3) Về các

phong trào cách mạng ở Nam kỳ 1945. Xem Nguyễn Khuê, Chân dung Hồ Biểu Chánh, Lửa Thiêng, Saigon, 1974, tr. 307.

[5] Cuốn của Trương Duy Toản, Hồ Biểu Chánh không ghi năm xuất bản, nhưng chúng tôi đoán là năm Canh Tuất (1910).

Cuốn của Gilbert Chiếu, Hồ Biểu Chánh ghi đúng năm, nhà xuất bản, còn cuốn của Nguyễn Trọng Quản ghi năm 1910, nhà in

Joseph Viết. Chúng tôi có bản đầu tiên 1887. Vậy có thể bản Hồ Biểu Chánh đọc là bản in lại lần thứ hai, hoặc thứ ba, vào năm

1910 chăng? 

Thông tin truy cập

63611336
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
18658
10905
63611336

Thành viên trực tuyến

Đang có 644 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website