Sắp kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh Liệt sĩ, nhớ đến nhà thơ-liệt sĩ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân, tôi xin trích trong Hồi ký đoạn nói về câu chuyện xin về Nam tham gia chiến đấu rồi hy sinh của em.
Nguyễn Long Trảo
...Còn đối với Ca Lê Hiến, một thanh niên trí thức, một nhà thơ trẻ thì cái gì đã thôi thúc em đi “B”?
Từ một cậu bé sớm giác ngộ cách mạng, tham gia kháng chiến khi còn ở tuổi 12, theo cơ quan tập kết ra Miền Bắc lúc 14 tuổi, được nhà nước nuôi ăn học, sau khi tốt nghiệp phổ thông thi đổ vào đại học, tốt nghiệp hạng ưu, được giữ lại làm cán bộ giảng dạy, sau đó được cử đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô nhưng em từ chối và xin được vào Nam tham gia chiến đấu.
Ca Lê Hiến đã sống 10 năm trên một nửa nước độc lập tự do, trong khi quê hương Miền Nam ruột thịt, nơi chôn nhau cắt rốn của em vẫn bị chia cắt và đang ngập chìm trong máu lửa. Sống và làm việc trên đất Bắc, gắn bó thương yêu Miền Bắc bao nhiêu thì Ca Lê Hiến cũng thương nhớ và xót xa với những nỗi khổ đau của đồng bào Miền Nam bấy nhiêu, tình cảm và ý thức trách nhiệm đối với quê hương luôn thôi thúc, vẩy gọi em về:
“Quê hương đang nước sôi lửa bỏng
Lẽ nào ta lại sống bình yên
Ôi ta thèm được tay cầm khẩu súng
Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè
Nằm chờ giặc trên quê hương anh dũng
Ta say nồng mùi lá rụng bờ tre”.
Cuộc sống ngày Bắc đêm Nam đã được giải tỏa khi theo lời kêu gọi của Đảng, Ca Lê Hiến đã đi đến một quyết định có thể nói là trọng đại trong cuộc đời: em từ chối việc được cử đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài và làm đơn đề đạt với tổ chức xin được lên đường về Nam. Với quyết định này, em chấp nhận chia tay với tất thảy những gì thân thiết nhất: Cha mẹ, anh em bạn bè, thầy cô, kể cả người vợ chưa cưới thân yêu của em, người mà bóng hình được em giữ mãi trong tim suốt các năm dài.
Đây là đoạn ghi nguyện vọng mà Hiến đã gửi lên đề đạt với tổ chức, kiên quyết và thiết tha được trở về Miền Nam tham gia chiến đấu:
“Nguyện vọng và quyết tâm của tôi là được về Nam bộ tham gia kháng chiến cùng bà con quê hương trong ấy. Hiện nay chuyên môn của tôi là giảng dạy môn lịch sử thế giới cổ đại ở trường Đại học Tổng hợp, nhưng về miền Nam tôi có thể giảng dạy các môn khoa học xã hội cả Văn, Sử... Ngoài chuyên môn ra tôi có khả năng tham gia công tác báo chí hoặc sáng tác thơ. Ngoài công tác giáo dục tôi rất muốn được tham gia công tác về văn học nghệ thuật ở miền Nam. Tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào Đảng cần đến. Nguyện vọng và quyết tâm của tôi là được về miền Nam, về lại quê hương tôi”.( Tờ 25-Hồ sơ 1429-Uỷ ban Thống nhất Chính phủ-Trung tâm lưu trữ Quốc gia III).
Trong lý lịch cán bộ, phần kê khai về gia đình, Ca Lê Hiến còn ghi rõ: “Tôi có vợ chưa cưới tên là Bùi Xuân Lan hiện đang học năm thứ ba Học viện Kinh tài Thượng Hải ( Trung Quốc ).”
Với tất cả sự nổ lực và quyết tâm ấy, đề nghị của em đã được tổ chức chấp thuận. Sau một thời gian khổ luyện hành quân trên đất Phú Thọ, ngày 22/12/1964 Hiến lên đường đi “B” với cái tên mới là Lê Lan Xuân, ghép chữ Lê Hiến và Xuân lan - đảo ngược thành Lan Xuân; sau này vào chiến trường em lấy bút danh là Lê Anh Xuân. Riêng bút danh này tôi đoán có lẽ là chữ lót của tên 3 người: Lê của Lê Hiến, Anh của nhà văn Anh Đức- là anh ruột của Xuân Lan và là người đã nâng bước em trên con đường văn học nghệ thuật từ những ngày đầu và được em hết sức quí trọng, còn Xuân thì chắc chắn là của Xuân Lan rồi.
Đường hành quân vào Nam là thử thách đầu tiên đối với Ca Lê Hiến. Nếu như ngày nay, đi Hà Nội – TP.HCM bằng đường hàng không ta chỉ mất có 1 giờ 45 phút, còn đi bằng xe hơi thì cũng chỉ mất 2 ngày 2 đêm, thì hồi ấy cuộc vượt Trường Sơn phải kéo dài trong 3 tháng, hành quân vác nặng, trèo đèo lội suối, cơm vắt lá rừng, hiểm nguy chết chóc luôn cận kề. Với vóc dáng thư sinh, chân lại bị tê thấp, lòng bàn chân nứt nẻ, nhưng Ca Lê Hiến quyết chí đi đến cùng vì miền Nam ruột thịt, đi với “tinh thần anh Trỗi” như Ca Lê Hiến sau này từng kể lại với chị Quyên:
“...Ngay từ lúc còn ở trên Miền Bắc tôi đã đắm đuối nhìn tấm ảnh của anh Trổi in trên báo với tất cả lòng thương yêu và kính phục, tấm gương anh Trỗi làm tôi hết sức xúc động. Một tháng sau tôi làm một cuộc hành quân dài 3 tháng trường đi suốt từ Bắc vào Nam. Chính tôi đã đi với sức mạnh của anh Trỗi. Những lúc mệt quá, leo núi cao, hình ảnh của anh Trỗi đã tăng thêm sức mạnh cho tôi và tôi đã đi đến nơi!” ( Văn nghệ một thời để nhớ-Bảo Định Giang).
Vừa đặt chân đến Nam bộ, Ca Lê Hiến đã hứng chịu một trận bom và càn quét kinh hoàng. Em đã kể lại chuyện này trong bức thư gửi nhà thơ Chế Lan Viên:
“Lần đầu tiên vào Nam bộ, em chịu ngay một trận bom và phải chạy càn suốt bốn năm ngày liền. Có những giếng bom sâu bằng cái ao con, chính em trông thấy những đàn trực thăng rà sát trên đầu mà lúc ở ngoài ấy em cứ phải tưởng tượng”.
Nhưng Ca Lê Hiến đã hòa nhập rất nhanh vào không khí sôi sục chiến đấu và bắt tay ngay vào công việc. Đó là việc tham dự và viết về Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua Miền Nam lần thứ nhất, với kết quả là sự ra đời của tập văn xuôi “Giữ đất” nói về người Anh hùng quân đội Miền Nam – liệt sĩ Nguyễn Văn Tư. “Giữ đất” là một trong hai tập văn xuôi hay nhất viết về Đại hội này, đã được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 1966.
Cũng chính lần dự Đại hội này mà em đã ghi chép được biết bao câu chuyện về các anh hùng, chiến sĩ thi đua của lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam, làm tư liệu sống cho những bài thơ sáng tác sau này như: “Gặp những anh hùng”, “Không đâu như ở Miền Nam”, “Chào các anh, những người chiến thắng”,“Ánh đuốc”, “Anh đứng giữa Tháp Mười”, “ Qua Ấp Bắc” vv...Em cũng đã đúc kết được những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ giải phóng quân trong đó có một điểm sáng chói là ý chí tiến công tuyệt vời mà em đã ghi lại trong nhật ký: “Chủ lực: Liên tục tấn công với tinh thần cách mạng, đạp lên sắt thép, đạp lên đầu thù, đạp lên đầu địch tấn công, hy sinh còn tấn công, hy sinh với tư thế tấn công” ( Nhật ký Lê Anh Xuân- ngày 14/9/1967).
Và phải chăng cũng từ cảm nhận đó mà sau này, khi bắt gặp hình ảnh người chiến sĩ đặc công Nguyễn Văn Mao đã anh dũng hy sinh trong trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất vẫn với tư thế đang đứng bắn, em đã cảm xúc viết nên bài thơ bất tử “Dáng đứng Việt Nam”, ca ngợi lòng dũng cảm tuyệt vời của người chiến sĩ Giải phóng quân:
“...Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công.”
Những tháng ngày về thâm nhập thực tế chiến trường tại quê hương Bến Tre, em đã ngày đêm lặn lội đi khắp các xóm ấp để tìm hiều từng người thật, việc thật, cần mẫn ghi chép vào nhật ký hầu như không sót một điều gì mà em bắt gặp hoặc nghe thấy để chuẩn bị tư liệu cho các sáng tác của mình. Có thể kể một số bài:
-“Gửi anh Tư” ( tức anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Tư), gởi lòng thương nhớ và ca ngợi chiến công của người anh hùng chân đất.
- “ Cô gái đưa đò” ca ngợi gương dũng cảm và mưu trí của cô giao liên trên sông An Hóa, bất chấp hiểm nguy và mưu trí thay nhiều màu áo để kẻ địch không nhận biết được bóng dáng con người cô.
- “ Lão du kích”, một điển hình về lão du kích nông dân miền Nam anh dũng và mưu trí dánh giặc.
- “ Người mẹ trồng bông” sớm chiều yêu thương và âm thầm chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ.
- “ Qua cầu” tặng 12 cô gái Bến Tre đã lấy vai làm cầu đỡ cho bộ đội đi qua.
- “ Cây chông tre” với hình ảnh cỏ cây cũng tham gia giết giặc.
- “ Đuốc lá dừa” nói về một cô giáo dũng cảm, dám lao vào lửa bom na-pan cứu các em bé và hy sinh.
- “ Cô xã đội” ( Út Tiết), nghe ca nông còn bịt tai, nhưng đã tay không lấy bót giặc.
- “ Bông trang đỏ” kể về một bà mẹ kiên trì anh dũng, mưu trí, nuôi giấu cán bộ, bị địch bắt đánh mù cả hai mắt vẫn tiếp tục tham gia chiến đấu và đã hy sinh anh dũng.
- “ Ánh lửa trên sông” nói về em giao liên tên Trì, đã anh dũng nhảy qua tàu địch, tự cho nổ bộc phá, làm cháy tàu và cháy cả thân mình.
vv....đều là những con người bình dị nhưng rất đỗi anh hùng.
Trong thời gian gần 4 năm về tham gia chiến đấu ở miền Nam, Ca Lê Hiến đã sáng tác 37 bài thơ được in trong tập “Hoa Dừa” dày khoảng 100 trang, một bài “Trường ca Nguyễn Văn Trổi” với khoảng 1500 câu thơ và tập văn xuôi “Giữ đất” nói về người anh hùng Nguyễn Văn Tư ở Bến Tre. Chính những sáng tác thơ, văn đã đưa em vào hàng ngũ những văn nghệ sĩ tên tuổi đương đại, và đất nước cũng đã ghi công em bằng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.
Các bài thơ của em, càng đọc càng thấy thích đọc, người đọc không có cảm giác như đọc một bài thơ đã được làm sẵn, mà như nghe em đang tâm tình, khơi gợi, với giọng mê say trong trẻo, nhỏ nhẹ chân tình, rót sâu vào tâm tư tình cảm. Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần những bài thơ Lê Anh Xuân viết khi trở về chiến đấu ở Miền Nam, nhất là trong thời gian ở Bến Tre, có những bài hầu như tôi đã thuộc lòng. Rất tiếc vì trang in có hạn không thể ghi lại tất cả để mọi người cùng đọc, cùng thưởng thức vì nó rất đáng. Thôi thì cứ lấy ra mấy bài, tuy không phải là đặc sắc nhất, nhưng mỗi bài là một câu chuyện chứa chan tình cảm yêu thương:
BÔNG TRANG ĐỎ
Dừa Bến Tre bốn mùa xanh mát
Sông Hàm Luông ca hát sớm chiều
Hát rằng: Hỡi mẹ kính yêu
Cuộc đời mẹ đẹp như màu bông trang.
Nhà mẹ đó một gian nhà nhỏ
Mẹ cắm bông trang nhỏ mà thờ
Phải chăng mẹ nhớ bóng cờ
Các con tập kết bao giờ về đây?
Trên bàn thờ khói bay hương tỏa
Dưới bàn thờ ai có biết chăng?
Mẹ nuôi cán bộ dưới hầm
Mẹ nuôi hy vọng, mẹ mong có ngày...
Ôi quê hương đêm dài tang tóc
Lũ chó săn rình rập bên hè
Mà lòng bà mẹ Bến Tre
Là nơi cán bộ đi về sớm hôm.
Một tay mẹ nấu cơm, kho cá
Nuôi các con, nuôi cả phong trào
Có lần quân giặc ập vào
Mâm cơm vừa dọn, giấu đâu bây giờ?
Mẹ bình tỉnh giả đò thổi lửa
Rồi bưng mâm đặt giữa bàn thờ
Lâm râm mẹ khấn nhỏ to
Hương nhang thơm cả bàn thờ tổ tiên.
Lời mẹ khấn: nhắn tin con biết
Vừa cầu mong con được bình an
Lắng nghe lũ giặc xa dần
Bưng mâm nhìn các con ăn, mẹ cười.
Đêm không ngủ, mẹ ngồi mẹ gác
Nghe tàu dừa xào xạc ngoài hiên
Giật mình đau nhói trong tim
Tưởng đâu quân giặc nửa đêm ập vào.
Đêm ấy...mưa đổ rào như thác
Chồng vừa đi công tác ghé về
Mẹ mừng mẹ khép cửa tre
Bỗng đâu súng giặc bốn bể nổ ran.
Ôi lòng mẹ ngổn ngang trăm mối!
Mười năm sau mẹ lại mất con
Xác con mẹ vớt bên cồn
Nửa đêm bó chiếu lén chôn sau nhà.
“ Chồng tao chết oán thù chưa hết
Nay con tao cũng chết, vì ai?
Thù xưa lại đến thù nay
Tây đi, Mỹ đến một bầy sói lang”.
Mẹ ngồi gác mịt mùng đêm tối
Vết thương xưa đau nhói từng cơn
Nhìn bông trang đỏ như son
Nhớ con đã khuất, thương con bây giờ.
Có các con mẹ như trẻ lại
Nuôi các con – nuôi mãi niềm tin
Mẹ ngồi gác giữa đêm đen
Nghe gà gáy sáng, bốn bên rạng dần.
Ôi mùa xuân, mùa xuân đồng khởi
Tiếng mõ vang, lửa nổi xa, gần
Mẹ ơi! Mẹ có thấy chăng?
Rừng dừa lộng gió, Hàm Luông sóng gầm.
Chúng con bật nắp hầm đứng dậy
Bọn ác ôn run rẩy đầu hàng
Mẹ ơi! Mẹ có thấy chăng?
Thù xưa đã trả cho chồng, cho con.
Nhưng mắt mẹ chẳng còn nhìn thấy
Một bữa kia mẹ tới Mỏ Cày
Tại thằng phản bội cung khai
Quân thù bắt mẹ, mấy ngày khảo tra.
Giặc đánh mẹ, mẹ la, mẹ chửi
Phun bã trầu vào bọn ác ôn
Không khai, mẹ cố chịu đòn
Mắt già giặc đánh mấy hôm đã mù.
Đêm Đồng khởi lòng già mừng quá
Đánh mõ tre, đánh cả vào tay
Mắt mù lòng mẹ vẫn say
Tay đau chẳng nhớ, đêm dài chẳng quên.
Con thương mẹ mắt nhìn đêm tối
Khi bình minh mẹ đã mù rồi
Mẹ ơi! Ánh mắt mặt trời
Mặt sân dừa rụng biết bao oán hờn.
Mẹ khuất rồi cỏ non xanh mộ
Nước hố bom gợn sóng rừng dừa
Mẹ nằm năm tháng gió mưa
Mà bông trang đỏ vẫn chưa phai màu.”
12-1965
NGƯỜI MẸ TRỒNG BÔNG
Tôi gặp mẹ ở nghĩa trang An Thới
Tay nhẹ nhàng mẹ xới, mẹ vun
Mẹ ngồi giữa những hàng cúc trắng
Tóc mẹ và bông gió thổi rung.
Chỗ mẹ ngồi xưa là nền bót
Giặc bắn, giặc đâm xác chất thành cồn
Đêm đêm cùng bà con trong ấp
Mẹ vượt rào khiêng xác đem chôn.
Những nấm mộ chôn thầm, chôn lén
Không có bia, không một cành bông
Nghĩa trang chính là lòng của mẹ
Nơi anh hùng yên nghỉ có mùi hương.
Hôm nay đồn giặc không còn nữa
Trời thênh thang, đồng lúa chín vàng
Mẹ ngồi giữa hàng bông rực rỡ
Cỏ mùa xuân xanh mướt nghĩa trang.
Mẹ nhớ rõ tên từng ngôi mộ
Mộ Giải phóng quân cạnh Vệ quốc đoàn
Ôi các anh đã khuất rồi nằm đó
Mà vẫn thẳng hàng như một đoàn quân.
Mẹ kể, đã mấy lần phản lực
Mang đạn bom trút xuống nghĩa trang
Mẹ cùng với bà con trong ấp
Đã mấy lần dập lửa na-pan.
Và hôm nay chiều nghĩa trang rất đẹp
Mộ anh hùng nắng dát vàng tươi
Bông mẹ trồng không sợ gì sắt thép
Đã vươn cao thơm mát cả da trời.
Bông mẹ trồng là lòng mẹ, mẹ ơi!
11-1965
ÁNH LỬA TRÊN SÔNG
Hoàng hôn thuyền đậu bến sông
Chờ khi đêm xuống vượt dòng Cổ Chiên
Em Trì, em nhỏ giao liên
Dáng trai nhanh nhẹn, mắt đen hay cười
Em đang té nước nghịch chơi
Giật mình cá nhảy thơm mùi phù sa
Sáng chiều như có khói nhòa
Một vùng man mác bao la nước trời
Bần như rặng liễu xanh tươi
Bóng soi nước biếc, sóng dồi thiết tha
Hỏi em, em đã mất cha
Cha ra đánh Pháp thường qua sông này
Bây giờ đánh Mỹ con thay
Lại làm liên lạc ra tay chống chèo
Mịn màng đêm xuống trong veo
Từng chùm đom đóm vàng treo trên cành
Ấy là lúc sóng réo quanh
Hiên ngang thuyền nhỏ băng mình trong đêm
Ấy là lúc trước mũi thuyền
Bóng em khắc đậm giữa nền trời sao
Vai em ướt đẵm sóng trào
Lặng im em vẫn dõi vào đêm khuya
Mắt em ngắm, tai em nghe
Từng cơn sóng cuộn, từng bè lá trôi
Ở đây tàu Mỹ ngược xuôi
Máu người còn đấy, xác người còn đây
Thù xưa cùng với thù nay
Nén trong thủ pháo hai tay em cầm
Thuyền đi máy vẫn rì rầm
Dịu dàng lòng trẻ vẫn thầm ước mong:
“Bình yên thuyền cập bến sông
Thì em mừng lắm, còn mừng nào hơn
Qua sông nguy hiểm chẳng sờn
Đạn bom em vượt, sóng cồn em qua”
Bỗng đâu một ánh đèn pha
Như thanh kiếm vụt chói lòa mắt em
Đạn tàu vây đỏ quanh thuyền
Tay cầm thủ pháo ngực em phập phồng
-“Dẫu em có chết giữa dòng
Mấy anh còn sống thì lòng em vui”
Tàu thù vừa ập đến nơi
Em Trì tôi đã ngang trời đứng lên
Giọng em vút ngọn sóng rền
Thanh thanh như tiếng chim chuyền cành xanh:
-“Bác Hồ ơi, cháu hy sinh!”
Nói rồi em vụt lao nhanh qua tàu
Sông bừng lửa đỏ, thuyền chao
Cổ Chiên dồn dã sóng gào không nguôi
Em trì hỡi! Em có vui?
Đáy sông xác giặc chìm rồi em nghe
Thôi em ở lại anh đi
Giết xong giặc Mỹ anh về thăm em
Thôi em ở lại Cổ Chiên
Quê hương, sóng vỗ ru em bốn mùa
Bình yên thuyền đã đến bờ
Xa còn thấy bóng em thơ giữa dòng
Sáng ngời anh lửa trên sông.
10-1967
Nói thật là khi đọc và chép lại các bài thơ về Bến Tre của Hiến bao nhiêu lần mắt tôi bị nhòe vì xúc cảm, mỗi bài thơ là một câu chuyện lay động lòng người, là một tấm gương anh hùng người thật việc thật, không hề hư cấu. Cũng nghĩ rằng đây đâu phải là những câu chuyện chỉ riêng có ở Bến Tre thuở quê hương Miền Nam đang còn ngập chìm trong máu lửa.
Tôi vẫn cứ chép tiếp:
EM GÁI ĐƯA ĐÒ
Em mười tám tuổi giao liên
Trên sông An Hóa ngày đêm đưa đò
Khi trưa nắng, lúc chiều mưa
Đò em vẫn nối hai bờ dừa xanh.
Một lần trời mới bình minh
Em đưa lực lượng biểu tình qua sông
Vì sao giặc bắn, giặc ngăn
Qua sông em chẳng ngại ngần vì sao?
Em nghe đạn rít qua đầu
Mà em vẫn đứng bóng cao giữa trời
Mái chèo giặc bắn gãy đôi
Buông chèo thoăn thoắt em bơi bằng dầm
Qua sông, đò vẫn qua sông
Tìm em, quân giặc đừng hòng tìm em
Áo em như có phép tiên
Đò qua mấy chuyến áo em mấy màu
Lúa vàng, vàng rực như sao
Lúa xanh, xanh biếc như màu tóc em
Lửa hồng như máu trong tim
Trái tim dũng cảm vượt trên đầu thù
Lúc đen, màu áo chiến khu
Lúc em trắng áo học trò thương yêu
Lúc như hoa tím trời chiều
Thủy chung màu áo, trong veo tâm hồn.
Trên sông súng vẫn nổ giòn
Đò em vẫn lướt sóng dồn hai bên
Trùng trùng người chật như nêm
Đội quân “đầu tóc” xông lên ào ào
Đò xong, em vội cắm sào
Bóng em thoắt đã nhập vào đoàn quân
Hỡi em – cánh én mùa xuân
Hòa trong muôn vạn anh hùng Miền Nam
Vẫy vùng một chiếc đò ngang.
10-1965
QUA CẦU
Sao anh lại bước ngập ngừng
Vai em dù nặng đâu bằng vai anh
Một đêm dưới nước ngâm mình
Tụi em lạnh ít, mấy anh lạnh nhiều
Hỡi anh giải phóng thân yêu
Thương anh khi sớm, khi chiều hành quân
Vai anh khiêng súng tím bầm
Đường xa mưa ướt mấy lần, anh ơi!
Gốc tràm chân bật máu tươi
Thương anh lội nước Tháp Mười mênh mông
Đi đi, anh cứ qua sông
Đừng lo cầu nổi bềnh bồng, anh nghe!
Vai em đỡ, tay em ghì
Em kềm thật chắc, anh đi yên lòng
Đi đi, anh cứ qua sông
Kịp giờ nổ súng, em mừng, em vui
Dưới sông ngực đập bồi hồi
Mười hai cô gái, mười hai nhịp cầu
Mặt sông ánh một trời sao
Mắt em lấp lánh, sao nào đẹp hơn?
Hành quân lòng bỗng bồn chồn
Qua cầu lại nhớ vai tròn của em.
10-1966
LÃO DU KÍCH
Tuổi lão ngoài sáu mươi Vóc người còn khỏe lắm
Lão nói chuyện rất vui Giọng lão cười sang sảng.
Cả ngày lão ở trần Ngang lưng lận bao thuốc
Đầu bịt chiếc khăn rằn Tay lão cầm mác vót.
Cuộc đời lão thuở xưa Kể hoài không hết khổ
Lão như chiếc lá khô Hận thù cao hơn núi.
Năm ba mươi, bốn mươi Lão có treo cờ đỏ
Trống đình thúc liên hồi Chính một tay lão đó.
Dạo đánh Pháp chín năm Lão vô chân “ tự vệ”
Sau mỗi trận thắng càn Lão hoa tay hát bộ.
Bây giờ lão ngồi đây Vót mũi chông bén ngọt
Mỗi lần nghe máy bay Lão vung cây mác vót:
-“Mặc phản lực lộn nhào Lão đây đâu có sợ
Chỉ gãy vài cây cau Lão vót làm chong đó”.
Rồi lão kể tôi nghe Chuyện đánh ong vò vẽ
Mặt thằng Mỹ sưng vù Giọng lão cười rất khỏe.
Nào chuyện đắp pháo đài Lão đòi lên pháo kích
Lũ trẻ nhìn lão cười -“Ngắm súng phải mang kiếng”
Chuyện lão cùng thằng con Căng dây chì trên lộ
Chờ lũ xe ác ôn Vướng dây rơi xuống hố.
Nghe chuyện tôi hình dung Tay lão cầm mác vót
Vỗ đùi nhảy lên đường Bắt bảo an sát bót.
Lão nói lão già rồi Mỗi lần đi đánh giặc
Lão chỉ cần ít thôi: Rượu trắng xin vài hớp.
Thấy tôi nhìn ngôi nhà Cột kèo trây đất sét
Lão khoái chí gật gù Rồi ôn tồn giải thích:
“Mỹ dội bom na-pan Lão trị bằng cách ấy
Đưng, lá cháy mấy lần Nhưng cột kèo không cháy”.
Tôi bỗng thấy lạ lùng Một ngôi nhà lá nhỏ
Ôi bùn đất Việt Nam Mạnh hơn bom đạn Mỹ.
Tôi nhìn kỹ ngôi nhà Rồi nhìn lão ngồi đó:
Lưỡi mác lóe trời xa Râu dài rung trắng xóa.
1-1966
Và còn rất nhiều bài nữa, mà mỗi bài là một gương chiến đấu anh dũng của những người con của mảnh đất Miền Nam anh hùng. Trong đó không thể không nhắc đến bài thơ bất hủ “ Dáng đứng Việt Nam” tạc hình người chiến sĩ giải phóng quân Việt Nam bình dị mà anh hùng, tạc hình đất nước Việt Nam là đất nước anh hùng của thế kỷ; một bài thơ đã đưa tên tuổi em vào những trang sử sáng chói của nền văn học Việt Nam hiện đại.
DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM
----------------
“Anh ngả xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong tư thế đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vòng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn
Bởi anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công.
Anh tên gì hỡi anh yêu quý
Anh đứng lặng im như bức tường đồng
Như đôi dép dưới chân anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong.
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.
Tên anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.
5-1968
Nhưng Ca Lê Hiến vẫn chưa mãn nguyện với những trang thơ đã viết, em vẫn cảm thấy cần phảỉ có mặt ngay giữa cuộc chiến đấu đang rất ác liệt để có thể nói lên nhiều hơn nữa những điều kỳ diệu về con người Việt Nam, về đất nước Việt Nam. Đây là bức thư ngắn của em gởi cho Viễn Phương, với lời lẽ hết sức tha thiết xin được ra mặt trận:
“ Chúng em đã xuống đây rồi, không thể nào trở về không cho được. Xin các anh cho chúng em đi một chuyến ngắn, một chuyến rất ngắn, chỉ vài ngày thôi để biết hơi thở của chiến trường rồi chúng em sẽ trở về căn cứ. Không đi xuống vùng sâu thì không thể nào chúng em có được tác phẩm tốt về cuộc tổng công kích lịch sử này. Chúng em vẫn bám trụ ở đây, và chờ các anh cho người qua đón”.
Nguyện vọng được chấp thuận, em hăng hái quảy ba lô lên đường. Nhưng đâu có ai ngờ rằng đây lại là chuyến đi định mệnh, em đã hy sinh vài ngày sau đó, và hành trình thơ của em cũng phải dừng lại với bao dự định sáng tác đang còn ấp ủ. Đó là lần xuống chiến trường tham gia đợt II cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, trong ba lô còn nguyên vẹn quyển nhật ký được em ghi chép đều đặn từ khi bước chân ra đi trên đất Bắc cho đến 24-5-1968 là ngày hy sinh của em, vào độ tuổi 28 xuân xanh.
Được tin em hy sinh, người vợ chưa cưới của em - Xuân Lan, khi đó đang ở Hà Nội, đã nói lên lòng mình bằng những dòng thơ sau đây:
MỐT CUỘC ĐỜI
Mười chín tuổi, tôi gặp lại anh
Không kịp nghĩ gì mà như không còn gì để nghĩ
Ngoài một cảm xúc rộn ràng bỡ ngỡ
Muốn nhìn anh, muốn đến bên anh
Không, cũng không hẵn là như thế
Bởi ánh mắt anh sao như mời gọi:
“Đến với anh đi. Hãy đến bên anh”
Hai chúng tôi đã cùng đến.
Rất ngắn và cũng rất dài
Mọi vật như ngưng lại
Đất trời như chưa tồn tại bao giờ
Chúng tôi đã đến bên nhau như thế
Giản dị, thiêng liêng, tràn dâng như sóng bể
Vui sướng, yêu thương, hạnh phúc ngập tràn
Cả hai rạng rỡ như chưa bao giờ rạng rỡ
Như thế...và cũng chỉ là thế
Bởi chúng tôi quá trẻ, quá khát khao
Cuộc sống hôm nay, cho cả mai sau
Không một lời, mà ánh mắt đã trao:
Hảy chờ nhau!
Hai ngày sau
Tôi và anh, mỗi người một phương xa lắc
Tôi bay lên bắc, anh vượt về nam
Đường tôi đi thênh thang rộng mở
Trong bình yên, tôi được nuôi dưỡng nên người
Từng tháng năm đằng đẵng trôi
Cũng từng tháng năm đong đầy thương nhớ!
Trong khắc khoải, tôi mong ước đợi chờ
Tôi vẫn sống, đã sống như triệu người đang sống
Mà tim vẫn vang vọng gọi người:
“Anh đang ở đâu? Anh ở đâu?”
Bởi đường vô Nam, anh đi trong lửa đạn
Đói rét, ốm đau, bệnh tật
Chết sống cận kề trong gang tấc
Anh cứ đi và vẫn sống những ngày như thế
Vẫn cùng đồng đội súng trong tay
Cùng vẽ lên những trang sử hùng oai
Cùng viết lên những vần thơ cháy bỏng
Ca ngợi con người, ca ngợi cuộc sống.
Anh vẫn đi tiếp bước về phía trước
Mãi đi như thế, anh cứ đi
Cho đến khi tim anh ngừng đập
Một cuộc đời chỉ hăm tám năm thôi
Mà sao đáng sống như người đã sống
Và anh đã nằm sâu trong lòng đất
Đã hiến dâng cho Tổ quốc bình yên:
Cả cuộc đời
Một khối óc
Một trái tim.
XUÂN LAN
Hà Nội tháng 12-1968
( Được tin anh hy sinh ngày 24-5-1968)
Và cũng suốt mấy mươi năm từ ngày đất nước được giải phóng, năm nào cũng như năm nào, cứ đến Tết và ngày giổ của Ca Lê Hiến, cho dù đã có gia đình riêng nhưng Xuân Lan luôn có những bó hoa đẹp nhất đem đặt trước mộ Hiến với những giọt nước mắt âm thầm, lặng lẽ...