
(Ảnh minh hoạ: Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, nguồn:http://giaoduc.net.vn)
1. Tây Nguyên là vùng cao nguyên phía Tây Việt Nam có năm tỉnh xếp theo thứ tự vị trí từ bắc xuống nam gồm Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng, là địa bàn sinh sống lâu đời của hơn 20 dân tộc bản địa thuộc về hai nhóm ngôn ngữ chủ yếu: Môn-Khơ Me (gồm 15 dân tộc Ba Na, Brâu, Bru Vân Kiều, Châu Ro, Cor, Cơ Ho, Cơ Tu, Giẻ Triêng, Hrê, Mạ, Mơ Nông, Rơ Măm, Tà Ôi, Xơ Đăng, Xtiêng) và Mã Lai-Đa Đảo (gồm 5 dân tộc Ra Glai, Chu Ru, Ê Đê, Gia Rai, Chăm Hơroi). Có thể chia Tây Nguyên thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai), Trung Tây Nguyên (tương ứng với hai tỉnh Đắc Lắc và Đắc Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây Nguyên có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam.
3. Nền sản xuất nương rẫy mang tính truyền thống của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên đã qui định những sắc thái văn hóa lớn của vùng này: toàn bộ văn hóa tộc người cơ bản vẫn là văn hóa dân gian, tín ngưỡng nông nghiệp với trình độ tư duy thần bí, “văn hóa cồng chiêng”, “văn hóa luật tục”, “văn hóa nhà mồ”, “văn học sử thi”, nhà sàn, nhà rông, đàn đá, đàn trưng, đàn klông pút, lễ bỏ mả, lễ đâm trâu, các loại bùa ngải,... là những đặc trưng nổi bật của văn hóa vùng này. Cơ cấu xã hội cơ bản các dân tộc ở Tây Nguyên là làng (play, buôn, bon) vì mỗi con người Tây Nguyên là một bộ phận khăng khít của làng; câu đầu tiên khi giới thiệu về mình, người Tây Nguyên nói rằng: Tôi là người làng Ma Am, hay buôn Đơng Băk, hoặc bon Plah Iatul. Quan hệ xã hội cơ bản của buôn làng là quan hệ cộng đồng. Cộng đồng ở đây với nhiều phạm vi và mức độ khác nhau nhưng chúng không hề đối lập nhau; ở phạm vi nhỏ là cộng đồng gia tộc vốn còn tồn tại tàn dư của gia tộc lớn mẫu hệ, ở phạm vi rộng hơn và cơ bản hơn là cộng đồng làng buôn đan kết giữa quan hệ huyết thống và quan hệ láng giềng. Và để điều chỉnh các quan hệ xã hội ấy, từ ngàn xưa người Tây Nguyên đã dùng hệ thống các qui ước do cha ông họ sáng tạo ra trong các bộ luật tục truyền khẩu và thuộc lòng từ bao thế hệ cho đến nay vẫn còn thấy sử dụng song song bên cạnh luật pháp của Nhà nước.
4. Luật tục (tập quán pháp, lệ tục,…) tương ứng với các thuật ngữ khoa học nước ngoài: droit coutumier, customary law, folk law, traditional law,… là một hình thức của tri thức bản địa, tri thức địa phương, được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường và ứng xử xã hội, đã được định hình dưới nhiều dạng thức khác nhau, được truyền từ đời này sang đời khác qua trí nhớ, qua thực hành sản xuất và thực hành xã hội. Nó hướng đến việc hướng dẫn, điều chỉnh và điều hòa các quan hệ xã hội, quan hệ con người với môi trường tự nhiên. Những chuẩn mực ấy của luật tục được cả cộng đồng thừa nhận và thực hiện, tạo nên sự thống nhất và cân bằng xã hội của mỗi cộng đồng. Một cách ngắn gọn hơn, theo Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 2, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, năm 2002, trang 770, luật tục là “toàn bộ những nguyên tắc ứng xử không thành văn được hình thành trong xã hội, sau một thời gian dài áp dụng đã trở thành truyền thống và được mọi người tuân thủ”. Các dân tộc Tây Nguyên có một kho tàng luật tục khá phong phú. Cho đến nay, có thể kể ra luật tục của một số dân tộc tiêu biểu sau: luật tục-phat kđi hoặc biđuê của người Ê Đê, phat kđuôi (Mơ Nông), nri (Srê), tơlơi juat (Gia Rai), n’dri (Mạ), hlabar khôy (Ba Na), adat mucar (Ra Glai), adat (Chăm)…
5. Kho tàng luật tục Tây Nguyên là nguồn tư liệu gốc để nghiên cứu xã hội tộc người Tây Nguyên và văn hóa tộc người Tây Nguyên. Đó là đối tượng nghiên cứu cùng lúc của nhiều ngành khoa học như: dân tộc học, xã hội học tộc người, tâm lý học tộc người, luật học, ngôn ngữ học tộc người, ngôn ngữ học-lịch sử và văn hóa học. Luật tục Tây Nguyên đề cập tới rất nhiều lĩnh vực khác nhau về đời sống các dân tộc Tây Nguyên: sản xuất, quan hệ sở hữu, tổ chức xã hội, quan hệ cộng đồng, hôn nhân, gia đình, phong tục, lễ nghi,... Luật tục là từ đời sống cộng đồng mà hình thành, phản ánh chân thực bộ mặt cổ truyền các dân tộc. Bởi thế, để tìm hiểu dân tộc và xã hội tộc người, nhất là xã hội cổ truyền, thì luật tục như là một tư liệu gốc không gì có thể thay thế. Luật tục Tây Nguyên còn là nguồn tư liệu gốc để nhận biết về bức tranh văn hóa tổng hợp của các dân tộc mẫu hệ, song hệ sinh sống ở miền cao nguyên đất đỏ với các đặc trưng cơ bản như: kiếm sống bằng làm rẫy, chăn nuôi, săn bắn, hái lượm; các nghề thủ công như đan mây tre, trồng bông, dệt vải, rèn, gốm để tự túc cái mặc và đồ gia dụng; ăn với nấu cơm tẻ bằng nồi, ăn với cá, thịt, rau quả; mặc với nam đóng khố, nữ quấn váy, trang sức có vòng đồng và chuỗi hạt; ở theo đại gia đình dưới mái nhà của dòng mẹ; buôn plei là đơn vị xã hội duy nhất và là công xã nông thôn chưa phân hóa sâu sắc; hôn nhân trao đổi giữa hai dòng họ; văn hóa thống nhất theo nhóm địa phương; tín ngưỡng đa thần nguyên thủy, tin ở vạn vật hữu linh; xã hội vận hành theo luật tục; văn chương truyền miệng và âm nhạc cồng chiêng phát triển; nam nữ đều thích uống rượu cần, hút thuốc lá cuốn và ăn trầu. Luật tục Tây Nguyên như đã thể hiện thật chi tiết một hệ văn hóa / bức tranh văn hóa tiêu biểu của các dân tộc Tây Nguyên.
6. Một đặc điểm bao trùm lên đời sống xã hội của các tộc người Tây Nguyên là văn hóa mẫu hệ. Và những bộ luật tục Tây Nguyên được bà con vận dụng như là một hình thức quản lý xã hội bằng mẫu hệ, chúng thể hiện uy tín, sức mạnh, quyền lực của mẫu hệ trong việc điều hành, tổ chức, quan hệ và quản lý cộng đồng, nhằm bảo vệ sự sống còn của gia đình mẫu hệ. Ví như người Ê Đê cho rằng trong luật tục có 5 điều luật tục then chốt là: vợ chồng không được bỏ nhau, tục nối dòng (chuê nuê)[1], chủ buôn phải tận tâm chăm lo dân làng, dân phải nghe lời chủ buôn, chủ đất [1:37]. Cũng trong xã hội Ê Đê, chức chủ buôn chỉ nằm trong tay một dòng họ, không bao giờ truyền sang dòng họ khác, đặc biệt chỉ truyền theo dòng nữ (mẫu hệ) và người này trao lại cho người chồng đảm nhiệm, điều hành mọi công việc chung của buôn. Nếu ly dị nhau, người chồng-chủ buôn sẽ mất chức chủ buôn, người vợ đảm nhận cho đến khi có chồng khác và trao lại cho người chồng khác. Nếu vợ chồng chủ buôn chết, gia đình không có con gái thì chức chủ buôn phải trao lại cho em gái vợ hay cháu gái gần nhất (con của chị hoặc em gái vợ) [1:28]. Trên thực tế, ở một phương diện khác, có thể bắt gặp những thân phận đàn ông thật bi đát là hệ quả của chế độ xã hội mẫu hệ Tây Nguyên. Theo chân khảo sát điền dã với tiến sĩ dân tộc học Nguyễn Thị Hòa, trường hợp cụ ông Ma Toh được xem là một nhân vật đặc trưng của thân phận nam giới ở xã hội mẫu hệ Tây Nguyên: “Nơi cụ ông Rơ Ô Y Kthul sống những ngày cuối của cuộc đời là một căn chòi rách nát, hôi hám, nồng nặc mùi nước tiểu, phân người, phân bò, phân lợn, phân gà, vịt… và mùi lá cây ẩm mục từ dưới sàn bốc lên. Cụ có tên thường gọi là Ma Toh, dân tộc Gia Rai, cư trú ở buôn T’Lan, xã Chư Ngọc, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Ma Toh là người già nhất buôn T’Lan. Ông sống với buôn làng đã trên 100 mùa rẫy. Nay Ma Toh mắt mờ, tai điếc, không còn đi lại được. Ông nằm lịm bên bếp lửa. Khi cần đi lại, tiểu tiện, ông lê lết ra trước hiên của căn chòi đi vào một cái ché bể buộc dưới cột nhà. Những lúc đói bụng, ông được đứa cháu gái cho một bát cơm và tự xúc ăn. Cây phơi chăn, áo trên đầu nằm không ngay ngắn, ông mò mẫm tháo ra, cột lại, rồi lại tháo ra, cột lại… cho đẹp, cho chắc. Ông thường ho, khạc nhổ bên cạnh chỗ nằm, rồi lấy một miếng giẻ bẩn thỉu quờ quạng lau sàn cho sạch. Thỉnh thoảng tay ông sờ vào thanh củi đã sắp tàn lửa, hi vọng tìm được một chút hơi ấm của những sợi khói mong manh. Tuy vậy, ông vẫn phải làm việc để kiếm sống. Ngày ngày ông mân mê bện những sợi dây thừng cột bò để bán cho cư dân trong buôn. Tưởng là ông đã điếc nặng, vô hồn trước những lời nói xôn xao chung quanh. Nhưng thật bất ngờ! Khi trong căn chòi có một nghệ nhân cất giọng hát kể sử thi, ở một ca hoành tráng, ông chợt bật ngồi dậy, đôi mắt mờ sáng lên, khuôn mặt đầy rạng rỡ… Ông lẩm bẩm hát kể thêm một đoạn sử thi mà có lẽ đã gợi cho ông nhớ lại cả một thời oanh liệt của một thời tuổi trẻ. Được biết trước đây, ông là một người nổi tiếng trong vùng, là một chàng trai khỏe mạnh, thông minh, nhanh nhẹn. Rơ Ô Y Kthul được một cô gái ở buôn Jrekh tên là Ksor H’zới cưới làm chồng. Ông siêng năng làm nương rẫy, buôn bán trâu bò với những người dân trong buôn và những vùng lân cận. Sự siêng năng, tháo vác của Y Kthul đã làm gia đình vợ trở nên giàu có nhất trong vùng. Ông dựng nhà lớn, đẹp; mua cả xe ôtô cho gia đình vợ. Vợ chồng ông ngày càng giàu có lên khiến nhiều người ghen tị. Vợ ông – H’zới bị người ta ganh ghét bỏ thuốc độc mà chết. Sau này, Y Kthul “chuôi nuôi” / nối nòi với một phụ nữ khác trong dòng họ nhà vợ là Ksor H’Dok. Con gái riêng của Y Kthul là H’sơn ở chung với vợ chồng ông. Năm 13 tuổi, H’sơn lấy chồng, ra riêng. Y Kthul thương con gái vẫn thường đem tiền bạc của cải đến cho con. Về già, Ma Toh không còn sức khỏe để lao động, người vợ hai là H’Dok cũng qua đời. Gia đình vợ không nhận nuôi Ma Toh “đuổi” ông về với dòng họ Rơ Ô. Dòng họ của Ma Toh cũng từ chối ông. May thay có vợ chồng đứa cháu gái là Ksor H’Nhoan thương ông “nội” đem về nuôi nấng. Như thế đấy! Người đàn ông tài giỏi, giàu có của một vùng nay sống thui thủi, nghèo khổ trong căn chòi rách nát. Ma Toh đã không có nơi nương tựa sau khi các người vợ mất đi” [9:275-277].
7. Kho tàng luật tục Tây Nguyên là di sản văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên. Cùng với kho tàng sử thi Tây Nguyên kho tàng luật tục Tây Nguyên là di sản quí báu và độc đáo của các dân tộc Tây Nguyên đóng góp vào di sản chung của văn hóa các dân tộc Việt Nam và thế giới. Nội dung chính của loại di sản văn hóa này là các tri thức đa dạng về đời sống xã hội tộc người, các hình thức tư duy và ngôn ngữ biểu đạt mang sắc thái độc đáo. Xét về khối lượng, chỉ riêng hai bộ luật tục Ê Đê (236 điều với 8.000 câu) và luật tục Mơ Nông (215 điều với 7.000 câu) đã là những tác phẩm thuộc loại lớn, nhất là tác phẩm truyền miệng dân gian. Luật tục Tây Nguyên diễn đạt theo thể văn vần / lời nói vần, số chữ trong một câu không tuân theo một qui luật nhất định; cấu tạo vần theo kiểu vần cuối của câu trước hợp với chữ đầu hay vần lưng của câu sau. Cũng như sử thi, hình thức lời nói vần chung ấy gần giống cách sử dụng hay lối vận dụng thành ngữ và tục ngữ của người Việt. Đó là thứ ngôn ngữ nằm giữa ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ thơ ca. Ngôn ngữ trong luật tục Tây Nguyên là ngôn ngữ giàu hình tượng, tác giả dân gian mượn các hình tượng của đời sống hàng ngày, của tự nhiên và của xã hội để diễn đạt các quan niệm mang tính luật pháp.
8. Kho tàng luật tục Tây Nguyên là kho tàng tri thức dân gian Tây Nguyên. Từ xưa, người dân bản địa Tây Nguyên xem luật tục của họ như là bộ sách bách khoa toàn thư về mọi mặt của đời sống tộc người, chứa đựng những tri thức dân gian vô cùng phong phú, đúc rút ra từ kinh nghiệm sống của nhiều thế hệ. Đó là những tri thức về quản lý cộng đồng, tri thức về sự kết hợp giữa quản lý và tự quản, giữa giáo dục và trừng phạt, giữa ý thức cá nhân và dư luận xã hội, giữa các nguyên tắc của tập quán pháp-một hình thức của luật pháp sơ khai- với các quan niệm về tâm linh, tín ngưỡng để giải quyết các xung đột xã hội, ... Đó còn là những tri thức về quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên thông qua việc xác định các quan hệ sở hữu của cộng đồng và cá nhân đối với các tài nguyên thiên nhiên, và việc nêu ra các điều luật cụ thể ngăn chặn các hành động phá hoại tài nguyên.
9. Thực trạng của luật tục Tây Nguyên trong không gian văn hóa xã hội Tây Nguyên hiện nay cần được nhận biết ở cả hai phương diện tích cực và tiêu cực, đóng góp và hạn chế. Luật tục Tây Nguyên vốn là sản phẩm của xã hội cổ truyền – xã hội ở thời kỳ tiền giai cấp, tiền quốc gia, một xã hội còn mang tính chất khép kín. Song, hiện nay xã hội các dân tộc Tây Nguyên đã có nhiều thay đổi. Các buôn làng Tây Nguyên không còn là các thực thể xã hội biệt lập nữa mà đã trở thành đơn vị cơ sở của một hệ thống xã hội rộng lớn từ địa phương tới trung ương. Cơ sở vận hành và điều chỉnh hệ thống xã hội rộng lớn đó là luật pháp Nhà nước. Cho đến nay, trình độ phát triển của các dân tộc bản địa Tây Nguyên vẫn đang còn một khoảng cách đáng kể so với trình độ chung của cả nước. Do đó, việc áp dụng luật pháp Nhà nước vào đời sống bà con nơi đây đã và đang gặp không ít khó khăn. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao để có thể kết hợp hài hòa, có sự hỗ trợ, bổ sung của luật pháp chung của Nhà nước và luật tục của buôn làng. Trên thực tế, hiện nay hình thức tòa án phong tục ở một số địa phương vẫn tồn tại bên cạnh những tòa án và các cách giải quyết của chính quyền, nhưng phần nhiều chỉ xảy ra với những xung đột nhỏ hoặc xảy ra đối với những vụ mà chính quyền địa phương giải quyết trái ngược hẳn với phong tục ở buôn làng. Cũng như nhiều hiện tượng văn hóa cổ truyền khác, tòa án phong tục cho đến nay thường còn hiện hữu ở những vùng xa các đô thị, các trục lộ giao thông chính. Trong khi đó, ở một số nơi khác, tòa án phong tục tuy không còn nhưng thay vào đó là những tổ hòa giải làm việc trên cơ sở của luật tục truyền thống. Biện pháp chính ở đây vẫn là hòa giải, giáo dục, răn đe. Do vậy, ở các buôn làng Tây Nguyên hiện nay, mô hình tòa án phong tục hay tổ hòa giải đóng vai trò tích cực trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội trên cơ sở tập quán cổ truyền, nhưng không đi ngược những qui định chung của luật pháp Nhà nước hiện hành.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 04 năm 2012
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Bi (2005), Đôi nét về văn hóa mẫu hệ Ê Đê, trong sách “Thông báo Văn hóa dân gian năm 2004” của Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội , trang 26-42.
2. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Nxb Văn hóa thông tin và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
3. Georges Condominas (1997), Không gian xã hội vùng Đông Nam Á, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
4. Georges Condominas (2003), Chúng tôi ăn rừng, Nxb Thế giới và Bảo tàng dân tộc học Việt Nam, Hà Nội.
5. Dambo (Jacques Dournes) (2003), Miền đất huyền ảo (Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương), Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
6. Bế Viết Đẳng, Chu Thái Sơn và các tác giả khác (1982), Đại cương về các dân tộc Êđê, Mnông ở Dak Lak, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Mạc Đường (1985), Vấn đề dân tộc ở Sông Bé, Nxb Tổng hợp Sông Bé.
8. Mạc Đường và các tác giả khác (1983), Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng, Sở Văn hóa tỉnh Lâm Đồng.
9. Nguyễn Thị Hòa (2003), Krông Pa – Những điều kỳ thú, trong sách “Thông báo văn hóa dân gian năm 2002” của Viện nghiên cứu văn hóa dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 269-277.
10. Phan Đăng Nhật (2009), Văn hóa các dân tộc thiểu số-Những giá trị đặc sắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Tô Ngọc Thanh, Những ghi chép về văn hóa và âm nhạc (2007), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn (1996), Luật tục Ê Đê (Tập quán pháp), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Ngô Đức Thịnh, Điểu Kâu, Trần Tấn Vĩnh (1998), Luật tục Mơ Nông (Tập quán pháp), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đặng Nghiêm Vạn, Cầm Trọng và các tác giả khác (1981), Các dân tộc tỉnh Gia Lai Kon Tum, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[1] Tục chuê nuê: luật tục Ê Đê quy định: Cấm kết hôn trong cùng một hệ dòng họ. Cụ thể, người thuộc dòng họ Niê (gồm 12 nhánh), chỉ được kết hôn với dòng họ Mlô (gồm 12 nhánh khác). Tục chuê nuê bắt nguồn từ sự quy định này. Theo phong tục khi chồng chết, người vợ có quyền đòi hỏi nhà chồng một người em chồng để nối nòi, và cũng như vậy người đàn ông có thể lấy em vợ khi vợ chết. Trong tục nối nòi quy định, người vợ hoặc người chồng chỉ có thể lấy em người quá cố mà không được lấy chị hoặc anh, vì đó là những người bậc trên, được coi như cha mẹ. Ở người Ê Đê còn có tục nối nòi dòng khác nữa, như ông lấy cháu, bà lấy cháu (bà chết cháu thay), mục đích là để giữ gìn dòng họ nhà gái, quản lý tài sản nhà gái, làm cho nhà gái tồn tại và phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác [1:34].