(VH-NN) Ngày 24.9.2012 vừa qua, học viên Vũ Thị Thanh Tâm, giáo viên trường Phổ thông Năng khiếu, Đại học Quốc gia TP. HCM, đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ với đề tài Đặc điểm thơ SiJo. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phan Thu Hiền. Hội đồng chấm luận văn đánh giá cao những đóng góp của luận văn và đã cho luận văn điểm tối đa. Vũ Thị Thanh Tâm vốn là một trong những sinh viên xuất sắc của hệ Cử nhân tài năng khóa 2004 - 2008, Khoa Văn học và Ngôn ngữ. VH-NN xin giới thiệu Chương 3 và Mục lục của luận văn.
Chương 3. Đặc điểm thơ sijo từ góc nhìn cảm thức thẩm mỹ
Thơ sijo ra đời cùng lúc với việc Tống Nho du nhập vào Korea, và sự phát triển của sijo cũng đi song song với qua trình Tống Nho khẳng định địa vị độc tôn trong tư tưởng chính trị và học thuật Korea, do đó việc sáng tác và thưởng thức sijo đã bị chi phối một cách sâu sắc bởi lý luận văn học dòng Nho gia của Trung Hoa với tư tưởng chủ đạo là “Văn sở dĩ tải đạo dã”. Chu Đôn Di viết:
Văn là để chở đạo. Bánh xe, càng xe được trang sức mà không dùng thì chỉ là đồ trang sức phí công, huống chi là chiếc xe không chở gì? Văn từ chỉ là nghệ thuật thôi, đạo đức mới là thực. Dốc sức vào cái thực rồi dùng nghệ thuật viết ra nó [6, tr.105]
Và:
Đạo là gốc rễ của văn. Văn là cành lá của đạo. Gốc rễ của nó là ở đạo, cho nên phát ra từ văn đều là đạo. [6, tr.104]
Tư tưởng này đã du nhập và trở thành “kim chỉ nam” trong việc sáng tác và thưởng thức văn chương Korea từ cuối thời Koryeo đến đầu thời Choseon.
Từ thời Koryeo, mối quan hệ giữa văn và đạo và tác dụng giáo hóa của văn chương đã được chú ý nhiều. Trong cuốn sách phê bình văn học thời Koryeo tên là “Bổ nhàn tập”, tác giả Thôi Tư (1188-1260) đã viết:
Văn là cánh cửa đi vào chính đạo. Vì vậy không nên viết những lời trái với đạo lý. Tuy nhiên, nói một cách sinh động và khích lệ tinh thần để gây cảm tình đối với người nghe thì đôi khi cũng cần phải nói một cách cứng rắn và khác thường, huống chi đến làm thơ. Thơ có phú, tỉ, hứng làm căn bản. Vì vậy, văn phong cần phải khác thường, quả quyết, ý nghĩa phải sâu sắc, lời nói phải rõ ràng mới tạo được cảm tình đối với người đọc và làm cho người đọc giác ngộ ra vấn đề. Họ sẽ hiểu ra ý nghĩa sâu sắc và đẹp đẽ của bài thơ, và cuối cùng họ sẽ trở về với chính đạo. [28, tr.419]
Đến thời Choseon, vấn đề này trở thành trung tâm của việc phê bình văn học. Trong lời tựa của Jeong Dojeon (Trịnh Đạo Truyền, 鄭道傳1342–1398) ở đầu cuốn sách Mogeunjip (牧隱集- Tuyển tập các tác phẩm của Yi Saek (李穡, 1328 – 1396), tác giả đã khẳng định: “Văn là chiếc xe chở đạo” [36, tr.317]
Cũng như Jeong Dojeon, So Kojong (Từ Cư Chính, 徐巨正 (1420-1488), Cho Wi (梅溪 曺偉, 1454-1503) và nhiều nhà nho khác cũng thống nhất rằng “Văn là phương tiện chở đạo”. [36, tr.317]
Yi I (Lý Nhĩ, 1536-1584) cho rằng các kinh sách (văn) chính là cánh cổng dẫn đến đạo. [36, tr.317]
Những tác gia kể trên cũng chính là những người trực tiếp tham gia sáng tác sijo, vì thế trong sijo, nền tảng mỹ học quan trọng nhất chính là “đạo”.
“Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang chính là tác phẩm mẫu mực trong việc dùng sijo để “tải đạo”. Tác phẩm yeon-sijo này gồm tất cả 12 khúc. Tiền lục khúc viết về đạo trong thiên nhiên, hậu lục khúc viết về đạo học của con người. Thiên nhiên trong bài thơ mang vẻ đẹp giản dị và tự nhiên, là biểu hiện cho quy luật của tạo hóa:
Lan nở trong thung lũng
Nên thơm thật tự nhiên
Trên triền núi mây bay
Nên đẹp không giả tạo
Không thể nào quên nổi
Cảnh đẹp thế gian này!
(“Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang, khúc thứ tư)
(Bản dịch nghĩa:
Hoa lan nở trong thung lũng nên thơm một cách tự nhiên.
Mây trắng bay trên núi nên đẹp một cách tự nhiên.
Không thể nào quên được cảnh đẹp giữa thế gian này.)
Chương một và hai của bài thơ này sử dụng phép lặp “thơm một cách tự nhiên”, “đẹp một cách tự nhiên” (tác giả dùng Hán tự “Tự nhiên”). Tác giả muốn nhấn mạnh tiêu chí của cái đẹp là tuân theo quy luật của tạo hóa. Nguyên nhân làm nên hương thơm của hoa lan là vì nó nở ở đúng môi trường tự nhiên sinh ra nó: trong thung lũng, cũng như mây, nguyên nhân làm nên cái đẹp của mây là vì nó bay trên núi cao- đúng như lẽ thường tình. Tác giả dùng kết cấu “vì... nên”, để lý giải vẻ đẹp. Tất cả những đối tượng miêu tả đều xuất hiện trong bối cảnh bình thường nhất. Chính cái bình thường đó làm nên vẻ đẹp cho nó, bởi nó tuân theo quy luật của hóa công.
Trong mắt nhìn của Yi Hwang, quy luật của tạo hóa thật nhiệm màu, trời đất sinh ra vạn vật tự nó đã có một sự hài hòa sâu sắc, từ thiên nhiên cho đến con người:
Gió xuân, hoa phủ núi
Đêm thu nguyệt rạng lầu
Vẻ đẹp bốn mùa ấy
Cũng giống con người ta
Trời đất vốn hài hòa
Vô thủy và vô chung
(Bản dịch nghĩa:
Hoa che phủ núi trong gió xuân, trăng chiếu sáng trên lâu đài trong đêm thu.
Vẻ đẹp của bốn mùa cũng giống với con người.
Sự sâu sắc của sự hòa hợp trời đất là vô thủy vô chung)
(“Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang, khúc thứ sáu)
Hai đối tượng thiên nhiên được tác giả lựa chọn miêu tả trong khúc thứ sáu này là hoa và trăng. Tác giả lựa chọn thời điểm và không gian hợp lý nhất để chiêm ngưỡng chúng: hoa trên núi giữa mùa xuân, và trăng ngắm từ lầu cao trong đêm thu. Điều đó không chỉ vì tuân theo hệ thống ước lệ, tượng trưng trong thi pháp Trung Hoa, mà còn nhắm đến dụng ý truyền tải thông điệp: phải phán xét tất cả mọi đối tượng trong hoàn cảnh phù hợp nhất, theo đúng lý của vũ trụ. Lấy hai mùa xuân, thu làm đại diện cho bốn mùa luân chuyển, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp: tự nhiên sinh ra mỗi mùa đều có vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp đó đến từ sự hài hòa của trời đất. Tự nhiên có cái lý của nó, đạo của tự nhiên thật sâu sắc và sẽ trường tồn mãi mãi (“vô thủy và vô chung”). Lý biểu hiện trong thiên nhiên như thế nào, thì trong con người cũng như thế ấy (“Vẻ đẹp của bốn mùa cũng giống với con người”). Sự tồn sinh của con người chính là do đạo.
Đắm mình trong thiên nhiên để khám phá và suy ngẫm về lý lẽ của trời đất là một trong những cách học hỏi của người quân tử, bên cạnh đó, cũng không thể quên con đường học đạo qua sách vở:
Cuộc đời cứ trôi qua
Thấy thật là thanh sạch
Đọc bao nhiêu sách vở
Vui thú chẳng điểm dừng
Nói rằng chẳng phong lưu
Còn là gì khác nhỉ?
(Bản dịch nghĩa:
Cuộc đời trôi qua, cảm thấy thật thanh sạch
Bằng cuộc sống đọc nhiều sách, việc vui vẻ không kết thúc.
Nói rằng chẳng phong lưu thì đó là gì?)
(“Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang, bài thứ 7)
Con đường quan trọng nhất để tu đạo là phải thực hành, bởi như đã nói, thuyết Minh triết của Yi Hwang coi trọng kiến thức thực nghiệm. Yi Hwang nhắn gửi hậu thế phải đi theo con đường cổ nhân đã vạch ra, phấn đấu không ngừng nghỉ để hoàn thiện nhân cách của mình:
Cổ nhân không thấy ta
Ta cũng không thấy người
Dẫu không gặp cổ nhân
Đã có đường người vạch
Con đường ở phía trước
Ta sẽ phải làm sao?
(Bản dịch nghĩa:
Cổ nhân không thể thấy tôi của ngày nay và tôi cũng không thể gặp mặt người xưa
Dù không thể gặp mặt người xưa nhưng con đường cổ nhân đã đi lại đang nằm phía trước,
Con đường đó đang ở phía trước nên tôi hay bất kì ai sẽ phải làm thế nào?)
(“Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang, bài thứ chín)
Trong khúc thứ chín, tác giả nhấn mạnh: dù không thấy bóng dáng người xưa, và dù người xưa cũng không còn sống để theo dõi, phán xét, chấm chỉnh hậu thế, nhưng họ đã để lại cho chúng ta điều quý nhất là “con đường” (“đạo”). Con đường ấy ở ngay phía trước mặt chúng ta, trước câu hỏi: “Con đường đó đang ở phía trước nên tôi hay bất kì ai sẽ phải làm thế nào?”, đương nhiên câu trả lời chỉ có một: “phải đi theo”. Đó chính là thực nghiệm. Và một khi đã đi, thì suốt đời không bao giờ được ngừng lại trên hành trình “hành đạo”:
Non xanh từ thuở xưa
Và sẽ xanh mãi mãi
Nước chảy cứ chảy hoài
Chẳng bao giờ ngưng nghỉ
Chúng ta đừng ngừng lại
Hãy sống thật thanh cao!
(Bản dịch nghĩa:
Non xanh sẽ luôn xanh
và nước chảy sẽ không biết ngừng lại
Chúng ta cũng đừng ngừng lại và hãy sống một cách cao đẹp! )
(“Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang, bài thứ mười một)
Với những tác phẩm của mình, Yi Hwang muốn giúp người đọc nhận ra lý trong tự nhiên, hướng người quân tử đi theo chính đạo, suốt đời học tập, tu dưỡng nhân cách không bao giờ ngừng nghỉ. Tư tưởng của Yi Hwang trở thành nội dung trung tâm trong sijo của trường phái Yong Nam, chẳng hạn, nhà thơ Kwõn Homun (1532-1587) lặp lại tư tưởng đó trong tác phẩm “Nhàn cư thập bát khúc”, với bài ca sau đây:
Trời làm trong không gian lộng gió
Làm sáng tỏ trăng tròn trên cao
Trong vườn tre và trên rào thông
Tuyệt tinh khiết, không vương hạt bụi
A! Cuộc sống! Mới tươi, nồng nhiệt
Với cây đàn và sách thánh nhân.
(Bản dịch nghĩa:
Tự nhiên làm trong trẻo không gian lộng gió và làm sáng tỏ trăng tròn,
Trong vườn tre, trên rào thông, không một hạt bụi.
Cuộc sống của tôi mới tươi mới và nồng nhiệt làm sao, cùng với cây đàn tam thập lục và những cuốn sách.)
Trong bài thơ này, không gian trở nên lộng gió tươi mát, trăng trở nên tròn đầy sáng trong đều là nhờ nguồn lực tự nhiên (lý). Trong không gian thanh khiết ấy, chủ thể trữ tình hiện ra với khuôn mặt của một nho sĩ “nhàn cư”, đắm mình vào sách vở. Ở đây, con người sống hòa hợp với thiên nhiên, nhận ra con đường của mình thông qua chiêm nghiệm quy luật tự nhiên và đọc nhiều sách thánh hiền.
Một đại diện khác của Nho học Korea sống cùng thời với Yi Hwang là Yi I (Lý Nhĩ李 珥, tự là Lật Cốc粟谷, 1536-1584). Yi I đã “tải đạo” bằng tác phẩm yeon-sijo “Cao sơn cửu khúc ca”- một tác phẩm phỏng theo “Vô Diệm cửu đàm” của Chu Hy.
Ngay từ khúc ca đầu tiên, tác giả đã dẫn đắt người đọc vào đạo học của Nho gia:
Người đời ai biết đến
Cao sơn cửu khúc ca
Nên cắt cỏ làm nhà
Bạn bè ta kéo đến
Nhớ tới núi Vô Diệm
Học đạo Chu Hy a!
(Bản dịch nghĩa:
Người đời không biết đến Cao sơn cửu khúc ca
nên cắt cỏ làm nhà ở, bạn bè kéo đến theo.
A! Hãy liên tưởng đến núi Vô Diệm mà học đạo Chu Tử.)
(“Cao sơn cửu khúc ca” của Yi I, bài thứ nhất)
Bối cảnh “Cao sơn” được liên tưởng với núi Vô Diệm mà Chu Hy từng sống, nơi đó tác giả cùng bạn bè “Đặt rượu giữa rừng thông” ngồi cùng nhau đàm đạo (bài thứ hai). Tác giả đã nhận ra vẻ đẹp tuyệt vời của núi, rừng thông, vách đá, hồ nước, và cũng như thiên nhiên trong “Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang, đất trời trong mắt nhìn của Yi I cũng mang trong mình nó vẻ đẹp của “đạo”:
Một năm chốn sỏi đá
Cảnh đẹp bởi hài hòa
(Dịch nghĩa: Một năm đã qua ở chốn sỏi đá vô tri hài hòa nên cảnh đẹp.)
(“Cao sơn cửu khúc ca” của Yi I, bài thứ mười)
Tác giả nói rõ: chính sự “vô tri” mà “hài hòa” của sỏi đá đã tạo nên sức sống tươi đẹp cho nó. Đó là gì nếu không phải là “đạo”? Và tác giả nhắn gửi đến người đọc thông điệp: “Hãy hưởng thú phong lưu tu học, ngâm thơ giữa nơi này” (bài thứ sáu).
Tiếp nối Yi Hwang và Yi I, các tác gia sijo từ thế kỷ XVI trở về sau luôn khắc họa trong thơ của mình khung cảnh thiên nhiên đẹp một cách hài hòa, tự nhiên, giản dị, thể hiện “cái lý” của tự nhiên. Khung cảnh ấy nhắc nhở người ta rằng đất trời có đạo, và con người cũng vậy, cho nên sống phải hài hòa, phải theo quy luật của tạo hóa và quy luật hành xử của con người. Bởi thế, đi liền với quan niệm “văn tải đạo” là chức năng giáo hóa của thi ca. Nhà phê bình văn học thời Choseon Kim Chongjik (Kim Tông Trực) cho rằng: “Văn là một kỹ xảo thứ yếu, thơ còn ít quan trọng hơn. Nhưng để chỉ dẫn con người tu thân, đạt được sự chuyển biến về đạo đức, và làm cho đạo truyền tới ngày nay, cũng như truyền cho các thế hệ sau mãi mãi không dừng, có thể nhờ đến thơ văn.” [36, tr.317] So Kojong (Từ Cư Chính) trong “Đông nhân thi thoại” cho rằng “Những bài thơ hay sẽ làm độc giả cảm động, đồng thời cũng làm cho bản tính của con người trở nên thanh khiết hơn.” [36, tr.317] Cuối thời Choseon, Wi Paekkyu (1727-1798) cho rằng văn học làm hoàn thiện nhân cách con người: “Không có văn chương, con người không thể trở thành một người hoàn hảo được”. [36, tr.317] Chong Yagyong (1762-1836) nhấn mạnh chức năng của thơ ca : “Không ủng hộ những người thống trị và không quan tâm đến sự thịnh vượng của một đất nước thì không phải là thơ”, “Không tán dương hay đả kích, không đề cao đức hạnh hay phê phán sự đồi bại thì không phải là thơ.” [36, tr.317] Những quan niệm trên đây đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc sáng tác sijo. Sijo là thể thơ để ca hát, nhưng không phải chỉ là ca hát mua vui, mà hầu như mỗi bài thơ đều mang trong nó một thông điệp nhắn gửi người ta sống tốt hơn, đẹp hơn. Nhà nghiên cứu Choi Seung-beom trong bài viết “The Mot of the Choson Sonbi” đã khắc họa lại hình ảnh của một “Sonbi” (nho sĩ) biểu hiện trong thơ sijo: Sijo hướng người ta đến một mẫu hình “Sonbi” hội tụ đầy đủ năm nét đẹp nhân cách: Thứ nhất là lòng trung thành với triều đình, thứ hai là tính cách chính trực, sẵn sàng từ chối những của cải có nguồn gốc không trong sạch, thứ ba là tình yêu đất nước, thứ tư là lối sống giản dị, thanh nhàn, và thứ năm là không ngừng tu thân theo đạo đức Nho gia. [47]
Từ cuối thời Koryeo, nhà thơ- học giả lỗi lạc Byeon gye rang (卞季良1369 – 1430) đã để lại bài sijo giáo huấn nhắc nhở con người sống theo đạo:
Hãy làm điều ta thích
Chớ làm điều chẳng ưa
Dẫu người ta đưa đẩy
Đừng làm điều không hay
Hãy sống đúng với mình
Như ý mệnh trời sinh!
(Bản dịch nghĩa:
Hãy làm điều ta thích, chớ làm điều không ưa
Mặc người ta xui khiến, những điều không thiện, xin đừng làm theo!
Hãy sống đúng với mình, theo ý mệnh tạo hóa sinh ra)
Thời Choseon, nhà thơ Chong Cheol đã sáng tác mười sáu bài “Huấn dân ca”với mục đích dạy dân chúng sống theo những quy tắc đạo đức giản dị, thiết thực, biết giữ cương thường đạo lý.
Bài sijo sau đây nói về ân nghĩa của cha mẹ đối với con cái:
Cha sinh thành ra ta, mẹ dưỡng dục
Nếu không có hai đấng sinh thành, liệu thân thể này có được ra đời?
Ơn dưỡng dục rộng như trời bể mênh mông, biết đến bao giờ mới đền đáp được
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 1)
Chính vì ân nghĩa ấy, mà con cái phải biết lấy chữ “Hiếu” làm đầu:
Lúc cha mẹ còn sống, hãy cố gắng làm tròn chữ Hiếu
Đến lúc cha mẹ ra đi rồi , có đau khổ bao nhiêu cũng chẳng làm được gì
Ở đời , có một việc không bao giờ làm lại được, ấy chính là phụng dưỡng cha mẹ
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 4)
Tình cảm anh em được đề cập trong bài sijo:
Anh à, em à, thử chạm vào da thịt mình mà xem
Được ai sinh thành thì dáng hình sẽ giống thế
Đã cùng được uống dòng sữa mẹ mà lớn lên, thì ai ơi xin đừng thay lòng đổi dạ
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 2)
Tình cảm vợ-chồng cũng được nhắc đến:
Ông trời sinh ra cơ thể, tạo ra từng cặp vợ chồng
Lúc sinh thời, cùng sống, cùng già, cùng chết ở một nơi
Với mối quan hệ như thế, ai có thể ngu ngốc mà nghi ngờ
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 5)
Ngoài tình cảm gia đình, trong “Huấn dân ca” còn có những bài nói về nghĩa vua-tôi:
Tuy khoảng cách giữa vua và bách tính giống như trời và đất
Nhưng bất cứ những việc gì dân làm, vua cũng đều biết hết
Bách tính chúng ta sao có thể hưởng thụ một mình?
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 3)
Sijo làm công việc “khuyến thiện, trừng ác”. Bài sijo sau đây khích lệ mọi người làm việc tốt:
Dân làng ơi, hãy cùng nhau làm việc tốt
Người sinh ra mà không làm được việc tốt.
Thì có khác gì con bò con ngựa đội “gat” lên đầu rồi ăn cơm
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 8)
Và dạy người ta lánh xa điều ác:
Đừng ham mê cờ bạc, trộm cắp
Làm cho nhà khuynh gia bại sản, sao có thể oán giận được người ngoài
Nước cũng có quốc pháp, chẳng phải thế sao?
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 15)
Truyền thống “tải đạo” vẫn được tiếp nối cho đến tận thế kỷ XX. Sijo thời khai sáng là những bài hát đánh thức tình yêu nước, phổ cập giáo dục, khuyến khích gìn giữ đạo đức. Sijo thời thuộc địa đã đi song hành cùng chính trị, là công cụ đắc lực để kêu gọi người công dân cống hiến mình cho Tổ quốc, chẳng hạn như trong bài “Hãy đứng lên” (나오라) của Yi Byeong Ki (李秉岐, 1891-1968):
Người con gái xinh đẹp lang thang buổi sớm mai
Cuộc đời đã vứt bỏ, chẳng thể làm được chi!
Trước khi nở nụ cười, hãy để nước mắt rơi
Sau cái chết bất hạnh, hãy cùng nhìn lại đi!
Hãy đứng lên mạnh mẽ, đánh đuổi lũ gian tà
Tay cầm lên công cụ, dứt khoát chớ chần chừ!
Sijo thế kỷ XX thổi vào lòng người niềm tin vào đạo, tin vào sự chiến thắng của công lý, của một dân tộc có chính nghĩa:
Ngọn cờ! Người là sức mạnh, dùng hết sức mình để giương cao và đứng đầu
Luôn luôn tin vào chiến thắng , người luôn bay cao
Cả hôm nay cũng vậy, trước sự chiến đấu hiên ngang của người, cả địa cầu cũng run rẩy
(Ngọn cờ- Yi Ho U)
Với tư tưởng xuyên suốt là “đạo”, sijo đã tự tạo cho nó một sức sống lâu bền bởi hợp với truyền thống văn học Á Đông. Nhưng nếu chỉ “tải đạo” một cách trực tiếp, khô khan, thì có lẽ sijo đã không có được sức hấp dẫn đến thế. “Đạo” qua sijo thấm vào lòng người một cách rất tự nhiên, bởi sijo còn là thể thơ của “Mỹ”. Trong sijo có sự hài hòa giữa vẻ đẹp hình thức với nội dung thể hiện. Điều này cũng là do ảnh hưởng của tư tưởng văn học dòng Nho gia Trung Hoa. Các nhà nho thời Koryeo đến Choseon luôn ghi nhớ ý kiến của Khổng Tử: “Văn chất hài hòa thì mới đạt đến trình độ quân tử” (Văn chất bân bân nhiên hậu quân tử). Họ coi trọng việc “tải đạo”, nhưng để đạo thấm vào lòng người, thì trước hết phương tiện tải đạo- tức văn- cũng phải đẹp, hấp dẫn và thống nhất với “đạo”. Giữa thời Choseon, nhà phê bình văn học Ho Kyun (1569-1618) cùng với Yi Sugwang (1563-1628) cho rằng phải giữ gìn tính thống nhất về nội dung và hình thức. Họ đề cao một loại văn chương đạt được sự hài hòa cả về “khí”, “cốt” và kỹ thuật viết. Ho Kyun và Yi Sugwang đánh giá cao sự uyên bác, trí thông minh và sự chuyên cần của một nhà thơ. Họ nhấn mạnh những khó khăn trong việc sáng tạo ra một tác phẩm văn chương nghệ thuật. Văn chương không còn bị xem là một “kỹ năng nhỏ”, mà là một môn nghệ thuật đòi hỏi cố gắng suốt đời. [36, tr.319] Một nhà phê bình khác là Chang Yu (Trương Duy, 1587-1638) ví “tu từ giống như hoa, nội dung giống như quả.” [16, tr.196] Ông cho rằng “điều quan trọng là cần phải có quả còn hơn chỉ có hoa. Nhưng để có thể truyền đạt đầy đủ đạo chứa đựng trong nội dung thì cần phải tu từ.” [16, tr.196]
Các nhà thơ chú ý đến hình thức biểu hiện không chỉ do theo quan niệm “văn chất bân bân” của Trung Hoa, mà còn do chính truyền thống mỹ học của Korea. Người Korea được cả thế giới thừa nhận là có năng khiếu thẩm mỹ cao. Họ cũng tự nhận mình là một dân tộc thích cái đẹp. Sống giữa một thiên nhiên đa dạng, phong phú, thay đổi theo từng mùa, người Korea có một tâm hồn tinh tế, mẫn cảm. Vẻ đẹp trong thiên nhiên Korea là vẻ đẹp tươi tắn, duyên dáng và hài hòa, cho nên nghệ thuật Korea luôn tràn đầy màu sắc và những đường nét tỉ mỉ, mềm mại.
Người Korea có một khái niệm chỉ cái đẹp là “meot”. “Meot” là một từ thuần Hàn. Chúng tôi tạm dùng từ “mỹ” để thay thế “meot”, mặc dù “mỹ” không diễn tả đúng hoàn toàn ý nghĩa của từ “meot”. Các tiêu chí của “meot” đã được tích lũy dần trong kinh nghiệm thẩm mỹ của người Hàn qua hàng ngàn năm, cho nên chỉ người Hàn mới có thể hiểu rõ ý nghĩa của từ này. “Meot” có gốc từ từ “mat” (hương vị), nên có thể so sánh “meot” với “rasa” trong văn học Ấn Độ. Có thể tạm diễn tả rằng “meot” là hương vị người ta có được khi tiếp xúc với những đối tượng tao nhã, duyên dáng, hài hòa, hấp dẫn, gợi cảm, và còn phải cao quý nữa. Sự cảm nhận “meot” liên quan đến thế giới tâm hồn một cách sâu sắc. Meot đến từ cái hồn của sự vật hơn là từ dáng vẻ bên ngoài. Với thiên nhiên, chẳng hạn một bông hoa, khi cảm nhận vẻ đẹp của hoa, người Korea không nhìn nhận nó như một đối tượng riêng lẻ, mà tìm kiếm và cảm nhận trong nó sự kỳ diệu, nhiệm màu của tạo hóa. [48] Với con người, một người được gọi là “có meot” khi đẹp cả hình thức lẫn tâm hồn. Bởi thế “meot” gắn liền với “đạo” không thể tách rời- “đạo” của tự nhiên và “đạo” của người quân tử.
Là thể thơ của một dân tộc có truyền thống mỹ học như thế, lại là lời bài hát để trình diễn bởi những nghệ nhân chuyên nghiệp cho đối tượng là tầng lớp Yangban có nhãn quan tinh tế, nên sijo (ngoại trừ saseol sijo) phải đáp ứng các tiêu chí của “meot”. Đây là thể thơ sử dụng ngôn ngữ tao nhã, thế giới hình tượng cao đẹp, duyên dáng cùng nhiều phép tu từ đặc sắc, nhưng quan trọng nhất là tất cả những yếu tố đó phải làm toát lên vẻ đẹp bên trong- cái hồn của bài thơ- là “đạo”. Sijo thể hiện meot qua sự tìm kiếm vẻ đẹp trong thiên nhiên, sự tu dưỡng, trau chuốt vẻ đẹp tâm hồn cùng ngôn ngữ tinh tế với nhiều phép tu từ và hệ thống biểu tượng (núi, sông hồ, cây thông, diệc bạch, quạ đen…)
Các nhà thơ thời Choseon xem một bài thơ đẹp là một bài thơ súc tích - sử dụng thật ít từ để diễn đạt ý nghĩa. Ho Kyun cho rằng “Ý nghĩa nên được tiếp tục, thậm chí khi từ đã hết.” [36, tr.319] Muốn như vậy, thì phải dùng biểu tượng. Phần lớn các biểu tượng trong sijo đều là hình ảnh thiên nhiên, một phần là vì sijo theo phương pháp ước lệ, tượng trưng của thơ ca Trung Hoa, phần nữa là do thiên nhiên không chỉ là chủ đề bao trùm, mà còn là thước đo thẩm mỹ trong sijo. Các nhà tư tưởng thời Choseon cho rằng nhà thơ là người sáng tạo và kết nối những điều huyền bí của tự nhiên. [36, tr.321] Theo đó, một bài thơ hay, có ý nghĩa phải thể hiện được những điều bí ẩn từ sông núi. Học giả Kim Ch’anghyop (1651-1708) cho rằng “Thi ca và thiên nhiên hòa quyện vào nhau về bản chất và tinh hoa.”. “Gần gũi với thiên nhiên sẽ giúp nhà thơ ghi lại được hồn của thiên nhiên và truyền vào trong thơ ca.” [36, tr.321] Một số nhà thơ thời kỳ này nhấn mạnh vào yếu tố hình tượng trong thơ như một yếu tố thúc đẩy sự chân thật của bài thơ, một bài thơ phải vừa nói bằng hình tượng, vừa cụ thể, vừa tự nhiên. [36, tr.321] Như vậy, một bài thơ đẹp phải là bài thơ giàu hình tượng, và các hình tượng này đều phải gắn với thiên nhiên để thể hiện những điều huyền bí của tạo hóa. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, thiên nhiên ở đây còn phải là thiên nhiên của chính đất nước mình, bởi càng về cuối thời Choseon, các nhà thơ càng ý thức về tính dân tộc trong thơ. Học giả thời Choseon Chong Yagyong đã nói: “Tôi là một người Hàn Quốc. Tôi sẽ vui vẻ viết một bài thơ thể hiện thực tế của nước Hàn”. [36, tr.326]
Theo tiêu chí thẩm mỹ như vậy, sijo là thể thơ nói bằng hình tượng thiên nhiên. Những hình tượng xuất hiện thường xuyên nhất trong sijo là núi, đá, sông hồ, cây thông, chim diệc bạch...
Núi chiếm tới hai phần ba diện tích Korea, nên trong các yếu tố thiên nhiên thì núi xuất hiện trong sijo nhiều nhất. Núi thường gợi hứng cho thi nhân sáng tác. Có rất nhiều bài sijo mở đầu bằng cảnh núi:
Mây nghỉ ngơi chốc lát
Ở trên đỉnh non cao
(Chương mở đầu bài sijo của Yi Hang Bok)
Hỡi cúc cu đang hót
Giọng buồn trên Không sơn
(Chương mở đầu bài sijo của Jung Choong Shin)
Một mình ta nâng rượu
Đắm đuối nhìn núi xa
(Chương mở đầu bài sijo của Yoon Seon Do)
Núi ở Korea là núi đá cứng. Trên địa hình như thế, rất ít loài cây sống được, hầu như chỉ có thông, Rừng trên núi của Korea không phải là rừng rậm kiểu như trong thơ ca Ấn Độ, ngược lại là phong cảnh thoáng đãng, càng làm tôn thêm dáng đứng kiêu hãnh của thông. Bởi thế, núi trong thơ ca Korea tuy có gắn với yếu tố tâm linh, nhưng không đậm nét như trong thơ ca Ấn Độ bởi nó không có cái vẻ kỳ bí để gợi nhiều suy tư. Núi Korea thường là chốn tu thân, học đạo. Hai tác phẩm yeon-sijo nói về đạo học đạt đến mức mẫu mực là “Cao sơn cửu khúc ca”, “Đào sơn thập nhị khúc” của của Yi I và Yi Hwang đều lấy bối cảnh là núi non (như đã đề cập khi nói về “đạo” trong sijo). Với cây thông, núi là nơi gởi gắm ước vọng sống hiên ngang bất khuất của người quân tử:
Ta chết đi sau này
Hóa thân thành gì đây ?
Thành cây thông vĩ đại
Trên đỉnh núi Bồng Lai
Khi thế gian tuyết đầy
Một mình ta đứng đấy !
(Seong Sang Mun)
Cảnh núi trong sijo chính là phong cảnh núi non đặc trưng của Korea chứ không giống núi trong những nền văn hóa khác. Núi của Korea có địa hình nhấp nhô với những mỏm, những vực, những vách đá dựng đứng. Vì thế, đá cũng là một biểu tượng thường xuyên xuất hiện trong sijo. Trong bài yeon-sijo “Đá dựng” của Pak Illo (1561-1643), trước cảnh đá vững chãi và thẳng đứng, nhà thơ thể hiện sự trầm ngâm suy tưởng của mình. Tảng đá như bay vút lên thiên đường (bài thơ thứ 20) và chạm vào những thiên thể sáng chói trong vũ trụ rộng lớn; nó “giúp ta đứng dậy” (bài thơ thứ 18) và có thể làm thanh khiết “tâm hồn đang xáo trộn” của mình. Nhà thơ ví vách đá như một “vĩ nhân” (bài thơ thứ 8), lại cũng như một người vô danh không được kể công đức (bài thơ thứ 9). Trong lời thoại với đá, nhà thơ hy vọng rằng ông cũng sẽ “già đi” cùng với đá (bài thơ thứ 15), nhưng đồng thời đá cũng đã nhắc nhở ông về tính tương đối của thời gian (“đá có thể tồn tại mãi nhưng con người thì không”- bài thơ thứ 16). Con đường cheo leo lên đến đỉnh đá được so sánh với những giai đoạn của việc tu thân theo đạo (bài thơ thứ 11). [36, tr.168-189]
Một yếu tố thiên nhiên khác nữa thường xuất hiện trong sijo là sông hồ. Đó là bởi trên lãnh thổ Korea có một hệ thống sông hồ dày đặc. Sông bắt nguồn từ núi, hồ cũng nằm ngay trên đỉnh núi, thế nên có một sự hài hòa tuyệt vời giữa yếu tố núi và sông hồ. “Cao sơn cửu khúc ca” lấy bối cảnh trên núi, mà cũng vẫn tràn đầy yếu tố nước: “Chim núi liệng quanh trên sóng xanh ca hát”, “Bóng núi in mặt nước, chìm trong ánh nắng tà / Suối càng sâu càng mát, hứng thú khó cưỡng a!”. Sống trong không gian đầy sông hồ ấy, câu cá trở thành một nghề nuôi sống người Korea, đồng thời cũng là một thú vui di dưỡng tinh thần. Cảnh sông hồ, thuyền câu vang giọng ca của người ngư phủ xuất hiện trong “Giang hồ tứ thời ca” của Maeng Sa Seong, “Ngư phủ ca” của Yi Hyeon Bo, và tuyệt vời hơn cả là trong “Ngư phủ tứ thời ca” của Yun Seon Do:
Đâu đây trong rừng thẳm
Vang tiếng chim cúc cu
Chèo đi, chèo nhanh nữa!
Những làng ngư ẩn hiện
Trong sương mù giăng giăng
Tiếng hò ta vang vọng
Hò hò ơ, hò ơ...
Dưới hồ sâu trong vắt
Đàn cá lội tung tăng
(Yun Seon Do - Ngư phủ tứ thời ca- bài số 4)
Thiên nhiên trong sijo phong phú như vậy một phần là do triết lý Tống Nho du nhập từ Trung Hoa, đề cao cái lý của tự nhiên, nhưng mặt khác chính là sự thể hiện tư duy mỹ học của người Korea- dân tộc có tâm hồn lãng lãng mạn, nhạy cảm, hòa mình với thiên nhiên và yêu cái đẹp. Các hình tượng thiên nhiên thể hiện sự hài hòa giữa “đạo” và “mỹ” đến độ mẫu mực trong sijo.
Không chỉ đẹp ở thế giới hình tượng, sijo còn đẹp ngay ở bề mặt ngôn từ. Các nhà phê bình đầu triều đại Choseon khuyên các thi gia nên đánh bóng, chau chuốt tác phẩm của mình truớc khi cho ra mắt công chúng. Học giả So Kojong kể về cách mà các nhà thơ xưa đưa tác phẩm của mình cho sư phụ và bạn bè đánh giá, rồi không ngừng “thôi xao” để hoàn thiện tác phẩm của mình. Theo quan điểm của So Kojong, “sự kỳ diệu của thơ ca chỉ nằm ở một từ.” [36, tr.316-335] Các nhà thơ thời Choseon thích thú và luôn ghi nhớ câu chuyện nhà thơ Yi Saek đã thay thế từ ngữ trong bài thơ của mình theo góp ý của con trai để bài thơ đẹp hơn. [36, tr.316-335] Theo quan niệm như vậy nên từ dùng trong sijo thường được chọn lọc và trau chuốt kỹ lưỡng. Trong sijo thường có những Hán tự giàu chất thơ xen vào trong câu thơ tiếng Hàn như “lê hoa”, “nguyệt bạch”, “xuân sơn”, “thu phong”.... tạo nên sự sang trọng, cổ điển. Các phép tu từ cũng được sử dụng với tần suất cao. Các biện pháp tu từ phổ biến trong sijo là điệp ngữ, điệp cấu trúc (trong yeon-sijo), liệt kê, tăng tiến, đột giáng (trong saseol-sijo), điệp từ, chơi chữ, sử dụng từ láy và điệp âm (trong cả pyeong sijo, yeon-sijo và saseol-sijo). Hwang Chin-I, Cheong Ch’ol và Yun Seon Do là những “nghệ nhân luyện vàng” trong ngôn ngữ Korea. Những bài sijo của họ được đánh giá là đạt đến đỉnh cao trong nghệ thuật dùng từ.
Tóm lại, với việc sử dụng ngôn ngữ tinh tế, các phép tu từ và hệ thống biểu tượng gắn với thiên nhiên, sijo đã thể hiện tính thẩm mỹ cao. Là thể thơ của “đạo”nhưng sijo không hề khô khan, đó là nhờ yếu tố “mỹ” luôn được đề cao trong sáng tác và thưởng thức sijo.
Người Hàn khi nói về tính cách dân tộc mình thường nhấn mạnh “Tình” (Jeong정, 情) và “Hận” (Han한, 恨). Điều đó không có nghĩa là chỉ người Korea mới cảm nhận được “tình” và “hận”, thực chất bất cứ một con người nào trên thế gian cũng đều nhiều lần trải qua những cảm giác này trong đời. Có điều là chúng ta không thường “gọi tên” những cảm giác đó ra, và những cảm giác này- đặc biệt là “hận”- cũng chỉ là tình cảm cá nhân, không phổ biến và đậm nét đến mức có ở tất cả mọi người, mọi thời đại, vừa âm ỉ vừa dữ dội như ở người Korea.
Nói về “tình” của người Hàn, đó không đơn thuần là tình yêu. Người phương Tây có thể hơi lúng túng trước ý nghĩa của “tình”, nhưng người Á Đông chúng ta rất dễ dàng thấu hiểu nó. “Tình” của người Hàn hoàn toàn giống với “tình nghĩa”/ “nghĩa” của người Việt chúng ta. Đó là cảm giác gắn kết một cách sâu sắc với một người, một vật, hay một nơi chốn nào đó, đến mức thấy nó như một phần của ta, ta luôn muốn có nó, kề bên nó, và khi mất đi thì đau đớn tiếc nuối khôn nguôi. Cảm giác ấy dường như ta không điều khiển được. Người Hàn thường nói “tình bao trùm lên tôi”/ “tình đã thấm vào tôi” như thể tình là cái ở ngoài chiếm hữu lấy ta, chứ không phải là thứ tự ta sinh ra, tự ta sở hữu. Thế nên, đôi khi sợi dây gắn kết đó luôn nối ta với những người, những vật, nhưng địa điểm tưởng chừng không còn chút hấp dẫn nào đối với ta. Trong bài viết “Jeong and Han, a look at the Korean psyche”, tác giả Yujinishuge. đã cho chúng ta những ví dụ như thế này để hình dung về “tình”: một cặp vợ chồng sống lâu bên nhau, bây giờ không còn yêu nhau nữa, thậm chí luôn cãi vã, thấy ghét nhau, nhưng họ lại không thể xa rời nhau được, thứ gắn kết họ chính là “tình”; hoặc một căn nhà cũ kỹ, ta sống ở đó đã lâu, nó tồi tàn và bất tiện, bây giờ ta chuyển sang một căn nhà khác tiện nghi khang trang hơn, thế mà trong lòng vẫn luôn nhớ tiếc, đó chính là “tình”. [53]
Người Hàn là một dân tộc trọng tình, bởi họ vốn là những cư dân nông nghiệp lúa nước. Loại hình kinh tế này đòi hỏi sự lao động tập thể, gắn kết cộng đồng cao. Môi trường sống của người Hàn lại rất khắc nghiệt, nên phải tương trợ lẫn nhau. Thêm nữa, người Hàn chịu ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa quy định về ngũ luân. Tất cả những yếu tố đó khiến chữ tình trở nên sâu đậm trong tính cách dân tộc Hàn.
Nói về tính trọng tình của người Hàn như vậy, chúng ta sẽ cảm thấy mâu thuẫn trước nhận định rằng “hận” cũng là một nét tính cách đậm nét của dân tộc Hàn, nhưng thực ra chúng hoàn toàn không mâu thuẫn, mà lại thống nhất với nhau. “Hận” chính là từ “tình” mà sinh ra. Người ta không thể cảm thấy “hận” một đối tượng nếu không hề có “tình” với đối tượng ấy. Tác giả Yujinishuge. đã cho ví dụ như thế này: Nếu một tên trộm đột nhập vào nhà lấy hết của cải của bạn, bạn sẽ thấy tức giận, căm ghét tên trộm ấy, nhưng cảm giác ấy không gọi là “hận”, bởi bạn không hề quen biết, chưa từng có tình cảm gì với tên trộm ấy. Nhưng khi một người thân lừa dối bạn, khiến bạn đau đớn, thì cảm giác ấy chính là “hận”. [53] Bởi gắn liền với “tình”, nên “hận” trong văn hóa Hàn không mang ý nghĩa tiêu cực như chúng ta thường nghĩ. Đối với người Hàn, “hận” không có nghĩa là chấm hết, mà luôn đi cùng với hy vọng: luôn mong đối tượng thay đổi, và luôn nỗ lực để giải hận. Do đó, với người Hàn không chỉ có con đường đi từ “tình” đến “hận”, mà còn có từ “hận” đến “tình”. Hai trạng thái này như hai cực âm dương đắp đổi lẫn nhau. Thêm nữa, từ “hận” thường chỉ dùng cho người dưới đối với người trên, bởi vì nếu là người bề trên, thì những khúc mắc hoàn toàn có thể giải quyết, những mối giận dữ dễ dàng được giải tỏa, thì sẽ không còn phải ôm “hận” trong lòng nữa. Nhưng người dưới, địa vị thấp hơn, quyền lực không có thì làm sao có thể giải “hận” được.
Và đây chính là mấu chốt vấn đề. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra vì sao người Hàn có tính ôm hận, nuốt hận đặc trưng, còn những dân tộc khác thì không như vậy. Đó là bởi người Hàn chịu ảnh hưởng của Tống Nho quá đậm nét, đậm nét hơn Nhật Bản và Việt Nam. Người Hàn có hệ thống tôn ti rõ ràng, cho nên việc người dưới thường phải im lặng nhẫn nhịn là chuyện bình thường. Nếu người Việt chúng ta do môi trường sống khá thuận hòa nên nghiêng về âm tính, có tính khoan dung, thì ngược lại môi trường sống của người Hàn vốn khắc nghiệt, thêm nữa họ vốn có nguồn gốc siberia mạnh mẽ, dương tính, nên cứng nhắc và không dễ thứ tha. Tất cả những yếu tố đó cộng với tính trọng tình đã sinh ra lòng “hận” như là tính cách đặc trưng của cả dân tộc.
Văn học thể hiện tâm hồn dân tộc, thế nên từ khởi thủy văn học Hàn đã đậm tình và hận. Nhà nghiên cứu Seo De Seok đã chỉ ra cảm thức “hận” có từ trong văn học dân gian Korea: “Truyền thuyết của Hàn Quốc là văn học của cái hận được tạo nên bởi cái hận của dân tộc Hàn bị dồn nén trong lịch sử của Hàn Quốc” [5, 68]. Nhưng nếu nhìn trong suốt lịch sử văn học, thì các tác phẩm cuối thời Koryeo- đầu thời Choseon là thể hiện rõ tình- hận hơn hết, bởi vì đây là thời kỳ Tống Nho ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, lại có nhiều biến động chính trị tạo nên nỗi đau cho những người ưu quốc. Sijo nở rộ trong thời kỳ đó, nên sijo chính là thể thơ của tình và hận.
Về phương diện bày tỏ tình-hận, sijo có ưu điểm hơn thơ Đường luật, bởi thi luật của sijo tự do hơn thơ Đường rất nhiều nên nhà thơ không phải gò ép mình, cảm xúc có thể tự do tuôn trào, và sijo được sáng tác để hát lên nên dễ dàng thể hiện những cung bậc tình cảm hơn. Sijo cũng có thế mạnh bày tỏ tình- hận hơn thể thơ phổ biến thời Koryeo là “cảnh ky thể ca”, bởi “cảnh ky thể ca” là những bài ca thể hiện niềm “tự hào cuồn cuộn” về cuộc sống của sĩ phu, không cho phép nói lên nỗi hờn oán. Có thể nói, trong bối cảnh thơ Đường và “cảnh ky thể ca” đang được ưa chuộng, sijo ra đời ban đầu nhằm mục đích để giới sĩ phu có nơi chốn gửi gắm tình- hận của mình.
Trong sijo từ khởi thủy đến hiện đại, có rất nhiều bài thơ là lời thì thầm gửi gắm tình cảm đến “người” (nim):
Thân này dù có chết
Chết, chết đến trăm lần
Dù xương dần hóa bụi
Dù linh hồn biến tan
Vẫn nồng nàn tha thiết
Hướng về người biết chăng ?
(Bản dịch nghĩa:
Thân thể này dù có chết và chết đến trăm lần
Dù xương trắng hóa thành cát bụi, dù linh hồn còn hay không
Vẫn chân thành hướng về người, người ở phương nao.)
(Jeong Mong Ju)
Quạ đen dầm mưa tuyết
Màu lông hóa trắng ngần
Đêm mấy lần nguyệt rạng
Rồi sẽ thành đêm đen
Lòng này gửi người thương
Tấm chân tình có đổi?
(Bản dịch nghĩa:
Con quạ dầm mưa tuyết, sắc đen hóa trắng
Đêm trăng sáng ngần cũng sẽ trở thành đêm tối
Là tấm chân tình hướng về phía người thương, liệu có đổi thay.)
(Bak Paeng Nyon)
Muốn gạt nỗi lòng
Thành trăng rong chơi
Hài hòa vời vợi
Giữa trời bao la
Tìm nhà người ấy
Sáng ngời ta soi
(Bản dịch nghĩa:
Tôi muốn vứt bỏ tấm lòng và trở thành mặt trăng
Treo một cách hài hòa trên bầu trời cao
Đi đến nơi người thương đang ở và chiếu ánh sáng)
(Jeong Cheol)
Mộng thương nhớ người yêu
Hồn ta liều hóa dế
Thu lê thê đêm lạnh
Cho ta ghé khuê phòng
Người quên ta, mộng đẹp
Dế sẽ nhắc tên này!
(Bản dịch nghĩa:
Thương nhớ người yêu, ta biến thành chú dế
Ghé qua phòng người thương trong một đêm thu dài
Đánh thức người đã quên ta ra khỏi giấc ngủ sâu.)
(Park Hyo Gwan)
Từ “người” trong tất cả các bài thơ trên trong nguyên tác đều là “nim” đại từ chỉ người ở ngôi thứ ba. Nếu hiểu “nim” là người yêu, thì tất cả những bài thơ trên đây đều là những bản tình ca nồng nàn: Jeong Mong Ju khẳng định dù có chết đến trăm ngàn lần vẫn mãi mãi thủy chung; Bak Paeng Nyon nói với người tình rằng dù vạn vật trên thế gian đổi dời, đen thành trắng, ngày thành đêm chăng nữa thì tình anh cho em vẫn luôn nồng nàn không hề đổi khác; Jeong Cheol thể hiện ước mơ được hóa thân thành mặt trăng để đến soi sáng phòng của người thương; và Park Hyo Gwan có ước muốn thật đáng yêu: biến thành một chú dế chui vào phòng người yêu trong đêm đông dài, để nếu người quá vô tâm, ngủ say chẳng hề nhung nhớ, thì chú dế sẽ ca hát để đánh thức người, khiến người luôn nhớ ta.
Nhưng tất cả những bài thơ trên đây đều có một tầng nghĩa khác. “Nim” là đại từ chỉ ngôi thứ ba, không xác định rõ ngôi thứ, nên không chỉ là người yêu mà còn có thể hiểu theo nghĩa trang trọng hơn, nhất là khi dựa vào tư cách là những trung thần vĩ đại của những nhà thơ trên đây, thì hoàn toàn có thể hiểu “nim” là “Quân vương”.
Jeong Mong Ju (鄭夢周, 1337– 1392) là một vị quan đại thần quyết không thay lòng đổi dạ thờ hai chủ. Khi vương triều Koryeo sụp đổ, ông cự tuyệt không làm quan cho vương triều Lý và đã bị sát hại. Jeong Mong Ju đã thấy cái chết của mình từ trước khi tai họa ập đến, nhưng ông không trốn tránh. Hai chương đầu của bài thơ nhắc đi nhắc lại về cái chết tiên cảm ấy bằng điệp từ “chết” được lặp lại hai lần liên tiếp và những từ cùng trường nghĩa với “chết”: “xương trắng”, “linh hồn”. Trợ từ “cho dù”/ “cũng” đi cùng những cụm từ chỉ sự tiêu vong: “xương trắng hóa thành cát bụi”, “linh hồn còn hay không” đã nhấn mạnh dù bất cứ hoàn cảnh nào, dù trải qua bao nhiêu lần chết, tan biến thì tấm lòng hướng về nhà vua cùng vương triều Koryeo vẫn luôn luôn tồn tại.
Bak Paeng Nyon (朴彭年, 1417 – 1456) là một trong “ Tử lục thần” (sáu vị đại thần bị tử hình vì nổi loạn thời Sejo). Căn nguyên việc nổi loạn của Bak Paeng Nyon chính là vì lòng trung với vua Dan-jong: Khi Dan-jong bị chú mình cướp ngôi, ông cùng những vị đại thần lỗi lạc khác đã chống đối nhằm khôi phục vương vị cho Dan-jong. “Quạ đen hóa trắng”, “đêm trăng sáng thành đêm đen” chính là những hình ảnh ẩn dụ chỉ thời cuộc biến đổi, trong triều nhiều kẻ đổi trắng thay đen, chân lý không còn, chỉ có toàn dối trá. Nhưng cho dù cả thế gian dối trá thì tấm lòng tác giả vẫn nhất định kiên trung, dù biến thiên dâu bể thế nào vẫn kiên quyết hướng về vua Dan-jong- người duy nhất chính đáng ở trên ngai vàng. Tác giả khẳng định tấm chân tình của mình sẽ mãi mãi không đổi dời, và ông đã dùng cái chết để chứng minh điều ấy.
Trường hợp của Jeong Cheol và Park Hyo Gwan cũng vậy, họ đều là những trung thần thời Choseon, và “người thương” của họ không ai khác chính là nhà vua.
Truyền thống dâng hiến lòng trung và những khúc ca thiết tha của mình cho “nim” vẫn được tiếp nối cho đến tận thế kỷ XX, lên đến đỉnh cao tư tưởng và nghệ thuật ở nhà thơ Choi Nam Seon, bút danh là Yuk-dang. Thơ Choi Nam Seon là những khúc tụng ca gửi đến “người” với tất cả niềm sùng kính:
Cành liễu rủ đu đưa
Hạt mưa xuân lấp lánh
Dù cơn mưa lạnh lẽo
Có tình yêu của Người
Thấm vào trong từ trước
Ai người thất bại đâu!
ÔM CHẶT (1)
Vì người, trăng cũng tỏa sáng
Vì người, hoa cũng nở tươi
Thật sự, nếu không phải vì người
Cớ sao mật ong lại ngọt, ngải lại đắng?
Nhờ mặt trời mà thế gian bừng sáng
Điều đó cũng là do người
ÔM CHẶT (3)
Dù thế nào cũng là người
Có ở trên mặt trời cũng hãy thử so sánh
Sự cô đơn và bóng tối
Nếu có thể cũng nhanh chóng đi qua
Dù mùa đông có dài
Thì cũng nhanh chóng có bóng râm
“Người” trong thơ Choi Nam Seon là cội nguồn sự sống. “Người” có thể làm bung nở niềm vui cũng như làm dịu nhẹ nỗi đau. Nhà thơ Hong Myung Hee đã làm rõ ý nghĩa của từ “Người”: “Ngài/ Người của Yuk Dang thật ra là ai? Tôi chỉ phỏng đoán mà thôi. Tên của ngài có lẽ là Choseon”. [42, tr.25] Yi Kwang Soo cũng nói về thơ của Yuk Dang như sau “Dáng vẻ như là thơ tình ái, nhưng nếu ngẫm kỹ thì lại thể hiện lòng yêu nước, nếu xem xét tường tận thì cũng giống với thơ của nhà thơ Kabir ở Ấn Độ” [42, tr.25]. Từ “người” là nhà vua trong sijo trung đại đến “người” là đất nước trong thơ Choi Nam Seon đã có một bước tiến dài về tư tưởng, nhưng về căn bản vẫn có cùng bản chất là “tình” đối với đất nước. Sijo là thể thơ trữ tình cá nhân, nhưng nó không dừng lại ở tình cảm riêng tư nhỏ hẹp, mà mang vẻ đẹp cao quý của tình yêu đất nước.
Vì tình quá sâu đậm, nên trong sijo cũng tràn đầy nỗi “hận” mất nước, nỗi “hận” vương triều sụp đổ, và nỗi “hận” khi quân vương đi sai đường.
Sijo dòng “Huekoka” đầu thời Choseon là tiếng lòng của những cựu thần xót xa trước thời cuộc. Mang “tình” sâu đậm với vương triều Koryeo, khi triều Choseon thành lập, họ không thể thay đổi được thời cuộc nên không thể giải mối “hận” mất nước, chỉ có thể gửi nỗi “hận” ấy vào thi ca.
Nhà thơ Yi Saek (李穡, 1328 ~1396) là một trung thần nắm giữ vận mệnh quốc gia thời Goryeo, nên luôn tiếc nuối vì đã không ngăn được sự suy thoái của Goryeo. Sau khi triều Choseon thành lập ông đã treo ấn từ quan. Bài thơ sau đây là tiếng lòng của Yi Saek:
Tuyết tan nơi hẻm núi
Những đám mây sần sùi
Tìm cánh mai vui tươi
Biết nơi nào hoa nở?
Một mình ta lỡ bước
Đơn độc trước hoàng hôn
(Bản dịch nghĩa:
Nơi ngõ nhỏ tuyết đã khô, mây lấp đầy
Hoa mai vui vẻ nở nơi nao
Một mình đứng trước hoàng hôn không biết đi đâu.)
Khung cảnh thiên nhiên trong bài thơ chính là bức tranh thời cuộc. Hình ảnh “tuyết tan” ở chương đầu ngụ ý thời kì thịnh vượng của đất nước đang dần tan biến khi vương triều Koryeo sụp đổ, “mây” ám chỉ bầu không khí ảm đạm với những thế lực mới xuất hiện. Bài thơ chứa đựng tâm trạng của tác giả: oán trách thời cuộc, không biết đặt mình vào đâu khi vương triều suy vong, xót xa khi những trung thần (như hoa mai) ngày càng hiếm hoi. Tác giả ví mình như người lữ hành cô độc trong ánh chiều tà, để bài thơ khép lại với nỗi buồn đơn côi và tiếng lòng day dứt trước tương lai của đất nước.
Cũng mang tấm lòng hướng về vương triều cũ như thế, nhà thơ Won Cheon Seok (元天錫, 1330~?) đã sáng tác bài sijo:
Nước cứ thăng trầm chảy
Dù có đến vạn niên
Vương nghiệp năm trăm năm
Biến thiên bao chìm nổi
Hoàng hôn buông ngập lối
Khách bước, kìa lệ rơi!
(Bản dịch nghĩa:
Nước chảy thăng trầm dù là vạn năm
Vương nghiệp năm trăm năm trải qua bao chìm nổi
Trong bóng hoàng hôn, người khách vừa đi vừa cố kìm nước mắt.)
Bài thơ xây dựng dựa trên sự đối lập của thiên nhiên vĩnh hằng với nền chính trị biến thiên dâu bể, và ngụ ý thời đại mình đang sống là buổi hoàng hôn u buồn của đất nước. Chương cuối có sự gặp gỡ, đồng vọng với thơ của Yi Saek: người trung thần như kẻ lữ hành đơn côi, nước mắt tuôn rơi, chẳng biết đưa bước chân về đâu. Tứ thơ đó còn trở đi trở lại trong nhiều bài sijo khác của dòng thơ “Huekoga”, chẳng hạn như tác phẩm sau đây của Gil Chae (1353 – 1419)- vị quan đại thần đã về ở ẩn ngay sau khi vương triều Koryo sụp đổ:
Ta một mình một ngựa
Về chốn cố đô xưa
Núi vẫn như ngày trước
Người hùng lạc bước chân
Thái bình ngày tháng ấy
Bây giờ vẫn còn mơ.
(Bản dịch nghĩa:
Một mình một ngựa trở lại thủ đô năm trăm năm
Núi non vẫn y nguyên nhưng người hùng lại không có nơi để đi
Vẫn mơ ước ngày tháng thái bình.)
Bài thơ khắc họa hình ảnh một người hùng thưở xưa nay tìm về chốn cố đô, thấy núi non vẫn như cũ mà thời cuộc đã đổi thay, trước thiên nhiên vĩnh hằng, con người thất thế thấy mình cô độc, lạc lõng, vẫn muốn níu kéo hoài niệm về một thuở thái bình.
Nếu như những trung thần triều Koryeo khóc cho mối “hận” vương triều sụp đổ, thì sijo của nhiều vị quan trong triều Choseon lại là tiếng khóc vì “hận” quân vương trước những việc làm sai trái. Những cuộc tranh giành vương vị trong triều Choseon đã khiến nhiều trung thần kẻ bị sát hại, kẻ bị lưu đày. Nhiều bài thơ đã thể hiện nỗi đau thời cuộc ấy:
Đêm qua nước thác ghềnh
Vừa trôi vừa nức nở
Bây giờ ta thử ví
Là tiếng khóc người thương
Muốn nước chảy ngược dòng
Ta gửi lòng qua lệ
(Bản dịch nghĩa:
Đêm qua nước thác ghềnh đã vừa khóc một cách đau đớn vừa chảy qua.
Bây giờ thử suy nghĩ đó là tiếng người yêu vừa khóc vừa đi
Muốn nước chảy ngược dòng, nếu vậy tôi cũng khóc và gửi tấm lòng của mình.)
Won Ho (元昊, 1397- 1463)
Đây là bài thơ được Won Ho sáng tác khi cả dòng tộc ông bị lưu đày vì vương vị. Tác giả sử dụng phép liên tưởng thay đổi dần từ tiếng khóc của “thác ghềnh” trong câu đầu trở thành “tiếng khóc của người yêu” trong câu thứ hai rồi lại trở thành “tiếng khóc của tôi” trong câu cuối. Tôi cũng khóc, người cũng khóc, thác cũng khóc...là tâm trạng đau đớn biết bao. Tác phẩm chứa đầy tình yêu và sự chân thành đối với “người yêu” (thực ra là ẩn dụ cho vương nghiệp). Nước mắt được ví với nước, nhưng không phải là nước sông suối bình thường, mà là “nước thác ghềnh” ào ào tuôn chảy, để diễn tả nỗi đau đớn, giận dữ cuồn cuộn. Chủ thể trong bài thơ này không chấp nhận thời cuộc, mà mạnh mẽ hơn, muốn thay đổi thời cuộc, kéo ngược lại trật tự đã mất: “muốn nước chảy ngược dòng”, song bản thân lại biết đó là điều bất lực. Vì không thể chống đối, nên chỉ biết ôm “hận” mà thôi. Thực tế, bản thân tác giả Won Ho đã đau đớn đến mức cứ ở mãi trong phòng, không bước chân ra bên ngoài. Tiếng thác từ bên ngoài vọng vào đã cộng hưởng với tiếng lòng nức nở tạo nên âm điệu đau đớn dữ dội cho bài thơ.
Nhưng cho dù có đau đớn thế nào đi nữa, thì “hận” vẫn luôn gắn chặt với “tình”. Nhiêu bài sijo cho thấy dù nhà vua sai trái gây nên bao đớn đau, nhưng những trung thần vẫn luôn hướng về nhà vua, không chỉ với nỗi oán hận mà bằng cả tình cảm thiết tha, muốn dùng lời nói của mình để lay chuyển, thức tỉnh nhà vua:
Ngày gió sương phủ lối
Đóa cúc vàng nở tươi
Hái hoa ta gửi tới
Điện ngọc ngập bụi vàng
Hoa mang theo lẽ phải
Ai người chẳng thấu đâu!
(Bản dịch nghĩa:
Hoa cúc vàng nở vào ngày gió sương phủ kín lối đi
Gửi đến điện ngọc ngập tràn bụi vàng
Lẽ phải hoa mang đến đâu ai cũng hiểu)
(Song Soon)
Tuyết rơi trong rừng thông
Từng nhánh thông đâm chồi.
Mong ngắt được một nhánh
Để gửi đến vua tôi.
Dù hoa có úa tàn
Sau khi người nhìn qua
(Bản dịch nghĩa:
Tuyết rơi trong rừng thông, từng nhánh thông đâm chồi.
Ước gì ngắt được một nhánh để gửi đến người.
Cho dù hoa có tàn sau khi vua nhìn thấy nhánh thông của tôi.)
(Cheong Cheol)
Mây nghỉ ngơi chốc lát
Ở trên đỉnh non cao
Gặp kẻ khóc oán hờn
Mây thu vào mưa lệ
Qua bệ rồng, mây hỡi
Mưa trút thời sẽ sao?
(Bản dịch nghĩa:
Những đám mây nghỉ ngơi chốc lát trên trên đỉnh núi cao ngất
Biến nước mắt oán giận của những người cô đơn thành mưa rồi lại bay đi
Nếu rơi vào cung điện sâu thẳm nơi nhà vua đang ở thì sẽ làm thế nào?)
(Yi Hang Bok)
Các tác gia Song Soon (1493 – 1583), Cheong Cheol (鄭澈, 1536-1593), Yi Hang Bok (李恒福, 1556- 1618) làm quan dưới ba đời vua khác nhau, nhưng họ giống nhau ở chỗ đều là những kẻ thất chí, chịu nhiều oan khuất, không được nhà vua thấu hiểu. Song Soon về ở ẩn, Cheong Ch’ol và Yi Hang Bok bị lưu đày, nhưng họ vẫn hướng về nhà vua. Song Soon dùng hình ảnh đóa cúc vàng nở tươi trong ngày gió sương giăng kín để ngụ ý tấm lòng mình vẫn luôn thắm nồng dù trong hoàn cảnh thế nào đi nữa. Khi nói đóa cúc vàng mang theo lẽ phải, tác giả muốn ngụ ý rằng mình luôn ngay thẳng, chính trực, tấm lòng ấy nhất định nhà vua sẽ hiểu. Cũng như vậy, Cheong Cheol gửi lòng mình vào nhánh thông trong ngày bão tuyết mong gửi đến nhà vua để vua thấu hiểu. Không chỉ trong tác phẩm trên đây, Cheong Cheol còn gửi lòng mình đến vua trong nhiều bài sijo khác nữa: khi thì là cánh chim (bài thơ 28), khi thì là dòng chảy của sông Hàn ngang qua thủ đô (bài thơ 29), hoặc là mặt trăng (bài thơ 30) để ông có thể chiếu xuống, soi sáng và điều chỉnh trái tim nhà vua. Yi Hang Bok thì sáng tác trên đường đi lưu đày đến Buk Cheong, Ham Kyung Do, vượt qua nhiều ngọn núi cao. Ông muốn gửi nước mắt oán hờn của mình vào đám mây, mong mây mang đến kinh thành, trút thành mưa xuyên thấu qua cung điện, thấm vào lòng nhà vua Kwang Hae Gun- người đã làm bao điều sai trái, tàn ác- để gột rửa, thay đổi trái tim vua. Những tiếng lòng trên đây vừa thể hiện hận-tình không thể tách rời, vừa có tác dụng phúng thích, thể hiện trách nhiệm của người quân tử trước vận mệnh đất nước.
Sijo không chỉ chứa đựng tình-hận của người quân tử, mà còn có cả tình-hận của người nhi nữ. Tình- hận biệt ly trong sijo chính là sự tiếp nối truyền thống thơ ca Korea từ khởi thủy. Nhà nghiên cứu Deo Dae Seok khi viết về dân ca cổ đã cho rằng: “Tâm tình về nỗi biệt ly là một trong những truyền thống của thơ ca cổ điển Hàn Quốc, được coi là đặc tính về mặt tình cảm của dân tộc Hàn được tiếp nối từ “Công vô độ hà ca”, “Tây kinh biệt khúc”, sijo của Hwang Chin-I và “Sự trầm mặc của Người” của Han Yong-Un.” [5, 106].
Các tác gia nữ sáng tác sijo hầu hết đều là kisaeng (kỹ nữ), nên thơ của họ tràn ngập ái tình, nhưng không bao giờ là những mối tình trọn vẹn, hạnh phúc. Có nhiều người đàn ông ghé qua cuộc đời, song không có ai là của riêng mình, không có ai ở lại mãi mãi, thế nên tình của kisaeng đã chứa hận biệt ly ngay khi vừa chớm nở. Ngay cả Hwang Chin-I (黃眞伊, 1522-1565)- người kỹ nữ tài danh nhất- cũng không thể giữ nổi bước chân người yêu thương:
Núi vẫn là núi ấy
Nước đâu là nước xưa
Suốt đêm ngày chảy mãi
Hỏi sao hoài thủy chung?
Người anh hùng như nước
Cất bước là mãi đi.
(Bản dịch nghĩa:
Núi là núi cũ, nhưng nước đâu phải là nước xưa
Đêm ngày chảy mãi, sao có thể còn nguyên nước cũ
Anh hùng cũng như nước, có ra đi nhưng không có trở về)
Núi xanh như ý em
Nước biếc- lòng ai đó
Nước đi là đi mãi
Núi thì tình sao phai?
Nước…
Cũng hoài thương núi
Khóc sụt sùi khi trôi
(Bản dịch nghĩa:
Núi xanh như ý em, nước biếc là tình người
Nước biếc trôi đi, nhưng lòng núi có thể thay đổi?
Nước xanh cũng không quên được núi, nên vừa khóc vừa chảy đi
Trong hai bài thơ này, tác giả sử dụng cặp biểu tương quen thuộc trong thi ca: “núi” và “nước”. “Núi xanh” là “cái không thay đổi” và được đồng nhất với “tôi”. “Nước xanh” là “cái thay đổi”, tượng trưng cho “người ấy”. Trong bài thơ thứ nhất, mượn quy luật của tự nhiên: nước chảy là chảy mãi không bai giờ quay ngược dòng lại, Hwang Chin-I nói lên nỗi hận biệt ly: người anh hùng như nước, gặp một lần rồi cất bước đi mãi mãi, để lại người con gái như núi ngàn năm mòn mỏi đợi chờ. Bài thơ thứ hai, nếu chỉ dừng ở hai chương đầu, thì ý nghĩa về tấm lòng “người đi- kẻ ở” chưa có gì mới lạ so với bài thơ thứ nhất. Nhưng đến chương thứ ba, với ba âm tiết của nhịp đầu: “녹 수 도” (“nước xanh cũng”), tác giả đã tạo nên một bước chuyển ý, đem lại sự mới mẻ cho cặp biểu tương quen thuôc này: không chỉ có “núi” chung thủy, mà “nước” cũng nặng lòng: “Nước xanh cũng không quên được núi, nên vừa khóc vừa chảy đi”. Bài thơ vừa thể hiện tấm lòng chung thủy của chủ thể trữ tình, vừa thể hiện mong muốn người thương yêu cũng đáp lại sự thủy chung ấy. Niềm mong ước thật dịu dàng ấy thể hiện nỗi khát khao của người con gái luôn phải làm “núi” chứng kiến bao dòng nước chảy qua, nay thèm được nhận lại tình yêu và nỗi nhớ như mình đã cho đi.
Nỗi tình- hận biệt ly của người kỹ nữ luôn thể hiện qua nỗi nhung nhớ, ngóng chờ trong tuyệt vọng:
Có bao giờ em không chung thủy?
Có bao giờ em dối người chăng?
Đêm canh ba vầng trăng vằng vặc
Chẳng bóng hình, dẫu có hoài mong
Trong thu phong lá rơi xào xạc
Xao xác hoài, xao xuyến lòng em!
(Hwang Chin-i)
(Bản dịch nghĩa:
Có bao giờ em không chung thủy? Có bao giờ lừa dối người thương?
Đêm trăng sáng, giữa canh ba, người không trở lại, chẳng chút bóng hình
Trong gió thu, lá rơi xào xạc, xao xuyến lòng em.)
Chương đầu của bài thơ là hai câu hỏi: “Có bao giờ em không chung thủy? Có bao giờ lừa dối người thương?”. Hỏi, nhưng thực ra là để khẳng định: em luôn thủy chung, chưa từng lừa dối, em không đáng bị người bỏ rơi như thế. Chương cuối nhấn mạnh âm thanh (소리):Tiếng gió thu, tiếng lá rơi, ngầm thể hiện tiếng thở dài của người con gái đã mòn mỏi trong nỗi ngóng trông.
Cũng như vậy, nàng kỹ nữ Gye Rang (Quế Nương) trong nỗi hận biệt ly đã sáng tác bài sijo:
Hoa lê rơi như mưa
Túm chặt tay áo khóc
Lệ bao nhiêu cho vừa
Ngày đôi ta từ tạ
Giờ đây thu trút lá
Người có còn nhớ ta?
Giấc mơ cô lẻ quá
Mãi trở đi trở lại
Nghìn dặm đường cách xa!
(Bản dịch nghĩa:
Túm chặt tay áo khóc chia tay người trong màn hoa lê rơi như mưa.
Lúc này khi lá rụng trong gió thu, liệu người còn nhớ đến tôi không?
Giấc mơ cô đơn trở đi trở lại trên con đường nghìn dặm cách xa.)
Gye Rang là người kỹ nữ nổi tiếng thời Choseon. Nàng từng có mối tình thiết tha với nhà thơ, đồng thời là học giả đức độ Cho Un- Yu Hee Kyung. Thế rồi Cho Un lên kinh. Người đã đi là đi biền biệt, không trao gửi tin tức gì, bỏ lại nàng trong nỗi sầu muộn. Hồi tưởng lại giây phút chia tay trong khung cảnh đẹp như bức tranh tuyệt bích, hoa lê rơi dày như cơn mưa, nàng không sao quên nổi mối tình cũng đẹp như bức tranh ấy. Thế mà người nỡ lãng quên!
Gặp gỡ rồi chia ly, một người yêu đương, một người quên lãng, đó là nỗi buồn thấm trong thơ của bất cứ người kỹ nữ nào. Chờ đợi cũng chẳng được gì, thế nên đôi khi họ xoa dịu mình bằng những giấc mộng yêu thương:
Người gặp gỡ trong mơ
Tình tuy không là thực
Nhưng bước ra ngoài mộng
Nhung nhớ biết làm sao?
Hỡi người, tuy là mộng
Xin hãy gặp thường xuyên!
(Bản dịch nghĩa:
Người gặp trong mơ tuy không có niềm tin và tình nghĩa.
Nhưng ngoài giấc mơ gặp thế nào khi nhớ nhung không chịu được?
Hỡi người, đừng nghĩ đó là giấc mơ mà hãy gặp thường xuyên.)
Tác phẩm trên đây là lời của kỹ nữ Myung Ok (?), tên thường gọi là Hwasung. Người con gái trong bài thơ khao khát yêu đương đến nỗi níu kéo cả giấc mộng trong đó có người thương, nàng năn nỉ người trong giấc mộng ấy, tuy chẳng là thực, nhưng xin đừng rời bỏ nàng. Tình cảnh ấy thể hiện nỗi cô đơn xót xa đến tận cùng của những người kỹ nữ chuyên làm công việc đem đến niềm vui cho người khác, riêng mình thì mãi mãi đơn côi. Đó là tình, mà cũng là hận, hận những người đàn ông đã từng cùng mình trao gửi bao tình ái rồi rời xa, hận cho kiếp sống trớ trêu của mình.
Như vậy, thơ sijo không chỉ “tải đạo”, mà còn là thể thơ thấm đẫm tình cảm. Tình trong sijo luôn hòa lẫn với “hận” do đặc trưng tình cách “ôm hận”, “nuốt hận” của dân tộc Hàn. Sijo của nam giới thường thể hiện tình-hận với vương triều, với đất nước, trong khi sijo của nữ nhi thấm đẫm tình-hận lứa đôi. Có thể mượn bài thơ của Shin Heum (신 흠 , 1566- 1628) để nói thay tiếng lòng đầy yêu thương, hơn oán của những người nghệ sĩ sáng tác sijo:
Người nghệ sĩ hay hát
Nỗi lòng càng đa đoan
Hờn oán chẳng thành lời
Mượn đờn ca để gởi
Nếu hát rồi vơi nhẹ
Ta cũng sẽ ca này!
(Bản dịch nghĩa:
Người sáng tác khúc hát nhiều thì ưu phiền cũng nhiều
Không thể nói hết thành lời chỉ có thể hát để giải tỏa
Nếu hát rồi có thể bộc lộ chân tình tôi cũng sẽ thử hát)
3.3 “Phong lưu” và “Khoái lạc”
Phong lưu (p'ungryu風流) là một từ Hán. Tuy vậy, từ xưa, người Korea đã thường xuyên sử dụng từ này. Từ thời Silla, Choi Chi Won (857-~) đã nói rằng: “Phong lưu chính là “Hyeon mo chi to” (Huyền mẫu chi đạo)” của thế gian [43, tr.7]. Để minh họa cho tinh thần “phong lưu”, ông có câu thơ:
“Nhắm mắt lại, mọi điều như có ánh trăng chiếu vào
Dù không đến được Tây Phương cũng vẫn vô cùng đẹp.” [43, tr.7]
Trong “Từ điển lời nói” của Korea giải thích rằng phong lưu là: “Gạt bỏ hết những vướng mắc trong lòng, có cảnh đẹp, có việc để vui thú” [43, tr.7]. Nhưng cái “vui thú” của người phong lưu là hoàn toàn tao nhã, thuần khiết, không gắn với dục vọng và bất cứ một biểu hiện thô thiển, tục tĩu nào. Để cảm thấy mình “phong lưu”, chủ thể phải thoát khỏi những lo toan, vướng bận trong đời, thấy mình ung dung tự tại, đón nhận tất cả với niềm vui, với nụ cười nhẹ nhõm. Người “phong lưu” biết hưởng thụ thú vui ở đời, nhưng những thú vui đó chủ yếu trong tinh thần chứ không phải thể xác. Nó là một kiểu hưởng thụ nhưng không chiếm hữu, vô tư và thanh tao. Để có thể “phong lưu”, người ta phải đủ thông thái để đạt đến trạng thái “tri túc thường lạc”.
Phong lưu là một trong những cảm thức thẩm mỹ chủ đạo trong pyeong sijo (chứ không phải là saseol sijo), đặc biệt là trong sijo dòng “seok kuyng si” nhàn nhã yên bình đầu thời Choseon, trong sijo của trường phái Yong Nam và Yi I, cũng như trong thơ của các tác gia “ở ẩn” trung kỳ và hậu kỳ Choseon.
Phong lưu- đó là khi thấy cuộc sống đủ đầy, đáng sống, tràn niềm vui. Nhà thơ Maeng Sa Seong thể hiện ý vị “phong lưu” trong tác phẩm “Giang hồ tứ thời ca”: cả bốn mùa đều thư thái an nhàn bên sông hồ, mùa xuân tận hưởng “hương thơm tràn ngập không gian”, “Uống rượu gạo và nhấm nháp chú cá tươi bắt trong suối”, mùa hạ đón “những đợt sóng mang đến cơn gió mát như thể làm quên đi cái nóng oi bức”, mùa thu “mang theo chiếc lưới trên con thuyền nhỏ, trôi bồng bềnh theo cơn sóng”, mùa đông “đội nón tre nghiêng qua một bên và mặc áo chiếc áo choàng vào”, cảm thấy không hề lạnh... Mỗi mùa một thú vui, mùa nào cũng dễ chịu, đó chính là bởi con mắt nhìn vạn vật đều là bạn, đều là niềm vui:
[1] Bên hồ, xuân mới chớm
Chẳng cưỡng nổi hương thơm
Bắt cá tươi trong suối
Nhắm với rượu, tuyệt thay!
Thân này thư thái thế
Đều nhờ ơn vua a!
[2] Bên hồ mùa hạ ghé
Thư nhàn chẳng việc chi
Sóng mang theo gió mát
Quên đi nắng oi nồng
Thân này mát mẻ thế
Đều nhờ ơn vua a!
[3] Bên hồ, mùa thu đến
Cá cũng to tròn lên
Mang lưới trên thuyền nhỏ
Trôi bồng bềnh sóng sông
Thân này vui thú thế
Đều nhờ ơn vua a!
[4] Bên hồ, mùa đông đến
Tuyết rơi dày đặc lên
Đội nón tre nghiêng nghiêng
Mặc áo choàng thêm nữa
Thân này không thấy lạnh
Đều nhờ ơn vua a!
Bản dịch nghĩa:
[1] Bên sông hồ, mùa xuân đến, hương thơm tự động tỏa ra không thể nào cưỡng nổi
Uống rượu gạo và nhấm nháp chú cá tươi bắt trong suối thì thật là tốt.
Việc cơ thể cảm thấy nhẹ nhàng như thế cũng đã là ân huệ của đức vua.
[2] Bên sông hồ, mùa hè đến, không có việc để làm
Những đợt sóng mang đến cơn gió mát như thể làm quên đi cái nóng oi bức
Việc cơ thể cảm thấy mát mẻ như thế cũng là ân huệ của đức vua
[3] Bên sông hồ, mùa thu đến, mỗi chú cá đều to hơn lên
Mang theo chiếc lưới trên con thuyền nhỏ, trôi bồng bềnh theo cơn sóng
Việc cơ thể cảm thấy thú vị như thế cũng là ân huệ của đức vua.
[4] Bên sông hồ, mùa đông đến, tuyết rơi dày đặc
Đội nón tre nghiêng qua một bên và mặc áo chiếc áo choàng vào
Việc cơ thể không cảm thấy lạnh cũng là ân huệ của đức vua.)
(Maeng Sa Seong)
Các nhà thơ đặc biệt yêu thích đóng vai người ngư phủ để ca hát giữa sóng sông, có cá tươi làm mồi nhắm, có bầu rượu kề bên, có con thuyền làm nhà, chu du khắp đó đây. Nhà thơ Yi Hyeon Bo (李賢輔, 1467 ~ 1555) cũng thể hiện thú phong lưu của người ngư phủ trong năm bài “Ngư phủ ca”:
[1] Vô lo giữa đời thường
Cuộc đời người ngư phủ
Thuyền nhỏ trôi mênh mông
Trên triền miên biển rộng
Vì đã quên hồng trần
Biết thời gian trôi a?
[2] Nhìn xuống nước biếc trôi
Nhìn quanh bao đồi núi
Cách biệt với thế gian
Bụi hồng trần che phủ
Làng ven sông trăng sáng
Chẳng gợn âu lo a!
[3] Gói cơm trong lá sen
Xiên cá qua cành liễu
Buộc con thuyền nhỏ lại
Đám lau sậy đầy hoa
Niềm vui bình dị ấy
Ai biết được chăng a!
[4] Mây lững lờ đỉnh núi
Mòng biển lượn mặt sông
Thân thiết không tính toán
Chỉ chúng là cặp đôi
Quên lo lắng giữa đời
Vui đùa với nhau a!
[5] Quay về hướng kinh thành
Cung vua xa ngàn dặm
Dẫu nằm trên thuyền câu
Có quên chăng việc nước?
Nếu ta không lo lắng
Thiếu kẻ giúp đời sao?
(Bản dịch nghĩa
[1] Không có sự lo âu giữa cuộc sống đời thường đó là cuộc sống của người đánh cá.
Con thuyền nhỏ trôi trên biển rộng mênh mông
Vì đã quên thế giới con người nên có biết thời gian đang trôi qua?
[2] Nhìn xuống bên dưới thấy nước trong xanh đang chảy, nhìn xung quanh thấy núi non trùng điệp bao quanh.
Được bao phủ bằng bao nhiêu lớp bụi hồng?
Ánh trăng chiếu sáng ở ngôi làng ven sông nên trong lòng không có bất kì sự lo âu nào.
[3] Gói cơm trong lá sen xanh và xiên cá qua cành liễu,
Buộc con thuyền vào một đám lau sậy đầy hoa,
Ai biết được niềm vui bình dị ấy.
[4] Mây lững lờ trôi trên đỉnh núi, con mòng biển đang lượn trên mặt nước.
Chỉ có hai hình ảnh này là thân thiết với nhau không tính toán.
Quên đi nỗi lo lắng của cuộc đời và vui đùa với các bạn.
[5] Quay về hướng kinh thành, cung điện ở xa ngàn dặm.
Dù nằm trên thuyền câu nhưng có quên được việc nước?
Dù tôi không lo lắng nhưng sẽ không có hiền nhân cứu giúp thế gian sao?)
(Yi Hyeon Bo)
Trong bốn bài thơ đầu, tác giả khắc họa cuộc sống tự do, thơ mộng, không vướng bận suy tư (“vô lo giữa đời thường”, “chẳng gợn âu lo”, “không tính toán”, “quên hồng trần”, “quên lo lắng giữa đời”…). Không gian ấy như ốc đảo tách hẳn khỏi cuộc đời (“Nhìn quanh bao đồi núi, cách biệt với thế gian”). Bài thơ cuối là lời tuyên bố vứt bỏ những mối lo âu triều chính. Cuộc đời trở nên giản dị, nhẹ tênh.
Nhà thơ Yoon Seon Do (尹善道 ; 1587-1671) có tới bốn mươi bài sijo trong chuỗi tác phẩm “Ngư phủ tứ thời ca”, con thuyền nhỏ của tác giả chở niềm vui không cùng suốt bốn mùa xuân- hạ- thu- đông, tác giả thể hiện thú phong lưu khi ngắm mặt trời lên, khi thấy cành mẫu đơn trôi theo dòng nước, khi đám trẻ làng chài bám lấy tay...Tác giả nhìn thiên nhiên với cặp mắt ngỡ ngàng, mê say và ngập tràn hạnh phúc:
Đâu đây trong rừng thẳm
vang tiếng chim cúc cu
Chèo nhanh, chèo nhanh nữa!
Những làng ngư ẩn hiện
trong sương mù giăng giăng
Chi-kuc-chong, chi-kuc-chong, ơ-sa-oa...
Dưới hồ sâu trong vắt
đàn cá lội tung tăng
(“Ngư phủ tứ thời ca”, Xuân ca, bài thứ 4)
Thu lại về với biển,
cá kéo đến hàng đàn
Neo thuyền, neo thuyền lại
Cùng vui đùa thỏa thích
nơi nước biển trong xanh
Chi kuc chong, chi kuc chong, ơ-sa-oa
Quay lại nhìn trần gian,
càng cách xa chốn ấy,
càng tuyệt vời biết bao!
(“Ngư phủ tứ thời ca”, Thu ca, bài thứ 2)
Trong thế giới thơ ca của Yoon Seon Do, bản ngã và tự nhiên trở thành một thể thống nhất. Người đọc tìm thấy trạng thái bản ngã hoàn toàn chìm đắm trong tự nhiên. Tự nhiên là tôi. Tôi là tự nhiên. Bài thơ này là một tác phẩm thể hiện tâm trạng lâng lâng khi đắm mình trong thiên nhiên, chính là biểu hiện tột đỉnh của “phong lưu”.
Cảm thức “phong lưu” trong sijo được thể hiện trong mọi hoàn cảnh. Ngay trong căn nhà tranh, thi nhân cũng vẫn thấy mình giàu có, an nhiên tự tại, như thái độ trong tác phẩm sau đây của nhà thơ Sin Heum (Thân Khâm):
Đừng cười chê mái nhà dột nát
Cột nhà tôi cái ngắn, cái dài
Túp lều tranh của tôi xiêu vẹo
Ánh trăng tràn trên những cành cây
Những ngọn đồi bao quanh nơi ấy
Là của tôi, chỉ của mình tôi!
(Bản dịch nghĩa
Xin đừng cười nếu mái nhà tôi dột nát, cột nhà dài hay ngắn, mái nhà tranh của tôi xiêu vẹo.
Ánh trăng đổ xuống những cành nho, những ngọn đồi bao quanh,
Là của tôi và chỉ của riêng tôi mà thôi.)
Hoặc như trong những câu thơ của Yi Hyeonbo:
“Gió mát và trăng non vẫn đợi,
Vào ra túp lều cỏ của tôi.”
Ngay cả khi đóng vai người nông dân, các tác gia sijo vẫn ca hát với tinh thần phóng khoáng, thấy cuộc sống này đáng sống, đáng vui:
Những hạt dẻ đang rơi
Trong thung lũng táo đỏ
Những chú cua đang bò
Đồng mùa trơ gốc rạ
Rượu ủ vừa chín tới
Người bán lọc rượu qua
Ta mua về lọc uống!
(Bản dịch nghĩa
Trong thung lũng táo rực đỏ, làm sao để hạt dẻ rụng xuống?
Cánh đồng trơ gốc lúa những con cua phải làm sao để bò?
Rượu đã chín kẻ bán lọc rượu ngang qua, tiện đây mua về lọc rượu làm sao để uống?)
(Hwang Hue)
Bài thơ trên đây của Hwang Hue (黃喜 , 1363- 1452) khắc họa cảnh sống ở đồng quê sau mùa gặt (những cây lúa chỉ còn trơ gốc), thung lũng rực đỏ màu táo chín, báo hiệu một cuộc sống no đủ, bình yên. Người đọc như ngửi thấy cả hương táo quyện với hương rượu gạo vừa chín tới, và như nghe tiếng rao của người bán đồ lọc rượu, cùng tiếng gọi của chủ nhân- tất cả thể hiện một hương vị cuộc sống thần tiên.
Trong bài viết “The Mot of the Choson Sonbi”, tác giả Choi Seung-beom đã liệt kê những thứ làm nên thú “phong lưu” của một người trí thức bao gồm thơ, rượu, ca, vũ và mỹ nhân [47] , trong đó đặc biệt nhất có lẽ là rượu.
Rượu xuất hiện nhiều trong sijo, để đem đến cho ta cảm nhận lâng lâng, phóng khoáng:
Cậu bé, hãy dẫn bò về Bắc thôn,
Để ta thử chút rượu mới.
Khuôn mặt đỏ bừng vì rượu,
Ta sẽ trở lại trên lưng bò dưới ánh trăng.
A ha! Tối nay ta là Phục Hy,
Vinh quang xưa ở đầu ngón tay ta.
Bài thơ trên nằm trong tác phẩm yeon-sijo bốn bài có chủ đề “Gọi một cậu bé” của Cho Chon Seong (1554-1628) mô tả về cảnh nhổ cỏ, câu cá, cày ruộng, và trở về nhà uống rượu. Rượu khiến tác giả thấy mình được trở thành thần tượng mà mình mơ ước- vua Phục Hy trong thần thoại Trung Hoa.
Nếu như Cho Chon Seong nhờ rượu biến mình thành Phục Hy, thì nhà thơ Yi Teo Khyeong (1561-1613) đã cho rượu và trăng quyện hòa, để biến mình thành Lý Bạch trong bài sijo sau:
Trăng treo trên bầu trời, sáng tỏ, tròn vành vạnh
Từ lúc hoàng hôn,
Trăng đã gặp gió và sương,
Trăng sẽ sớm lặn.
Nhưng không, hãy chờ và chiếu sáng
Trên chén vàng của vị khách say sưa.
Cái “phong lưu” mà rượu đem về rất thơ, nó hoàn toàn khác với cơn say túy lúy. Rượu khiến cuộc sống có một chút men, nhưng sijo kịp dừng ở một chút đó, đủ để làm nên ý vị cho cuộc đời.
Khuôn mặt “phong lưu” tiêu biểu nhất trong sijo là nhà thơ Im Je (Lâm Đễ 林悌1549 – 1584. Im Je không chỉ nổi danh về văn chương mà còn nổi danh về những mối tình tuyệt đẹp thời Choseon. Một trong những mối tình ấy là với nàng Han Wo (Hàn Vũ)- người kỹ nữ nổi danh ở đất Pyeong Yang. Một ngày đến gặp nàng, Im Je mắc mưa, đã mượn cơn mưa lạnh để ướm dò tình cảm của Hàn Vũ:
Bầu trời phương bắc sáng trong
Ta đi mà chẳng mang phòng áo tơi
Ai ngờ lên núi tuyết rơi
Cánh đồng mưa ngập trắng trời buốt căm
Hôm nay Hàn Vũ gặp rồi
Toàn thân buốt lạnh, phải nằm xuống a!
(Bản dịch nghĩa:
Bầu trời phương bắc trong sáng, ta ra đi mà không áo mưa
Trên núi tuyết đã rơi, cánh đồng cũng ngập trong nước mưa lạnh
Hôm nay đã mắc mưa lạnh, toàn thân lạnh buốt phải ngủ mau thôi )
Trong bài thơ này, Im Je đã nói về hoàn cảnh của mình “ngấm mưa lạnh”. Vì “mưa lạnh” chính là tên của nàng kisaeng, nên câu thơ cũng có nghĩa là đã gặp, đã vì nàng Hàn Vũ mà chịu ướt lạnh. Đêm nay phải đi vào giấc ngủ buốt căm, chẳng biết nàng có thấu chăng? Thế rồi Hàn Vũ họa lại:
Trời sao lạnh buốt thế này?
Làm sao vỗ nổi đêm nay giấc nồng?
Sao người ngủ giữa tuyết đông?
Đâu rồi chăn ngọc, gối hồng uyên ương?
Hôm nay mưa ướt giữa đường
Cho em xin sưởi người thương giấc nồng!
(Bản dịch nghĩa:
Không biết vì sao lạnh lẽo thế này, ngủ bằng cách nào đây?
Người đã bỏ đi đâu tấm chăn màu ngọc bích và chiếc gối thêu hình uyên ương để định ngủ trong cơn ớn lạnh?
Hôm nay người đã đội mưa lạnh (hàn vũ) đến đây, xin được sưởi ấm cho giấc ngủ của người.)
Thông qua biểu hiện của Hàn Vũ muốn sưởi ấm cho Im Je đã phải đội mưa lạnh, có thể theo dõi bước tiến của tình yêu thiết tha mà họ dành cho nhau. Nhiều từ ngữ trong bài thơ là những lời liên quan tới chuyện chăn gối, nhưng lại không làm vẩn lên những suy nghĩ ấy, đó chính là tính “phong lưu”.
Nếu chỉ đi xa hơn một bước nữa thôi với rượu và phụ nữ, cảm thức đó sẽ không còn là “phong lưu” mà trở thành “khoái lạc”.
Nếu những cảm thức thẩm mỹ đạo và mỹ, tình và hận là những cảm thức tưởng chừng đối lập nhưng luôn đi song hành với nhau, thì ngược lại, phong lưu và khoái lạc không thể cùng tồn tại, mà chúng triệt tiêu nhau. Đã phong lưu thì không phải là khoái lạc, mà đã có khoái lạc, dù chỉ một chút thôi, thì sẽ không còn là phong lưu nữa.
Phong lưu là hưởng thụ trên phương diện tinh thần, còn khoái lạc thì nghiêng về thể xác. Phong lưu là hưởng thụ nhưng không chiếm hữu, còn khoái lạc thì gắn liền với sự chiếm hữu, tận hưởng. Phong lưu thể hiện trong sijo truyền thống, còn khoái lạc chỉ có trong saseol-sijo.
Nếu như sijo truyền thống là thể thơ của tầng lớp yang-ban, mang tính chất cao quý, thì saseol sijo lại là thể thơ của người bình dân, mang tính đại chúng. Thế nên saseol sijo không chịu ảnh hưởng của mỹ học Nho gia, mà đi theo truyền thống mỹ học của văn học dân gian. Saseol sijo có thể xem là sự tiếp nối dòng chảy của Tục dao thời Koryeo. Tục dao là những bài thơ tràn đầy tình ái và cả tình dục, vì bị kiểm duyệt gắt gao nên đã chết vào thời Choseon. Đến hậu kỳ Choseon, tư tưởng thực học và văn hóa thị dân đã làm thay đổi bộ mặt xã hội. Trong bối cảnh ấy, những khát vọng sống, khát vọng yêu đương và hưởng thụ bị đè nén quá lâu đã có cơ hội bùng dậy một cách mãnh liệt. Những khát vọng ấy được thể hiện sinh động trong saseol sijo. Mỹ học của saseol sijo giống hệt mỹ học của văn học phục hưng phương Tây, về căn bản là hướng đến tiếng cười và thể hiện khát vọng của con người, đầy tính nhân văn. “Khoái lạc” chính là từ chính xác nhất gọi ra cái hồn của saseol sijo.
Nếu như văn học phục hưng phương Tây cười nhạo giới tu sĩ và những quy tắc đạo đức Thiên Chúa giáo, thì saseol sijo của Korea cười nhạo những kẻ học thức, mô phạm rởm trong giới quý tộc và sĩ phu Nho giáo:
Này mọi người làm nghề muối cua! Này Changsu kia ơi!
Đồ dùng của ngươi sao cứ kêu lanh canh lên thế? Hãy bắt đầu đi!
Bên ngoài là xương, bên trong là thịt, hai mắt nhìn lên trời, đi lên đằng trước, đi xuống đằng sau
Có tám cái càng bé, có hai cái càng lớn, đổ tương vào chính là cua muối.
Changsu ơi! Đừng nói khó hiểu như thế, làm cua muối đi nào!
Bài thơ này tuy bề mặt là tả con cua, nhưng hàm ý thực chất nói về những kẻ giả tạo. Câu thơ “Bên ngoài là xương, bên trong là thịt, hai mắt nhìn lên trời, đi lên đằng trước, đi xuống đằng sau” sử dụng biện pháp chơi chữ, cũng có thể hiểu là: “Bên ngoài thì cứng, bên trong mềm, hai con mắt hướng lên trời, đi lên đi xuống”, ngụ ý chê cười loại người bên ngoài đàng hoàng tĩnh chính, thanh cao tao nhã với đủ mọi quy tắc đạo đức, nhưng bên trong rỗng tuếch, yếu đuối nhu nhược. Đó là loại người vô dụng chỉ biết hướng hai con mắt lên trời mà đi lên đi xuống, chẳng được việc gì cả, đã vậy lại cứ khua động rộn ràng: “sao cứ kêu lanh canh lên thế?”. Sau khi mô tả “con cua”- những kẻ mô phạm rơm như vậy, tác giả dân gian đã tạo tiếng cười sảng khoái bằng hành động “đổ tương vào” “con cua” ấy, biến nó thành “cua muối”. Đó chính là sự “hạ bệ” những thần tượng của một thời, tạo nên sự bình đẳng trong xã hội. Người dân bây giờ có quyền cười vào cả những thứ mô phạm nhất.
Saseol sijo cười tất cả, cười những chuyện hết sức “tào lao” trong đời:
Những cây kim cỡ vừa, cỡ nhỏ rơi xuống giữa biển khơi,
Họ nói rằng với một cây cọc dài bằng chân, mười hai người chèo thuyền dán mắt vào mỗi cây kim.
Ôi người tình, người tình của em, xin đừng tin những gì anh nghe được khi người ta kể anh nghe hàng trăm chuyện bịa đặt.[1]
Và cười cả chính mình, như cô gái tự nhạo việc mình chờ người yêu lén đến trong đêm:
Chớp nhoáng ngoài cửa sổ rồi nhanh chóng vụt mất
Chẳng phải là anh yêu mà em đang chờ đợi, chỉ là bóng mây đi qua ánh trăng mờ lừa dối em đấy thôi!
Thật may là buổi đêm, nếu là ban ngày sẽ bị người ta cười chê!
Bước vào thế giới của saseol sijo chính là bước vào thế giới của những điều khôi hài, nơi đó người ta không thể ngăn được tiếng cười sảng khoái để phá tan những quy tắc luân lý và những rào cản làm cuộc sống tẻ ngắt. Cái sảng khoái mà nụ cười này mang lại khác hẳn khoái cảm tinh thần trong sijo truyền thống. Trong sijo truyền thống người ta gặp niềm vui thú mang tính chất thanh cao, tao nhã, còn ở saseol sijo người ta gặp tiếng cười hả hê không cần ý tứ trước những điều tầm thường, thậm chí là vô đạo đức, như chuyện ông lão ân ái với đứa bé giữa ruộng dưa, chuyện bà lão vượt đường xa để nhuộm tóc đen về quyến rũ những chàng trai trẻ, thế nhưng lại gặp mưa làm trôi hết màu, mái tóc trở lại thành trắng.
Khoái lạc trong saseol sijo còn thể hiện ở sự thỏa mãn những khao khát bản năng. Chẳng ngại ngần, tác giả dân gian miêu tả trực tiếp cả cảnh nam nữ ái ân:
Nhà Gak-ssi ơ, hãy mua những cái nóng nào.
Cái nóng tháng Năm tháng Sáu,
cái nóng nhiều năm dồn lại,
cái nóng muộn,
cái nóng sớm,
cái nóng mà gặp người thương yêu trên phản gỗ có trăng chiếu sáng ôm riết lấy mà nằm thẳng, không biết làm việc gì mà ngũ tạng hừng hực vừa toát mồ hôi hột vừa thở hổn hển,
và cái nóng vào đêm dài của tháng đông chí ở trong vòng tay người thương trong chăn dày ở sàn nhà nóng ấm phía đầu lò sưởi hai thân quyện làm một làm cái này cái kia khi chân tay bí bối cổ họng khô rát uống ừng ực nước cơm cháy lạnh để phía cuối lò sưởi.
Nhà Gak-ssi ơ, nếu muốn mua cái nóng như thế thì hãy mua theo những gì nhìn thấy đi!
Ông bán hàng ơi, trong sáu cái nóng của ông hai cái nóng gặp người thương yêu ai mà không thích. Đừng bán cho ai hãy bán cho tôi!
(Bản dịch của Trần Thị Bích Phượng trong sách Những bài giảng văn học Hàn Quốc [5, tr.538])
Bài thơ kể một câu chuyện hài hước: người bán hàng đi rao bán “cái nóng”, ông chào hàng tất cả sau loại “cái nóng”, bốn “cái nóng” đầu là nóng của mùa hè, nóng nhiều năm dồn lại, nóng muộn và nóng sớm- là những cái nóng của tự nhiên. Người mua vẫn im lặng. Nhưng sau khi ông “quảng cáo” nốt hai “cái nóng” còn lại là cái nóng vì ân ái với người tình trên phản gỗ đêm trăng và trên sàn ấm đêm đông, thì người mua vội vã cất lời, rằng hai cái nóng ấy “ai mà không thích”, “Đừng bán cho ai hãy bán cho tôi!”. Người đọc cười về nỗi người rao hàng thật tinh quái, và người mua cũng thật tham lam đòi mua cho hết hai cái nóng gặp người yêu, chẳng chừa cho ai khác. Nhưng đáng cười nhất vẫn là những lời ông lão bán hàng tả hai cái nóng gặp người tình với những từ ngữ táo bạo: vì “ôm riết lấy”, “hai thân quyện làm một” mà khiến người ta “ngũ tạng hừng hực” “toát mồ hôi hột”, “thở hổn hển”, “chân tay bí bối”, “cổ họng khô rát”, “uống ừng ực nước cơm”, cho thấy mức độ say đắm của việc ái ân. Sự thắng thắn khơi gợi khoái cảm đến vậy chỉ có thể có trong saseol sijo.
Như vậy, nếu như “phong lưu” là một trong những nền tảng mỹ học cơ bản của sijo truyền thống, thì sang đến saseol sijo, “khoái lạc” mới chính là nguyên tắc mỹ học. “Phong lưu” và “khoái lạc” là hai thái độ hoàn toàn khác biệt nhau trước cuộc đời, điều đó tạo nên nét khác biệt lớn lao về mặt nội dung trong sijo truyền thống và saseol sijo.
Tóm lại, khi nghiên cứu đặc điểm sijo từ góc nhìn cảm thức thẩm mỹ, có thể thấy sijo là thể thơ của những cảm thức thẩm mỹ vừa đối lập, vừa hài hòa với nhau: đạo và mỹ, tình và hận, phong lưu và khoái lạc. Những cảm thức này là kết quả của sự hòa trộn giữa bản sắc Korea với ảnh hưởng của tư tưởng lý luận văn học dòng Nho gia Trung Hoa. Sijo đã thể hiện rõ nét tâm hồn người Korea.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
- Andrew C.Nahm, (Nguyễn Kim Dân dịch), 2005: Lịch sử và văn hóa bán đảo Triều Tiên, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
- Nguyễn Long Châu, 1997: Nhập môn văn học Hàn Quốc, NXB Giáo dục, Hà Nội.
- Nguyễn Long Châu, 2000: Tìm hiểu văn hóa Hàn Quốc, NXB Giáo dục, Hà Nội.
- Phan Nhật Chiêu, 2010: “Hàn Long Vân và Hàn Mặc Tử: Thơ ca của niềm im lặng”, in trong sách Văn học cận đại Đông Á – từ góc nhìn so sánh, NXB Tổng Hợp TP.HCM.
- Cho Dong Il, Seo Dae Seok, Lee Hai Soon, Kim Dae Haeng, Park Hee-Byoung, Oh Sae Young, Cho Nam Hyon, (Trần Thị Bích Phượng dịch), 2010: Những bài giảng văn học Hàn Quốc, Nxb Văn học, Hà Nội.
- Đoàn Lê Giang: Tư tưởng lý luận văn học Trung Quốc cổ điển (chuyên luận dùng cho học viên cao học), Khoa Văn học và Ngôn ngữ, ĐHQG T.P. Hồ Chí Minh.
- Đoàn Lê Giang, 2011: “Con đường hiện đại hoá văn học của các nước Khu vực văn hoá chữ Hán”, in trong sách Văn học cận đại Đông Á – từ góc nhìn so sánh, NXB Tổng Hợp TP.HCM.
- Gina L. Barnes, Huỳnh Văn Thanh dịch, 2004: Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản, đỉnh cao văn minh Đông Á, NXB Tổng Hợp T.P. Hồ Chí Minh.
- Phan Thu Hiền (viết chung với Lê Chí Quế), 2004: “Huyền thoại lập quốc Korea và Việt Nam” - Tạp chí Vietnam Studies, Seoul, Korea, 5 / 2004; Tạp chí Văn hoá dân gian, 12 / 2004
- Phan Thu Hiền, 2011: “Yếu tố nội sinh và ngoại sinh trong sự hình thành, phát triển “Văn học mới” Korea từ những phối cảnh nghiên cứu”, in trong sách Văn học cận đại Đông Á – từ góc nhìn so sánh, NXB Tổng Hợp TP.HCM.
- Phan Thị Thu Hiền, 2012: “Sự hình thành bản sắc Korea qua hương ca (hyangga)”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Hoàng thúc Lý Long Tường và mối quan hệ hợp tác Việt Nam – Korea từ quá khứ đến hiện tại, Đại học Ngoại ngữ- Tin học TP. HCM , tháng 5- 2012.
- Lê Đăng Hoan, 2011: “Dịch tập thơ "Sự im lặng của tình yêu" và một vài cảm nhận về tình yêu nhân dân và yêu tổ quốc của Han Yong-un”, in trong sách Văn học cận đại Đông Á – từ góc nhìn so sánh, NXB Tổng Hợp TP.HCM.
- Hwang Gwi Yeon- Trịnh Cẩm Lan, 2002: Tra cứu văn hoá Hàn Quốc, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Han Yong Un, Lê Đăng Hoan dịch, 2006: Sự im lặng của tình yêu (tuyển tập thơ), NXB Văn học, Hà Nội.
- KimYoung Rang, Lê Đăng Hoan dịch, 2007: Đến khi hoa mẫu đơn nở (tuyển tập thơ), NXB Văn học, Hà Nội.
- Komisook- Jungmin- Jung Byung Sul, Jeon Hye Kyung- Lý Xuân Chung dịch 2006: Văn học sử Hàn Quốc từ cổ đại đến cuối thế kỷ XIX, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
- Thanh Liêm, 2001: Triều Tiên ( trong bộ sách Đối thoại với các nền văn hóa), NXB Trẻ, Hà Nội.
- Đặng Văn Lung (chủ biên), 2002: Tiếp cận văn hoá hàn Quốc, NXB Văn hoá- Thông tin, Hà Nội.
- Hà Văn Lưỡng, 2009: “Những nét tương đồng và dị biệt của thơ sijo (Hàn Quốc) và thơ haiku (Nhật Bản)- nhìn từ đặc trưng thể loại”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á , Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.
- Đặng Đức Siêu, 2007: Tinh hoa văn hóa Phương Đông : Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản , NXB Giáo dục, Hà Nội.
- Vũ Thị Thanh Tâm, 2010: “Những đóng góp của Yi Kwang-su cho văn học Triều Tiên đầu thế kỷ XX”, in trong sách Văn học cận đại Đông Á – từ góc nhìn so sánh, NXB Tổng Hợp TP.HCM.
- Vũ Thị Thanh Tâm, 2011: “Dấu ấn của quan niệm văn chương Trung Hoa đến quan niệm văn chương Korea thời Choseon (1392-1910)”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế Việt Nam và Korea trong phối cảnh Đông Á, ĐH KHXH-NV TP.HCM, tháng 6 năm 2011, Bình luận văn học – niên giám 2011.
- Thái Bá Tân dịch, 1990: Thơ cổ Triều Tiên và Nhật Bản, NXB Lao động, Hà Nội.
- Trần Ngọc Thêm, 2004: “Vai trò của tính cách dân tộc trong tiến trình phát triển ở Hàn Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 6-2004.
- Lê Quang Thiêm, 1998: Văn hóa văn minh và yếu tố văn hóa truyền thống Hàn, NXB Văn học, Hà Nội.
- Nguyễn Quang Thiều, 2002: Năm nhà thơ hiện đại Hàn Quốc, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội.
- Trần Thúc Việt, 2006: Văn học Korea, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Woo Han Yong- Park In Gee- Chung Byung Heon- Choi ByeongWoo- Yoon Bun Hee, bản dịch của Đào Thị Mỹ Khanh, 2009: Văn học cổ điển Hàn Quốc, Nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội.
B. Tài liệu tiếng Anh
- David Richard McCann, 1988 : Form and freedom in Korean poetry, copyright by E.J.Brill, Leiden, The Netherlands.
- David Richard McCann, 2000: Early Korean literature : Selections and introductions, Publisher: Columbia University, New York.
- In-sŏb Zŏng, 1983: A guide to Korean literature, Publisher: Hollym International Corporation.
- Kevin O'Rourke (Translated and edited), 2002: The books of Korean Shijo, Publisher: Harvard university, Asia Center, Honolulu.
- Kim Hunggyu ; R. J. Fouser translated, 1997: Understanding Korea literature, Publisher: M. E. Sharpe, New York.
- Michael D. Shin (2001): “Interior Landscapes: Yi Kwangsu’s “The Heartless” and the Origins of Modern Literature”, in Colonial Modernity in Korea, Publisher: Havard University.
- Peter H. Lee, 2002: The Columbia Anthology of Traditional Korean Poetry, Publisher: Columbia University Press.
- Peter H. Lee, 2003: A history of Korean literature, Publisher: Cambridge University press, Cambridge.
- Richard Rutt (Translated and edited), 1998: The Bamboo Grove: An Introduction to Sijo, Publisher: The University of Michigan press.
C. Tài liệu tiếng Hàn
38. 김명준, 2009:한국 고전 시가 의 모색 (Tìm hiểu thơ ca cổ điển Hàn Quốc), 보고사.
- 김대행, 1986: 시조유형론 (Loại hình sijo), 이화여자대학교출판부.
40. 김대행, 2009:한국의 고전 시가 (Thi ca cổ điển Hàn Quốc), 이화여자대학교출판부.
41. 고미숙, 임형택, 1997: 한국고전시가선: Thi ca cổ điển Hàn Quốc tuyển chọn), 창작 과 비평사.
- 송정란 , 2003, 한국 시조시학의 탐색 (Nghiên cứu về thi pháp sijo Hàn Quốc), 문학아카데미.
- 전재강 , 2007: 시조문학의 이념과 풍류 (Ý niệm và phong vị của sijo), 보고사.
- 이정자 , 2003: 시조 문학 연구론 (Nghiên cứu về Sijo), 국학자료원.
- 이정자 , 1998: 한국 시가의 아니마 연구 (Nghiên cứu anima trong thơ ca Hàn Quốc), 백문사.
D. Tài liệu từ Internet
- Phan Nhật Chiêu: “Hoàng Chân Y và Hồ Xuân Hương & Huyền thoại người nữ”, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=2322%3Ahoang-chan-y-va-h-xuan-hng-a-huyn-thoi-ngi-n&catid=64%3Avn-hc-nc-ngoai-va-vn-hc-so-sanh&Itemid=108&lang=vi
- Choi Seung-beom, 1998: “The Mot of the Choson Sonbi”, Koreana, Autumn 1998 Vol.12 No.3, http://koreana.kf.or.kr/view.asp?article_id=454
- Kevin O'Rourke,1998: “Demythologizing Mot”, Koreana, Autumn 1998 Vol.12 No.3, http://koreana.kf.or.kr/view.asp?article_id=458.
- Kim Hunggyu, Trần Hải Yến lược dịch, 1997: “Văn học Triều Tiên: Lịch sử và vấn đề”, www.evan.com.vn .
- La Mai Thi Gia (2011): “Sijo, thể thơ truyền thống của người Triều Tiên”, http://vannghequandoi.com.vn/vi-VN/News/Phe-binh-van-hoc/SIJO-the-tho-truyen-thong-cua-nguoi-Trieu-Tien-497.vnqd
- Park Kyong-li (1998): “Mot: The Natural Rhythm of Life and Soul”, Koreana, Autumn 1998 Vol.12 No.3, http://koreana.kf.or.kr/view.asp?article_id=453.
- Thái Bá Tân (dịch),: “124 bài thơ sijo” http://thaibatan.com/index.php?option=com_content&task=view&id=1122&Itemid=32
- “Triết học về lý-khí”, http://daitudien.net/triet-hoc/triet-hoc-ve-li-khi.html
MỤC LỤC
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Chương 1. Đặc điểm thơ sijo từ điểm nhìn lịch sử văn học
1.1 Vị trí sijo trong nền văn học Korea
1.3 Bối cảnh ra đời và phát triển thơ sijo
1.3.1 Bối cảnh lịch sử- chính trị
1.3.2 Bối cảnh tư tưởng - văn hóa
Chương 2. Đặc điểm sijo từ góc nhìn thể loại
2.1.1 Phân loại theo độ dài của lời thơ:
2.1.2 Phân loại theo đặc điểm âm nhạc
2.2.3 Phân loại theo vùng miền
Chương 3. Đặc điểm thơ sijo từ góc nhìn cảm thức thẩm mỹ
3.3 “Phong lưu” và “Khoái lạc”