“Thời gian trốn ở đâu?”, câu hỏi hồn nhiên của một bé thơ đặt ra cho ông ngoại, đụng chạm đến nỗi ám ảnh “đi tìm thời gian đã mất” của cả một đời người.
Câu trả lời đầy hình ảnh của ông ngoại (Thời gian sớm đó rồi khuya/ Từ tao nôi đến mộ bia đời người/ Thời gian: chiếc lá đấy thôi/ Từ xanh thắm đến vàng phơi lối về…) gợi ý cho cháu rút ra một “đáp án”: Thời gian trốn giữa bốn bề không gian.
“Đáp án” nẩy sinh tự phát đó nói lên một định luật sâu xa: thời gian tựa hồ hòa nhập vào không gian và chảy theo chiều kích của không gian; ngược lại không gian cũng mang nhịp điệu và tiết tấu của thời gian. Đâu phải ngẫu nhiên mà M. Bakhtin, một học giả nổi tiếng người Nga, đã đề xuất thuật ngữ không-thời gian (khronotop) như một cách bện chặt không thể tách rời hai phạm trù này.
Nhưng Thời gian trốn ở đâu? của Nguyễn Thái Dương không phải là tập thơ triết lý. Câu hỏi truy tìm thời gian ở đây được liên hệ trong một phối cảnh rất “đời thường”: nỗi buồn tuổi tác của ông ngoại được hóa giải trong một kết hợp hai chiều: dõi theo Kiwi và Bòn Bon từng ngày lớn lên, đầy tháng, thôi nôi, vào mẫu giáo rồi lên lớp Một; đồng thời, làm thơ cho hai cháu, ông như quay lại nhìn tuổi thơ của mình. “Những lần ít ỏi gần gụi nhau, nụ cười ấy, ánh mắt kia, cử chỉ nọ… của Kiwi và Bòn Bon cứ gieo mầm rồi đâm chồi nẩy lá trong nỗi nhớ thương của ông”: nhớ thương hai cháu, ông làm thơ; và làm thơ cũng là cách ông nhớ thương tuổi thơ của mình.
Mới ngày nào, ông cũng hồn nhiên đặt những câu hỏi vì sao như hai cháu. Mới ngày nào ông cũng vừa nôn nao vừa sợ sệt nắm tay bà cố đến trường. Mới ngày nào ông hồi hộp chờ mong tiếng khóc chào đời của con. Mới ngày nào ông nghẹn lời vì hạnh phúc tiễn con gái về nhà chồng… Hành trình đã qua của ông cũng sẽ là hành trình tương lai của cháu. Tập thơ này lưu giữ cho hai cháu mà cũng là lưu giữ cho ông ngoại những niềm vui do tuổi thơ ban tặng.
Nhà văn Tô Hoài có lần bảo rằng viết cho tuổi thơ phải cố gắng đạt ít nhất hai điều: nghịch và đẹp. Tập thơ này đáp ứng hai yêu cầu đó. Tuổi thơ mà không nghịch thì đâu là tuổi thơ. Viết cho tuổi thơ mà nghiêm nghị thì sẽ mất vui, như viết cho “ông cụ non”. Phải có cái nhìn tinh nghịch mới thấy niềm vui ngày “hoàng thượng đi khai trường”: Người đâu, chuẩn bị… cơm sườn/ Trẫm xơi rồi trẫm tới trường Mầm Non. Ông “học tập” cháu cái nhìn tinh nghịch đó khi cháu đọc truyện tranh, khi trái banh của Misa và Thỏ Trắng méo xệch, khi sách bút lêu lêu cô chủ còn mê nghỉ Tết…
Và cái nghịch không tách rời cái đẹp. Vẻ đẹp của những giọt sương (Sương từng giọt một long lanh/ Giọt tranh cành lộc, giọt giành nhụy mai). Vẻ đẹp của tấm áo bà ngoại cắt may cho cháu (Nâng niu cất giữ từ hồi/Kìa vuông vải nhỏ thơm hơi tháng ngày). Vẻ đẹp của dáng đi và tiếng rao của một bà mẹ nghèo (Mẹ giọng khản vai trầy/ Từ tiếng rao, đôi gióng/ Dù hẻm gầy nắng bỏng/ Dù đường lầy buốt mưa).
Cái đẹp, dưới mắt nhìn tuổi thơ, đôi khi vẫn buồn. Nỗi buồn nhẹ nhàng khi Kiwi chia tay thỏ trắng, gấu bông… một thuở Mầm Non để lên lớp Một, còn Bòn Bon thì ở lại. Nỗi buồn pha chút xót xa khi thấu hiểu người bạn cùng lứa tuổi trên sân ga: Con tàu chuẩn bị rời ga/ Vé số em cầm chân mỏi/ Lời rao khản giọng chờ mua/ Kiếm chút tiền cơm đắp đổi…
Nguyễn Thái Dương cả đời viết văn, làm báo cho tuổi thơ, tuổi trẻ. Thơ anh luôn giữ được nét trong sáng, nhân hậu và ân tình. Đó là suối nguồn sẽ còn tiếp tục chảy trong thơ anh, tưới mát những dòng chữ và tưới mát tâm hồn người đọc.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
*Bài tựa tập thơ Thời gian trốn ở đâu? của Nguyễn Thái Dương, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2015.