Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với sự hình thành và phát triển nền tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

 TS. Võ Văn Nhơn

Khoa Văn học và Ngôn ngữ

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Đại học Quốc gia TP. HCM

I. Đặt vấn đề

Do hoàn cảnh lịch sử, Nam Kỳ từ cuối thế kỷ XIX đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp và do đó cũng tiếp nhận văn minh, văn hóa phương Tây sớm hơn so với các vùng miền khác. Văn học ở Nam Kỳ vì thế cũng đi tiên phong trong việc hiện đại hóa, trong đó tiểu thuyết quốc ngữ là thể loại phát triển mạnh mẽ nhất.

 Nhưng bên cạnh ảnh hưởng của văn học phương Tây, văn học của nước láng giềng Trung Quốc vẫn có ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành nền văn học hiện đại của Việt Nam, bởi với việc gần 1000 năm sống dưới sự thống trị của Trung Quốc, nền văn học Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn học của đất nước vốn có bề dầy truyền thống văn hóa này. Ảnh hưởng này cho tận đến đầu thế kỷ XX vẫn rất sâu đậm trong sáng tác của các nhà văn, trong công chúng độc giả và trở thành một yếu tố quan trọng trong đời sống văn học hiện đại của Nam Kỳ từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

II.               Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc

 1.        Việc dịch thuật tiểu thuyết Trung Quốc   

 Tiểu thuyết Trung Quốc với truyền thống lâu đời của nó, đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành của tiểu thuyết Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ảnh hưởng này được thấy rõ nhất qua phong trào dịch thuật “truyện Tàu” ra chữ quốc ngữ rất sôi nổi ở Nam Kỳ vào đầu thế kỷ XX. Phong trào dịch "truyện Tàu" này đã tác động rất lớn đến công chúng độc giả và trở thành một yếu tố quan trọng trong đời sống văn học của Nam Kỳ.

Trần Bạch Đằng đã nhận định về vấn đề này như sau: “Nói đến văn học thành phố Sài Gòn không thể bỏ qua một hiện tượng đã trở thành lịch sử: sự hưởng thụ “truyện Tàu” và sau này “truyện chưởng” của bộ phận quần chúng đông đảo. Tôi tin rằng mức hưởng thụ đó rộng và sâu hơn ở miền Bắc. Những Phong thần, Phong kiếm xuân thu, Tam Quốc, Thuyết Đường, Phi Long Nhạc Phi… Những Chinh Đông Tảo Bắc, Bình Tây… gần như sống trong mỗi nhà, các nhân vật Khương Trượng, Tôn Tẩn, Chung Vô Diệm, Quan Vân Trường, Trình Giảo Kim, Tiết Nhơn Quý, Địch Thanh… quen thuộc đến nỗi họ đi vào ngôn ngữ dân gian: nóng như Trương Phi, đa nghi như Tàu Tháo, trung như Nhạc Phi v.v…” (1).

Trong sự phát triển của phong trào dịch thuật "truyện Tàu" thời kỳ đầu có bàn tay đạo diễn của chính quyền thực dân Pháp. Năm 1872, Liraye đã cho rằng: “Người ta sẽ không chống lại việc học viết bằng mẫu tự Latinh, nếu tiếng Annam được thay thế để dịch một vài tác phẩm Trung Quốc cơ bản và cổ điển” (2). Như vậy ý đồ của thực dân trong việc dịch thuật truyện Tàu trước hết là để khuyến khích người dân bản xứ học chữ quốc ngữ.

Người đầu tiên dịch các sách Nho học ra quốc ngữ là Trương Vĩnh Ký, nhưng người dịch tác phẩm văn học Trung Quốc ra quốc ngữ đầu tiên phải kể đến Huình Tịnh Của. Chuyện giải buồn (1885) của ông phần nhiều là những truyện được dịch từ các tác phẩm Trung Quốc như Cao sĩ truyện, Trang Tử, Chiến quốc sách, Liêu Trai chí dị.    

Nhưng bản dịch một “truyện Tàu” hoàn chỉnh phải kể là Tam quốc chí tục dịch trên Nông cổ mín đàm, đăng ngay trên số đầu tiên ngày 1. 8. 1901. Tên người dịch được ghi là Canavaggio, một chủ đồn điền và là thương gia người Pháp, chủ nhân báo Nông cổ mín đàm. Nhưng theo Vương Hồng Sển, người dịch chính là Lương Khắc Ninh, chủ bút của báo. Gần đây, Lưu Hồng Sơn trên Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9-2009, sau khi đưa ra các tiêu chí để phán đoán và loại trừ, cùng với tư liệu về các bài thơ ca ngợi tài dịch Tam quốc của Nguyễn Chánh Sắt, đã khẳng định Nguyễn Chánh Sắt mới chính là người đầu tiên dịch Tam quốc diễn nghĩa và bản dịch hoàn chỉnh dưới nhan đề Tam quốc chí tục dịch đăng dài kỳ trên Nông cổ mín đàm là công lao của Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương (Tam quốc chí tục dịch trên Nông cổ mín đàm đăng đến số 258, 20 September 1906, thì tên Canavaggio được thay bằng tên Nguyễn An Khương).

Sau Tam quốc chí, Nông cổ mín đàm còn lần lượt đăng các truyện dịch Liêu Trai chí dị, Kim cổ kỳ quan, Bao Công kỳ án... Lục tỉnh tân văn (1907 – 1944) cũng đăng một loạt tiểu thuyết dịch thuộc thể tài kiếm hiệp như Giang hồ đại kiếm hiệp, Hiệp nghĩa phong nguyệt, Thất hiệp ngũ nghĩa, Tiểu ngũ nghĩa, Tiểu kiếm hiệp, Cửu kiếm thập bát hiệp, Nga My kiếm hiệp.

Nam Kỳ kinh tế báo đăng Song Mỹ kỳ duyên, Tay tạo trớ trinh. Nữ giới chung đăng Băng thuyết nhơn duyên....

        Đội ngũ dịch “truyện Tàu” thời kỳ này rất đông đảo, nổi tiếng có Nguyễn Chánh Sắc, Trần Phong Sắc, Nguyễn An Khương, Nguyễn An Cư, Đinh Văn Đẩu, Trần Hữu Quang, Huỳnh Trí Phú.... Họ vốn là những người tinh thông Hán học và biết chữ quốc ngữ, là chủ bút hay phụ bút cho các tờ báo như Nông cổ mín đàm, Lục Tỉnh tân văn.... Chính họ trong khoảng từ 1905 đến 1910 đã đua nhau dịch nhiều tiểu thuyết thần kỳ, anh hùng nghĩa hiệp của Trung Quốc, tạo thành một phong trào dịch “truyện Tàu”. Nguyễn An Khương, Nguyễn Chánh Sắc, Trần Phong Sắc đã được báo Phụ nữ tân văn đánh giá là “những tay dịch thuật trứ danh của Nam Kỳ”, riêng “Trần Phong Sắc là nhà dịch thuật trứ danh nhứt”. Một mình Trần Phong Sắc đã dịch đến 29 bộ truyện Tàu.

        Nhìn chung, "truyện Tàu" được dịch ở Việt Nam có thể chia làm ba loại: loại tiểu thuyết anh hùng như La Thông tảo Bắc, Ngũ hổ bình Tây, Anh hùng náo Tam Môn Giai, Càn Long hạ Giang Nam, … Loại này chiếm số lượng rất lớn ở Nam Kỳ do phù hợp với tâm lý di dân của dân Nam Kỳ và cả người Minh Hương xa xứ. Loại thứ hai là loại tiểu thuyết kiếm hiệp như Phong kiếm xuân thu, Giang hồ nữ hiệp, Hậu Hán tam hợp bảo kiếm,… được ưa chuộng cả ở hai miền Nam Bắc. Loại thứ ba là loại tiểu thuyết tình cảm xã hội, tiểu thuyết diễm tình như Tây sương ký, Tuyết hồng lệ sử, … rất ít thấy ở Nam Kỳ trong khi lại được độc giả miền Bắc rất ưa chuộng. Tuyết hồng lệ sử chẳng hạn, đã từng làm cho người đọc xứ Bắc mê mệt đến nát ruột tan gan. Hồng Lâu Mộng cũng vậy, không thấy được dịch ở Nam Kỳ trong giai đoạn này. Nguyễn Văn Ngọc đã nhận xét: “Thực vậy, ở trong Nam thì người ta tranh nhau mà coi những Ngũ hổ bình Tây, Ngũ hổ bình Nam… còn ở ngoài Bắc thì người ta chỉ ham coi Song phượng kỳ duyên, Lục mẫu đơn” (3).

Như vậy ở Nam Kỳ, về xu hướng dịch thuật, các loại tiểu thuyết anh hùng, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết nghĩa hiệp… được dịch nhiều hơn bởi chúng phù hợp với thị hiếu và hấp dẫn độc giả hơn loại truyện tình lãng mạn, truyện tài tử giai nhân.

Việc dịch thuật này cũng có thuận lợi do nguồn sách cung cấp phong phú từ người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn. Các truyện này được in báo hoặc in thành tập. Dưới hình thức tập truyện, chúng dễ dàng phổ cập đến giới bình dân, nhờ vậy mà chữ quốc ngữ có thêm phương tiện truyền bá. Những Phong thần, Tam Quốc đều là những chuyện gần gũi với tâm hồn người bình dân, họ đàm luận với nhau về những nhân vật ấy, những gương trung hiếu tiết nghĩa rất quen thuộc ấy. Các truyện có từng chương từng hồi, tình tiết rõ ràng, do đó rất được hoan nghênh và chữ quốc ngữ cũng được ưa thích theo. Cha mẹ nhà nghèo cũng chỉ muốn cho con mình biết đọc, biết viết để đọc "truyện Tàu" cho nghe những khi mùa màng rảnh rỗi. Những nhà văn lão thành như Hồ Hữu Tường hay Vương Hồng Sển trong tác phẩm của mình đều có ghi lại cái thú đọc "truyện Tàu" này.

        Đã có nhiều nhà nghiên cứu giải thích về sự hấp dẫn đặc biệt này của truyện Tàu đối với công chúng độc giả Nam Kỳ. Bằng Giang cho rằng: “Truyện Tàu tiêu thụ mạnh trong mấy năm đầu của phong trào một phần cũng vì mảnh đất sáng tác của ta hãy còn là một bãi đất trống… Truyện Tàu tung hoành được cũng do vào thời đó những phương tiện giải trí cho người dân còn hiếm hoi” (4).

Vũ Hạnh giải thích như sau : “Việc người miền Nam thích đọc truyện Tàu phải được cắt nghĩa bằng nhu cầu của họ tiếp cận với những đức tính cố hữu của họ mà họ tìm thấy trong những nhân vật tích cực của truyện: đó là trung hiếu, tiết nghĩa, trí dũng, tín lễ, cương trực, anh hùng. Truyện Tàu cho họ những cặp đối kháng như La Thành - Đơn Hùng Tín, Tần Cối - Nhạc Phi, Bàng Quyên - Tôn Tẫn, Sài Trịnh Triệu - Lưu Quan Trường…; mà họ không tìm thấy sách báo nào khác khi đó” (5).

Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh cũng nhìn việc tiếp nhận truyện Tàu ở một khía cạnh tích cực khác: “Rất nhiều truyện Tàu là những cái túi khôn, đâu phải là nhảm nhí là chính? Người miền Nam đọc truyện Tàu, thuộc truyện Tàu, lấy ra từ đó những cách ứng xử ở đời, soi vào gương tốt, răn mình bằng những gương phản diện” (6).

Vương Hồng Sển cũng nói: “Truyện Tàu dạy tôi nhiều điều xử thế nên tôi gọi nó là một nghệ thuật, chứ chẳng phải chơi… Ngoài ra truyện Tàu có nhiều gương tốt, truyện Tàu là một vùng rừng thật lớn, một biển sâu và rộng, khai thác không bao giờ hết và cạn cùng” (7).

Những nhận định này cho thấy rằng "truyện Tàu" đã thực sự trở thành một phần máu thịt trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Nam Bộ trong thời kỳ đó và nó đã tác động không nhỏ đến khuynh hướng sáng tác của tiểu thuyết trong giai đoạn này.

Cũng cần nói thêm là Nam Kỳ còn là nơi dung thân của đông đảo người Minh Hương, tức những người Việt gốc Hoa mang tinh thần “phản Thanh phục Minh”. Những truyện dịch mang không khí tảo Bắc, chinh Tây có lẽ cũng phần nào thỏa mãn ước mơ phục quốc của họ.

Việt Nam và Trung Quốc vốn được coi là “đồng văn”, việc dịch "truyện Tàu" là sự tiếp nối truyền thống giao lưu văn học giữa hai nước, vừa để đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng. “Truyện Tàu”, với lối văn xuôi theo tiếng nói thường, với nội dung hấp dẫn, đã tỏ ra thích hợp với thị hiếu và trình độ thuởng thức của quần chúng độc giả nơi vùng đất mới này. Việc đọc truyện Tàu một thời gian dài đã thực sự trở thành một thú vui trong quần chúng nhân dân Nam Kỳ.

Nhưng việc dịch và xuất bản truyện Tàu tràn lan vì lý do thương mại, chạy theo thị hiếu của quần chúng cũng đã bị phê phán. Trong lời tựa cuốn Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân (1910). Trương Duy Toản cho rằng: “Ấy đó, thầy ta còn phải giật mình vì thấy việc văn minh đã tràn ra khắp cả hoàn cầu mà dẹp những đề xưa chuyện cũ lại hết. Phương chi mình lại ôm cả đống ấy về Nam Bộ mà diễn dịch ra làm của mình, sợ e cho nắp trẻ con trí con non như sáp mềm, sớm thấy việc dị đoan, thì chi cho nó khỏi in khắc vào trí khôn, ắt ngày sau chẳng dễ mà sửa đổi vậy” (8).

Phạm Minh Kiên trong lời tựa Lê triều Lý thị, Tân Dân Tử trong lời tựa Giọt máu chung tình, Hồ Biểu Chánh trong các tác phẩm Nam cực tinh huy, Nặng gánh cang thường… cũng có những tâm sự tương tự.

Phạm Quỳnh trong bút ký Một tháng ở Nam Kỳ cũng cho rằng: “như các nhà dịch tiểu thuyết  Tàu kia là chỉ chủ làm một món mua vui cho các bạn đồng bào trong khi tửu hậu trà dư, lại vừa làm một mối lợi riêng cho mình; nhưng phải nghĩ đến cái ảnh hưởng những truyện vô bằng ấy vào  trong óc mộc mạc của những kẻ ít học, chưa biết suy nghĩ sâu xa, thường lấy hư làm thật, lấy giả làm chân, nó hại biết dường nào!”.

Từ ý thức này, các nhà văn Nam Kỳ đã phát động phong trào sáng tác những truyện văn xuôi quốc ngữ, những “kim thời tiểu thuyết” có bối cảnh là đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, đặc biêt là tiểu thuyết lịch sử với ý hướng muốn thể hiện lịch sử dân tộc. Phong trào này ban đầu gặp rất nhiều khó khăn, nhưng cuối cùng đã đứng vững được bằng hàng loạt tác phẩm như Giọt máu chung tình, Gia Long tẩu quốc, Gia Long phục quốc, Hoàng tử Cảnh như Tây của Tân Dân Tử; Việt Nam Lê Thái Tổ của Nguyễn Chánh Sắt; Việt Nam anh kiệt, Việt Nam Lý Thường Kiệt, Tiền Lê mạt vận, Lê triều Lý thị của Phạm Minh Kiên, Nam cực tinh huy của Hồ Biểu Chánh, Tam Yên di hận của Nguyễn Văn Vinh,.... Không dám so sánh với Cervantès, nhưng Bằng Giang trong Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 - 1930 đã không khỏi liên tưởng đến nhà văn này khi đọc Giọt máu chung tình của Tân Dân Tử. Bằng Giang cho rằng, Cervantès bằng tác phẩm Don Quichotte đã chống lại cả một phong trào tiểu thuyết hiệp sĩ, còn Tân Dân Tử với Giọt máu chung tình đã chống lại phong trào đọc "truyện Tàu" ở Nam Kỳ lúc đó (9).

Phong trào sáng tác những truyện văn xuôi quốc ngữ, những “kim thời tiểu thuyết” và tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời kỳ này là một phản ứng của lòng tự trọng dân tộc trước sự du nhập của văn hóa nước ngoài, nhưng quan trọng hơn, đó là bước quẫy đạp mạnh mẽ của văn học Việt Nam để thoát ra vòng kiềm tỏa lâu đời của văn học Trung Hoa, là một nỗ lực trên bước đường hiện đại hóa của văn học Việt Nam, bước đường vượt ra khỏi ảnh hưởng của văn học khu vực để hòa nhập vào dòng chảy của văn học thế giới.

 

2.   Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc về mặt thể loại

                                                             

Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc về mặt thể loại trước hết phải nói đến ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi. Tiểu thuyết này thuộc loại hình văn hóa trung cổ, xuất hiện, định hình và phát triển trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XIX. Thuộc thể loại tự sự văn xuôi, tiểu thuyết chương hồi xuất hiện từ lâu nhưng phát triển mạnh mẽ nhất trong thời kỳ Minh – Thanh và có thể chia làm ba loại: dân gian, bác học và thị dân. Ba loại này có tính độc lập tương đối nhưng cũng có sự giao thoa, thâm nhập lẫn nhau. Có thể tìm thấy dấu ấn của ba loại này trong các tác phẩm Tam Quốc chí, Tây Du ký… Nhìn tổng quát, tiểu thuyết chương hồi thời kỳ Minh - Thanh thuộc thể loại trung gian giữa truyện kể sử thi và tiểu thuyết hiện đại.

Tiểu thuyết chương hồi bắt nguồn từ những thoại bản. Thoại bản là những văn bản làm gốc để người kể thuật chuyện cho thính giả nghe. Đối với người kể chuyện mỗi hồi là một quyển dùng để kể trong một buổi, một kỳ hoặc một đêm. Để hấp dẫn người nghe và giúp người nghe dễ theo dõi câu chuyện, trước khi kể tiếp, người kể có mấy câu thơ giới thiệu, nhắc lại những đoạn đã kể một cách sơ lược. Kết thúc buổi kể, thường ở ngay vào chỗ gay cấn, hồi hộp nhất sẽ dừng lại ở câu “muốn biết việc thế nào xin xem hồi sau phân giải”. Vì bắt đầu từ thoại bản nên trong tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc yếu tố kể còn lưu dấu rất rõ. Những chữ “rằng” xuất hiện trong lối kể như: “Đổng Trác hỏi rằng, Trương Phi nổi giận mà rằng …” chính là dấu tích của truyện kể, khác với tiểu thuyết là để đọc thầm.

Tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc kết cấu theo trình tự thời gian đơn tuyến, xoay tròn, khép kín. Ở đây thời gian là cái trục chính để dẫn dắt sự kiện, biến cố và số phận nhân vật. Những sự kiện có trước nói trước, có sau nói sau theo đúng thời gian lịch sử. Trong loại tiểu thuyết anh hùng thời gian diễn ra thật gấp gáp, khẩn trương. Thời gian trong tiểu thuyết đời thường là dàn trải, chậm chạp. Không gian ở đây là không gian không biên giới, không phải biến động tự thân mà hầu như tĩnh tại và tác giả có thể khống chế được.

Trong tiểu thuyết Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hình thức kết cấu chương hồi có thể thấy ở các tác phẩm như Nặng gánh cang thường, Nhơn tình ấm lạnh,… của Hồ Biểu Chánh; Giọt máu chung tình, Gia Long tẩu quốc… của Tân Dân Tử; Việt Nam anh kiệt, Lê triều Lý thị… của Phạm Minh Kiên.

Kể cả trong những tiểu thuyết tôn giáo đăng trên báo Nam Kỳ địa phận, tờ báo của Thiên chúa giáo, thi pháp của tiểu thuyết chương hồi cũng có phần lấn lướt hơn. Các nhà văn vẫn sử dụng lối kết cấu theo thời gian đơn tuyến. Điều này không chỉ thấy trong tác phẩm dài hơi đầu tiên Truyện ông Gioang Ngô Kim Thạch của Charles Ngọc Minh (với boái caûnh vaø nhaân vaät ñöôïc laáy töø Trung Quoác), mà còn thấy ở những tiểu thuyết xuất hiện sau năm 1930 như Nhị độ mai (1933) của Phêrô Nghĩa, Tiếng oanh (1942) của Nhuận Thân...., mặc dù các tác giả là nhà văn Công giáo, có nghĩa là họ đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa phương Tây. Ở đây các tác gia Công giáo đã khéo léo sử dụng tinh thần và các phạm trù đạo đức của Nho giáo, đồng thời  dùng hình thức tiểu thuyết chương hồi để phục vụ cho việc truyền bá tôn giáo của mình.

        Tiểu thuyết Trung Quốc còn chi phối cách miêu tả ngoại hình nhân vật, cách tả cảnh, tả tình… Câu văn biền ngẫu còn tồn tại khá rõ trong nhiều tác phẩm cũng cho ta thấy ảnh hưởng sâu sắc này. Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, một số nhà viết tiểu thuyết Nam Kỳ vẫn quan tâm nhiều hơn đến việc miêu tả hành động và ngôn ngữ của nhân vật. Về đề tài, nhiều nhà văn chú ý đến hành động của các nhân vật anh hùng, những con người nghĩa hiệp, hảo hớn, ca ngợi những con người nghĩa khí. Đó cũng là sự gặp gỡ thú vị giữa "truyện Tàu" và cá tính của con người Nam Bộ.

Loại truyện tài tử - giai nhân Trung Quốc cũng có ít nhiều ảnh hưởng đến nội dung cốt truyện của một số tác phẩm tiểu thuyết ở Nam Kỳ. Hình ảnh Vương Thế Trân - Nhan Khả Ái trong Phan Yên ngoại sử, Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà trong Giọt máu chung tình, Lý Phụng Tiên và Hồ Ngọc Sương trong Việt Nam anh kiệt v.v… rất gần gũi với loại nhân vật tài tử giai nhân của "truyện Tàu".

Các nhà văn Nam Kỳ cũng chịu nhiều ảnh hưởng của tiểu thuyết bình dân Trung Quốc. Qua thống kê của Nhan Bảo, một nhà Việt Nam học người Trung Quốc, chúng ta thấy trường hợp các tiểu thuyết như Gái trả thù cha, Man hoang kiếm hiệp, Tiểu hồng bào hải thụy, Giang hồ nữ hiệp của Nguyễn Chánh Sắc;  Nhi nữ tạo anh hùng của Gabriel Võ Lộ,… thực chất cũng được dịch từ những tiểu thuyết bình dân của Trung Quốc (10). Vì thế phải hết sức cẩn trọng khi nghiên cứu các tác phẩm của giai đoạn này, hầu tránh việc gán ghép không chính xác những tác phẩm dịch hoặc mô phỏng, phóng tác từ tiểu thuyết Trung Quốc cho các tác giả Việt Nam.

Nhưng không chỉ có tiểu thuyết cổ điển, tiểu thuyết hiện đại của Trung Quốc cũng đã kịp ảnh hưởng đến tiểu thuyết Nam Kỳ đầu thế kỷ XX. Lê Hoằng Mưu đã thú nhận điều này trên Lục Tỉnh Tân Văn số 1941 ngày 2.2.1925: “Tiểu thuyết Hoan hỉ kỳ oan này chẳng trọn ở tôi bày đặt. Trừ các bộ tiểu thuyết ở tôi làm ra, truyện này vẫn là tiểu thuyết kim thời của Trung Huê cách mạng. Xem qua thật là phong tình xằng xịu nhởm nhúa lắm, trong xứ ta chưa có bộ tiểu thuyết nào dám bì. Nhưng bởi trong có nhiều khúc chiết éo le, lại cũng có vay trả nhãn tiền và có thói tục đàn bà. Nên muốn có tiểu thuyết khác ý tôi viết để độc giả mua vui trong canh vắng tôi mượn tạm bộ tiểu thuyết này chế giảm và sửa tình cảnh lại chút ít hiến chư tôn nhàn duyệt.”

Hoan hỉ kỳ oan được đăng trên Lục Tỉnh Tân Văn là một tên gọi khác của Người bán ngọc, một tác phẩm đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung đánh giá rất cao, bởi cho đây là một tiểu thuyết có nhiều dáng dấp hiện đại trong việc xây dựng một cốt truyện ly kỳ, hấp dẫn, xen lẫn những trang miêu tả tình yêu sắc dục với những tình tiết án mạng và phá án. Nhà văn đã có những thao tác miêu tả tâm lý nhân vật, đi sâu vào nội tâm nhân vật, để từ đó tính cách nhân vật hiện lên một cách rõ rệt (11).

Nhưng như đã nói ở trên, Người bán ngọc chỉ là một tác phẩm phóng tác. Qua tư liệu chúng tôi mới sưu tầm được, tác phẩm mà Lê Hoằng Mưu dựa vào để phóng tác có thể là Hương Thái Căn cải trang gian dâm mệnh phụ của Tây Hồ ngư ẩn chủ nhân đời Thanh (12). Tác phẩm này từng được đoàn sứ thần do Lê Quý Đôn làm Phó sứ, mua, đọc và mang về nước trong trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1762. Tài năng của Lê Hoằng Mưu là từ cốt truyện của một tác phẩm vỏn vẹn 23 trang đã xây dựng được thành một tiểu thuyết phức tạp với sự miêu tả, phân tích tâm lý tinh tế, sâu sắc dày đến gần 200 trang.

 

III. Kết luận

 

Tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phản ánh một nghịch lý của văn học Nam Kỳ thời kỳ này. Sớm chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây, tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kỳ đã có những cách tân mới mẻ, táo bạo mang tính tiên phong, như trường hợp Truyện thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản và những tác phẩm của Lê Hoằng Mưu, Biến Ngũ Nhy, Nguyễn Chánh Sắt,….

Thế nhưng ở nhiều nhà văn, nhiều tác phẩm của tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kỳ giai đoạn này, ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Hoa vẫn còn rất sâu đậm. Điều này thể hiện trong tính chất đạo lý của nhiều tác phẩm, trong nghệ thuật kết cấu, trong cách xây dựng nhân vật và cả trong ngôn ngữ nghệ thuật.

Nhìn chung, trong tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thi pháp tiểu thuyết phương Đông, mà cụ thể là tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc, đã hòa lẫn với thi pháp tiểu thuyết phương Tây. Ở đây có sự tổng hợp giữa kỹ thuật của tiểu thuyết phương Tây và tinh thần “văn dĩ tải đạo” của văn chương Á Đông, tạo nên một nét rất riêng cho nghệ thuật tiểu thuyết ở vùng đất mới này.

 

___________

 

CHÚ THÍCH:

 

(1) Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên), (1988), Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II - Văn học, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 467-468.

(2) Nguyễn Văn Trung, (1974), Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn, tr.109.

(3) Vương Trí Nhàn (sưu tầm và biên soạn), (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.53.

(4) Bằng Giang, (1992), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 244-245.

(5) Sơn  Nam, (2003), Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX – Thiên địa hội và cuộc Minh Tân, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.242.

(6) Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên), (1988), Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II - Văn học, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr.217.

(7) Vương Hồng Sển, (1993), Thú xem truyện Tàu, Nxb TP. Hồ Chí Minh, tr.97.

(8) Trương Duy Toản, (1910), Phan Yên ngoại sử – Tiết phụ gian truân, Imp. F.H. Schneider, Sài Gòn, 1910,tr. 2.

(9) Bằng Giang, (1992), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 229.

(10) Claudine Salmon (biên soạn), (2004), Trần Hải Yến dịch, Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở Châu Á (từ thế kỷ XVII – thế kỷ XX), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 242-268.

(11) Nguyễn Văn Trung, (1987), Những áng văn chương quốc ngữ đầu tiên. Thầy Phiền, Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, tr.4-5.

(12) Hương Thái Căn cải trang gian dâm mệnh phụ, bản dịch của Phạm Tú Châu, tài liệu chưa công bố.

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Nguyễn Kim Anh (chủ biên), (2004), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

2. Phạm Tú Châu, (1997), "Vài suy nghĩ về tiểu thuyết tình dục chữ Hán của Việt Nam", Hán Nôm, (3), Hà Nội.

3. Claudine Salmon (biên soạn), (2004), Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở Châu Á (từ thế kỷ XVII-thế kỷ XX), Trần Hải Yến dịch, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Emanuel Pastreich: The Reception of Chinese Literature in Vietnam [Tiếp nhận văn học Trung Quốc tại Việt Nam], in trong: Victor H. Mair (chủ biên), (2001), The Columbia History of Chinese Literature [Lịch sử văn học Trung Quốc của Đại học Columbia], New York: Columbia University Press, Chương 55, tr. 1096 – 1104 (Nguyễn Tuấn Cường dịch và chú thích, công bố tại website http://khoavanhoc-ussh.edu.vn)

5. Bằng Giang, (1992), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

6. Bằng Giang, (1993), “Truyện Tàu với một số tiểu thuyết gia đầu tiên ở Việt Nam”, Kiến thức ngày nay, (100), TP. Hồ Chí Minh.

7. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên),(1988), Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II - Văn học, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh

8. Nguyễn Khuê, (1998), Chân dung Hồ Biểu Chánh, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

9. Nguyễn Khuê, (2002), “Phác thảo quá trình hình thành tiểu thuyết văn xuôi quốc ngữ ở Nam Kỳ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”, Văn học, (5), Hà Nội.

10. Cao Xuân Mỹ (sưu tầm), (1999), Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ 20, 2 tập, Nxb Văn nghệ TP. HCM & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.

11. Sơn Nam, (2003), Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX – Thiên địa hội và cuộc Minh Tân, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

12. Vương Trí Nhàn (sưu tầm và biên soạn), (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

13. Vương Hồng Sển, (1993), Thú xem truyện Tàu, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

14. Bùi Đức Tịnh, (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và Thơ mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

15. Lưu Đức Trung (chủ biên), (1999), Văn học Đông Nam Á, Nxb Giáo Dục, Hà Nội

16. Nguyễn Văn Trung, (1974), Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn.

17. Nguyễn Văn Trung, (1987), Những áng văn chương quốc ngữ đầu tiên. Thầy Phiền, Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

 

 

 

ẢNH HƯỞNG CỦA TIỂU THUYẾT TRUNG HOA ĐỐI VỚI

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THUYẾT

QUỐC NGỮ Ở NAM KỲ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX

 

Có hai nền tiểu thuyết ảnh hưởng rất sâu đậm đến tiểu thuyết quốc ngữ Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đó là tiểu thuyết Pháp và tiểu thuyết Trung Quốc.

Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc được thấy rõ nhất qua phong trào dịch thuật “truyện Tàu” ra chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ vào đầu thế kỷ XX. Phong trào này đã tác động rất lớn đến đời sống văn học của Nam Kỳ. Nhưng phong trào này cũng tạo nên một phản ứng ngược sau này, đó là phong trào sáng tác những truyện văn xuôi quốc ngữ, những “kim thời tiểu thuyết” có bối cảnh là đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, đặc biệt là tiểu thuyết lịch sử.

Về mặt thể loại, các nhà văn Nam Kỳ chịu nhiều ảnh hưởng bởi tiểu thuyết cổ điển, tiểu thuyết bình dân và cả tiểu thuyết hiện đại của Trung Quốc.

             Việc dịch thuật tiểu thuyết phương Tây, cùng với phong trào dịch thuật truyện Tàu đã tác động quyết định đến việc hình thành tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Bộ.

 

 

 

The influence of Chinese novels on the formation and development of the novels in “Quoc ngu” (Vietnamese Roman Alphabet) in Cochinchina from the late 19th th to the early 20th century.

 

Vo Van Nhon

 

The Cochinchina novels have been influenced deeply by two novels grounds in the late 19th  and early 20th centuries: French novels and Chinese novels.

Influence of Chinese novels have been emerged through the movement of translating Chinese fiction into the novels in Cochinchina in the early 20th century. This movement has impacted tremendously on the life of literature in Cochinchina. However, it also caused an opposite reaction later, that is the creating prose works by the Vietnamese Roman Alphabet, the “contemporary fictions” with the context being Vietnamese people and Vietnamese country, particularly the historical novel.

Cochinchina writers have been influenced a lot by classic novels, popular novels and contemporary novels of China about the genre.

The translation of Western novels and the translation movement Chinese fiction have impacted decisively on the formation and development of the novels in Cochinchina.

* TS,  Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM.

Bài viết cùng tác giả

Danh mục website