Nói đến GS.NGND Lê Đình Kỵ trước hết là nói đến một nhà sư phạm. Một nhà sư phạm không qua trường lớp chính qui nào, kiến thức chủ yếu tự học. Một nhà sư phạm với gần 60 năm gắn bó bục giảng, dạy từ cấp 2,3 đến đại học, cao học và hướng dẫn luận án tiến sĩ. Con đường đến với nghề giáo của Lê Đình Kỵ rất ngẫu nhiên. Năm 1944 sau khi đỗ tú tài 2 trường Pétrus Ký ở Sài Gòn, ông định học tiếp đại học nhưng không có trường nào hợp với nguyện vọng. Trường luật, toán thì ông không thích. Trường y, ông có thích đôi chút, nhưng do học lực các môn sinh, hóa đều yếu nên sức khó kham nổi. Vì vậy, chàng tú tài xứ Quảng đành rời Sài Gòn “qui cố hương” dạy học tư kiếm sống.
Tháng 3.1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, Lê Đình Kỵ tham gia phong trào yêu nước Thanh niên Phan Anh. Bằng vốn hiểu biết của một trí thức trẻ đầy nhiệt huyết trước vận mệnh dân tộc, ông tích cực hoạt động xã hội, đi nói chuyện nhiều nơi, hô hào đấu tranh đánh đuổi phát xít Nhật. Lê Đình Kỵ cùng với Hoàng Phê, Hoàng Tụy, Hoàng Chúng,… tham gia tổng khởi nghĩa ở Hội An. Cách mạng tháng Tám thành công, ông được Việt minh phân công làm công tác thông tin tuyên truyền, rồi vào bộ đội chống Pháp tái xâm lược. Ở trong quân ngũ, ông tranh thủ học tiếng bạch thoại để làm phiên dịch cho các cố vấn Trung Quốc. Ba năm sau, ra quân ông quyết định quay lại với nghề giáo, vào Quảng Ngãi dạy học cùng với Lê Trí Viễn ở trường trung học Lê Khiết. Trong điều kiện vô cùng khó khăn, tài liệu sách vở và các phương tiện giảng dạy thiếu thốn trầm trọng, Lê Đình Kỵ cùng đồng nghiệp đã phấn đấu vượt bậc, có nhiều đóng góp đối với của ngành giáo dục Nam Trung Bộ thời kháng chiến chín năm chống Pháp.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, Lê Đình Kỵ tập kết ra Bắc và dạy cấp 3 trường Nguyễn Trãi ở Hà Nội, nơi có học sinh phần lớn là người miền Nam. Ba năm sau, nhờ vốn tiếng Nga tự học của mình, ông được chuyển lên dạy đại học. Năm 1957, Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến về Khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp Hà Nội thì năm sau ông đề nghị Chủ nhiệm khoa là Giáo sư Hoàng Xuân Nhị mời Giáo sư Lê Đình Kỵ về cùng dạy. Tiếp sau đó, các giáo sư nổi tiếng như Hoàng Như Mai, Trương Chính, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ,… cũng lần lượt được mời về giảng dạy ở đây.
Giảng dạy và nghiên cứu phê bình văn học luôn hỗ trợ cho nhau. Bước lên bục giảng đại học, Giáo sư Lê Đình Kỵ cũng bắt đầu nghiên cứu viết lý luận phê bình. Năm 1959, ông có bài phê bình văn học đầu tiên được đăng trên tạp chí Văn nghệ. Đó là bài viết về truyện ngắn Con cá song của nhà văn trẻ Anh Đức vừa được giải thưởng của tạp chí này cùng với truyện Cái hom giỏ của nữ nhà văn trẻ Vũ Thị Thường. Trên đà ấy, mấy tháng sau ông lại có bài Từ ấy và phong trào Thơ mới cũng được đăng trên Văn nghệ. Và đến bài viết này, tài năng phê bình văn học của Lê Đình Kỵ mới thực sự được giới văn học chú ý đến.
Bài viết Từ ấy và phong trào Thơ mới vốn ban đầu Lê Đình Kỵ đặt tên là Từ ấy và Thơ mới. Nhưng khi biên tập, nhà thơ Xuân Diệu ngại nên sửa đề bài. Vì sao Xuân Diệu ngại? “Số là Xuân Diệu trước đó có đưa ra luận điểm “Từ ấy thoát thai từ Thơ mới”. Chữ “thoát thai” chưa được ổn lắm, nhưng hiện tượng tiếp thu, kế thừa giữa tập thơ Từ ấy của Tố Hữu và Thơ mới cũng là chuyện bình thường thôi. Tuy nhiên, bấy giờ Xuân Diệu bị một số người cho là hữu khuynh”- Giáo sư Lê Đình Kỵ thổ lộ.
Bốn nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên và Tế Hanh đồng thời cũng là những “ông lớn” của đời sống văn học bấy giờ đã nhiệt tình động viên, khuyến khích Lê Đình Kỵ tiếp tục viết. Cũng ngay trong năm 1959 đáng nhớ ấy, lần đầu gặp Lê Đình Kỵ ở tòa soạn Văn nghệ, nhà thơ Chế Lan Viên nói với hai nhà thơ Xuân Diệu và Hoàng Trung Thông rằng: “Tưởng Kỵ còn trẻ, hóa ra cũng là người cùng thế hệ với mình”! Lúc đó Hoàng Trung Thông là Tổng biên tập còn Xuân Diệu là Ủy viên Ban biên tập báo Văn nghệ.
Sau gần 40 năm hoạt động văn học, Lê Đình Kỵ đã xuất bản các tác phẩm: Các phương pháp sáng tác, Đường vào thơ, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, Tìm hiểu văn học, Thơ Tố Hữu, Thơ mới- những bước thăng trầm, Trên đường văn học (3 tập),… cùng nhiều bài nghiên cứu đăng rải rác trên báo chí. Năm 2006, một học trò thành đạt của ông là PGS.TS Huỳnh Như Phương đã sưu tầm, tuyển chọn và viết lời giới thiệu Tuyển tập Lê Đình Kỵ dày 730 trang do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành, như một sự tổng kết về cuộc đời hoạt động nghiên cứu và giảng dạy văn học phong phú của ông.
Trong số những tác phẩm của mình, GS. Lê Đình Kỵ tỏ ra rất tâm đắc với tác phẩm Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, bắt đầu viết năm 1965, in lần đầu năm 1970, đến nay đã được sửa chữa tái bản nhiều lần. Một lần trò chuyện với chúng tôi, GS. Lê Đình Kỵ thổ lộ: “Trong lần đầu in cuốn Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, xảy ra một chuyện khá ngộ. Tên sách tôi để như hiện nay, nhưng nhà xuất bản thì cứ đòi đổi cho kỳ được thành tựa Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du! Thêm mấy chữ mà vấn đề khác đi rồi. Nguyên nhân là do có một vị khả kính đã khẳng định Nguyễn Du là “hiện thực phê phán”(?). Tất nhiên là tôi không bao giờ đồng ý thêm cụm “của Nguyễn Du”...”
Trên bước đường nghiên cứu văn học, giáo sư cũng gặp khá nhiều “tai nạn”. Năm 1963, cuốn Các phương pháp sáng tác của Lê Đình Kỵ có đưa ra luận điểm về tính người, về chủ nghĩa nhân đạo (thông qua tính giai cấp), luận điểm về mối quan hệ phức tạp giữa thế giới quan và sáng tác. Như ông cho rằng sau Cách mạng tháng Tám, thế giới quan của Nguyễn Tuân thay đổi nhưng phong cách thì không khác trước mấy. Cuốn sách đã bị phê phán nặng nề và kéo dài trên tạp chí Nghiên cứu văn học là: bị ảnh hưởng của “xét lại”, xem nhẹ tác dụng của thế giới quan đối với sáng tác!
Đến năm 1974, Lê Đình Kỵ gửi đăng trên tạp chí Tác phẩm mới bài Hải Triều- những bước xung kích cùng với một loạt bài có tính chân dung văn học về các nhà phê bình nghiên cứu Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi,… Ông viết về người chiến sĩ tiên phong của Đảng về lý luận văn nghệ, ngỡ là “quá bảo đảm”, ngờ đâu cũng bị phê rằng đề cao cá nhân Hải Triều là có dụng ý…! Nhà thơ Chế Lan Viên ra sức chống đỡ cho Lê Đình Kỵ, vì trách nhiệm là đã biên tập bài đó cho tạp chí Tác phẩm mới, và cũng vì lẽ công bằng. Nhà thơ Chế Lan Viên thanh minh: “Nói xung kích thì vận vào người lính thường cũng được, có gì là đề cao Hải Triều”.
GS. Lê Đình Kỵ bảo: “Kể ra tôi cũng được “an ủi” ít nhiều, vì cùng bị phê phán trong đợt ấy là một loạt nhà văn. Nguyễn Khải bị phê phán về một số bài đăng trên trang nhất báo Nhân dân. Vũ Tú Nam với truyện Văn Ngan tướng công. Vũ Thị Thường thì về Cái lạt. Một số tác phẩm khác bị phê là “hình tượng hai mặt”. Trừ khi có ý đồ xỏ xiên thì không kể, còn bây giờ giới am hiểu dễ dàng chấp nhận tính nhiều mặt, nhiều tầng ý nghĩa của hình tượng. Nhưng lúc đó không phải là chuyện đơn giản. Tôi kể ra đây không phải để than vãn, mà để chúng ta càng thấm thía hơn, với chủ trương đổi mới tư duy, nó kịp thời và bức xúc đến chừng nào”. Ông còn tâm sự rằng: “Lúc ấy, người có thiện chí thì nói đùa là tôi bị “ma đưa lối quỷ đưa đường”. Nhưng biết làm sao được. Đơn giản vì tôi luôn quan niệm là phải cố gắng tiếp cận văn học đúng với văn học. Văn học mang ý nghĩa chính trị, nhưng không nên chính trị hóa văn học, không nên để rơi vào xã hội học dung tục. Tôi tâm niệm đã gọi là văn học thì phải có thẩm mỹ, có văn. Kiến thức lý luận không thiếu được, nhưng sớm muộn có thể thu nhận, lĩnh hội, đồng hóa được, còn văn thì phải tự mình đào luyện lấy, đồng thời cũng phải có năng khiếu nhất định. Khoảng năm 1965, ông Lê Duẩn có phát biểu phê phán Nho giáo ở một số mặt, và khẳng định chủ nghĩa nhân đạo và tính người trên lập trường giai cấp. Tôi còn nhớ sau đó, anh Vũ Khiêu gặp tôi nói rất cởi mở, chân tình: “Mừng cho anh tấc riêng như trút gánh đầy đổ đi”. Anh Chế Lan Viên lại có cách nói quen thuộc: “Phật thì bao giờ cũng hiền hơn sư sãi”. Còn anh Huy Cận thấy tôi boăn khoăn thì thông cảm: “Rồi cuộc sống sẽ trả lời thôi”. Đúng như thế, sau này lúc ta đổi mới tư duy, cuộc sống đã đưa lại lời giải đáp”.
Vâng, lời giải đáp từ thời gian và cuộc sống đã chứng minh cho sự đúng đắn cho những kiến văn khoa học của Lê Đình Kỵ. Những “tai nạn” khoa học không đáng có đã trôi qua. Giá trị đã được khẳng định. Và với những đóng góp to lớn của mình cho sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy văn học, GS. Lê Đình Kỵ xứng đáng là một trong những tên tuổi hàng đầu của ngành giáo dục- đào tạo và lý luận phê bình nửa sau thế kỷ XX. Không qua giáo sư I, Lê Đình Kỵ được Nhà nước phong thẳng giáo sư II năm 1984 và, cũng không qua danh hiệu Nhà giáo ưu tú, ông được phong thẳng Nhà giáo nhân dân năm 1988. Ông còn được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng nhất, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Giản dị và thoải mái trong đời thường. Nghiêm cẩn và chuẩn tắc trong công việc. Đó là hai mặt trong một Lê Đình Kỵ- người thầy mà chúng tôi cũng như nhiều thế hệ học trò của ông luôn kính trọng.
Nguồn: http://www.vietimes.vietnamnet.vn/default.aspx?tabid=427&ID=6039&CateID=254