(Nguyễn Xuân Hoanh, Tạp chí Văn hoá và Du lịch, số 11, tháng 5 năm 2013)
TÓM TẮT
Nói đến di tích lịch sử văn hóa Vĩnh Long không thể không nói đến Công Thần Miếu. Công Thần Miếu là nơi thờ các vị công thần triều Nguyễn, cũng là nơi hiện đang giữ được nhiều đạo sắc phong nhất Nam Bộ cùng với nhiều hiện vật cổ quý giá. Bài viết này giới thiệu nguồn gốc, giá trị văn hóa và lịch sử của di tích này.
***
Công Thần Miếu Vĩnh Long
Miếu Công Thần tọa lạc tại phường 5, thị xã Vĩnh Long. Thực tế, Công Thần Miếu là hậu thân của Miếu Hội Đồng. Di tích này đã được các nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong dân gian, Công Thần Miếu bao phủ nhiều huyền thoại.
Theo Đại Nam nhất thống chí, Miếu Hội Đồng ở Vĩnh Long xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 17 (1837), tại Thôn Thanh Mỹ Đông, huyện Vĩnh Bình. Dân gian thường gọi Miếu Hội Đồng là Đình Khao vì các quan ở thành Vĩnh Long thời bấy giờ thường sử dụng nơi đây làm địa điểm mở tiệc khao thưởng quân lính.
Năm 1867, sau khi chiếm được ba tỉnh miền Tây Nam kỳ, thực dân Pháp triệt hạ tất cả các thành trì, dinh thự, công trình văn hoá của nhà Nguyễn. Trong cơn tàn phá đó, thực dân đã dỡ Miếu Hội Đồng Vĩnh Long đem về xây cất Toà Bố. Rất may, 85 đạo sắc và phần lớn đồ tự khí của Miếu Hội Đồng được nhân dân bảo vệ, giữ gìn. Nhân dân đã đem 85 đạo sắc về thờ tạm tại đình làng Thiềng Đức.
Đến năm 1915, do ảnh hưởng của phong trào chấn hưng văn hoá, bà Trương Thị Loan (tức bà Phủ Y, con gái ông Bá hộ Trương Ngọc Lang), bà Lê Thị Danh (vợ Đốc Phủ Tươi) cùng thân hào nhân sĩ Vĩnh Long vận động xin tái lập Miếu Hội Đồng.
Ngày 27/4/1918 Thống Đốc Nam kỳ ký quyết định cho phép tái lập miếu Hội Đồng Vĩnh Long.
Giới thân hào nhân sĩ và nhân dân Vĩnh Long đóng góp nhiều công sức, tiền của để dựng lại ngôi miếu. Riêng Ông Nguyễn Văn Kỷ hiến một mẫu đất, Bà Trương Thị Loan đóng góp 4.000 đồng Đông Dương (thời giá 0.20 đ/1 giạ lúa).
Sau khi việc tái thiết miếu hoàn tất, để tránh sự dòm ngó của chính quyền thực dân, nhân dân quyết định đổi tên Miếu Hội Đồng thành Công Thần Miếu. Cũng bắt đầu từ đây, trong dân gian xuất hiện huyền thoại về ngôi miếu Công Thần tạo lập thời Gia Long thứ 16 (1817) thờ 85 vị Công Thần nhà Nguyễn.
Hiện trong Miếu còn câu đối:
扶 黎 阮 八 十 五 元 勲, 壯 氣 象 州 天 以 北
平 占 臘 千 百 餘 戰 陣,名 標 麟 閣 海 而 南
Phù Lê Nguyễn bát thập ngũ nguyên huân, tráng khí Tượng châu thiên dĩ Bắc;
Bình Chiêm Lạp thiên bách dư chiến trận, danh tiêu lân các hải nhi Nam.
Dịch nghĩa:
Tám mươi lăm Nguyên huân phò Lê - Nguyễn, khí mạnh Cồn Voi (Nam Kỳ), cũng như trời phía bắc ,
Hơn ngàn trăm trận chiến, tên nêu Gác lân, mặc dù chỉ ở vùng biển phương Nam.
Câu đối ra đời năm 1918 càng tô điểm thêm cho huyền thoại về 85 vị Công Thần triều Nguyễn.
Sự thật, Miếu Công Thần Vĩnh Long thờ hệ thống thần linh gồm 34 vị Nhiên Thần và Nhân Thần. Hệ thống thần linh bao gồm những vị thần do những người đi khai hoang, mở cõi đem từ cố hương miền Bắc, miền Trung và những vị thần xuất hiện từ huyền thoại của người Việt cổ; những vị thần ở duyên hải miền Bắc, miền Trung, có những vị Thần tiếp thu từ văn hoá Champa là những biểu tượng của núi sông, sơn hà xã tắc - gọi chung là Nhiên Thần. Những vị Thần lúc sinh tiền có công khai phá miền Trung, miền Nam hay gắn liền với quá trình chinh phục vùng Long Hồ dinh - gọi chung là Nhân Thần.
Hệ thống Thần linh này được nhân dân thờ tự và triều đình nhà Nguyễn sắc phong hợp thức hoá.
Theo tín ngưỡng dân gian, thần linh chia ra làm hai dạng: Nhân Thần và Nhiên Thần. Nhân Thần là những vị lúc sinh tiền có công với một số người, một địa phương hoặc một triều đại. Nhiên Thần mang tính biểu tượng nên không có tiểu sử. Nếu vị Nhiên Thần nào có sự tích cũng chỉ là huyền tích. Hẳn nhiên, vị thần nào thanh thế lớn, được nhiều người, nhiều nơi tôn thờ thì huyền tích hoàn chỉnh hơn. Dười thời nhà Nguyễn, thần linh phân ra làm ba bậc rõ ràng: Thượng đẳng Thần, Trung đẳng Thần và Hạ đẳng Thần. Thần Thượng đẳng nếu là Nhân Thần thì nhất thiết phải là chính Thần; Thần Trung đẳng và Hạ đẳng thanh thế thu hẹp dần. Nhân Thần có tên không họ hoặc có họ không tên; Nhiên Thần có khi chỉ là Thần ở địa phương, mang tính dân gian.
Theo nội dung các sắc phong của Công Thần Miếu thì 85 đạo sắc là của 34 vị thần. 34 vị Thần được phong tặng hay gia tặng theo chiếu lễ Đàm ân nhân Ngũ tuần đại kháng tiết của vua Minh Mạng năm thứ 21 (1840). Nhưng đến năm Thiệu Trị thứ ba (1843), vua Thiệu Trị thay lời cha ban cấp sắc phong cho Miếu Hội Đồng Vĩnh Long và sau đó lại tiếp tục gia phong. Nhưng chưa rõ vì nguyên cớ gì toàn bộ sắc phong đợt năm 1843 đều bị tiêu huỷ. Ngày 10/12/1848, theo đề nghị của tỉnh Vĩnh Long, vua Thiệu Trị cấp cho Miếu Hội Đồng Vĩnh Long 34 đạo sắc và gia phong 34 đạo sắc.
Đến năm 1850, vua Tự Đức gia tặng Miếu Hội Đồng Vĩnh Long 17 đạo sắc.
Miếu Công Thần hiện bảo tồn, thờ phụng nguyên vẹn 85 đạo sắc. Qua các đạo sắc cho thấy Công Thần Miếu là nơi hội tụ gần như đầy đủ hệ thống thần linh Nam Bộ được triều đình phong kiến chính thức sắc phong.
Trong số các Nhân Thần được thờ tại Công Thần Miếu, vị thần có nguồn gốc xa xưa nhất là Phi Vận tướng quân, Tùng Giang Văn Trung, Trung Đẳng Thần Nguyễn Phục. Ông được tôn thờ là vị thần hiển linh luôn phù trợ người đi biển. Tiếp đến là hai vị thần lúc sinh tiền có công khai phá vùng Thuận Hoá, Quảng Nam, Phú Yên là Đô đốc Bùi Tá Hán và Tham tướng Lương Văn Chánh. Hai vị được sắc phong Thượng đẳng Thần. Cùng với nhiều vị lúc sinh tiền có nhiều công lao với sự nghiệp khai phá miền Nam như:
- Thống suất Nguyễn Phủ Quân, Thượng đẳng Thần Nguyễn Hữu Cảnh.
- Chính thống Nguyễn Phủ Quân, Thượng đẳng Thần Nguyễn Cửu Vân.
- Phụ Đô đốc tướng quân, Thượng đẳng Thần, Trần Thượng Xuyên.
- Khai quốc công Thần, Vĩnh lộc đại phu, Hiệp Biện đại học sĩ, Lãnh lại Bộ thượng thư, Thuỵ văn cách, Tân Minh hầu, Nguyễn phủ quân, Trung đẳng Thần Nguyễn Cư Trinh.
- Hữu Phủ Tống Phủ quận, Trung đẳng Thần, Tống Phước Hiệp.
` - Đô Đốc Đông Tri, Trần Phủ quân, Trung đẳng Thần, Trần Đại Định.
- Thống suất chưởng cơ Du chánh phủ quân chi thần, Trương Phước Du(1)…
Trong số các vị Nhiên Thần, lẫy lừng hơn cả là vị nữ thần có nguồn gốc từ miền Trung: Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi, Thượng đẳng Thần - Bà mẹ xứ sở của người Champa. Cùng nhiều vị thần nổi tiếng khác như:
- Cao Các Thượng đẳng Thần: Thần Sơn Tinh.
- Bổn cảnh sơn Thần, Thượng đẳng Thần: Thần gò đống, đồi núi ở địa phương.
- Bổn cảnh thuỷ Thần, Thượng đẳng Thần: thần sông nước địa phương.
- Nhất Lang Long Vương, Nhị Lang Long Vương, Tam Lang Long Vương, Trung đẳng Thần: các vị thuỷ thần gốc Thuồng Luồng.
- Hà Bá Trung đẳng Thần: Thuỷ thần sông rạch.
- Tam vị Thiền Nương chi thần: Vợ của ba Thuỷ thần Thuồng Luồng.
- Đông nam sát hải Nhị đại tướng quân chi Thần: hai vị Thần Rái cá giữ cửa biển đông nam.
- Bạch mã chi Thần: Thần ngựa trắng(2)…
Dân gian xưa nay vẫn xem Công Thần Miếu là nơi linh thiêng huyền bí với nhiều huyền thoại lưu truyền. Phần lớn các truyền thuyết nhằm tôn vinh công lao và sự hiển linh của các vị Thần. Các vị Thần luôn đứng về phía người hiền đức, nhân hậu, thẳng tay trừng trị kẻ làm điều ác.
Hàng năm ở Công Thần Miếu diễn ra nhiều lễ hội.
- Lễ Xuân tế cầu an: diễn ra vào rằm tháng 2 (âm lịch).
- Lễ Hạ điền: rằm tháng 5
- Lễ Thu tế: rằm tháng 8
- Lễ Thượng điền: rằm tháng 10.
Trong các dịp lệ hội tại Công Thần Miếu, lễ Xuân tế hằng năm luôn là lễ trọng đại nhất. Lễ hội kéo dài 4 ngày đêm, thu hút hàng ngàn khách hành hương trong và ngoài tỉnh về đây chiêm bái. Nhiều nghi thức truyền thống vẫn được duy trì, nhiều sinh hoạt dân gian thu hút đông đảo khách đến tham quan, giao lưu, giải trí.
Trải qua bao biến thiên của lịch sử, Công Thần Miếu vẫn còn lưu giữ được nhiều di vật quý giá, duy trì những sinh hoạt văn hoá truyền thống nhằm thoả mãn nhu cầu tâm linh, là biểu hiện của tinh thần uống nước nhớ nguồn của nhân dân qua nhiều thế hệ.
*
Công Thần Miếu là nơi chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, văn hoá và mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân Vĩnh Long. Ngày 31 tháng 8 năm 1998, Bộ Văn hoá Thông Tin quyết định công nhận Công Thần Miếu là di tích Lịch sử - Văn hoá cấp Quốc gia.
Tài liệu tham khảo
1. Bảo tàng tỉnh Vĩnh Long (2004): Di tích lịch sử văn hoá Vĩnh Long, Bảo tàng tỉnh Vĩnh Long xuất bản, Vĩnh Long.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn (1973): Đại Nam nhất thống chí – Lục tỉnh Nam Việt, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa tái bản, Sài Gòn.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006): Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, tái bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.