Văn Cao - cây đại thụ của nhạc, họa và thơ

Trong rất nhiều sự kiện văn hóa lớn của năm 2023: Kỷ niệm tròn 80 năm ra đời của Đề cương về Văn hóa Việt Nam 1943; Kỷ niệm 80 năm Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh... chúng ta xúc động tưởng nhớ, ghi ơn sâu sắc một nghệ sĩrất lớn trong âm nhạc, hội họa, thơ ca của đất nước và nhân dân ta - đó là Văn Cao. Văn Cao tên đầy đủ là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923, quê gốc Nam Định, lớn lên, đi vào con đường nghệ thuật, tham gia cách mạng tại thành phố biển luôn ầm ào, dữ dội Hải Phòng rồi ngược lên Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước ngàn năm qua.

20240410 3
Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995) (Nguồn: Internet)

    Nghệ thuật ở Văn Cao, với Văn Cao, như là thiên bẩm, như là trời cho, nhưng mà trời đất, thần Phật đã ban cho ông một cách hào phóng, ăm ắp, tinh túy, đa thanh, đa sắc, đến độ kỳ tài, đặc biệt nổi trội, khác biệt. Nhưng chính cái kỳ tài ấy, có thể gọi là thiên tài ấy, còn là sự tự học, tự sáng tạo, tự đốt cháy mình, nó đưa ông lên tột đỉnh vinh quang và cũng có lúc gieo khổ đau, tai họa, cay đắng cho ông, đến mức “nước mắt không thể chảy ra ngoài được”. Cụ Nguyễn Du từng nói như là một sấm ký “Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Điều đó vận đúng vào chính Cụ, gần ba trăm năm trước, và vận đúng vào một người cũng họ Nguyễn, là Văn Cao, gần ba trăm năm sau.

    Về “chữ tài”, trong âm nhạc, Văn Cao năm 16 tuổi viết Buồn tàn thu,rồi các ca khúc lãng mạn, trữ tình mới mẻ, ám ảnh, da diết cả nhạc và lời trước năm 1945 như Bến xuân, Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi, Thu cô liêu, Cung đàn xưa… Trong thơ, năm 17 tuổi, ông viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, rồi Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc… nặng nỗi buồn đau nhân thế, nặng trĩu ưu tư; ông còn viết thơ, văn, kịch ngắn đăng ở Tiểu thuyết thứ Bảy…Về hội họa, năm 19 tuổi, Văn Cao học dự thính tự do Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương; năm 20 tuổi ông đã có các bức tranh gây chú ý như Cô gái dậy thì, Sám hối, Nửa đêm, Thái Hà ấp đêm mưa…, nhất là bức tranh Cuộc khiêu vũ của những người tự tử (Le Bal aux suicides). Những bản nhạc của ông được in ra đều do tự tay ông vẽ bìa, và như người bạn họa sĩ cùng thời Tạ Tỵ nhận định: tranh của ông “đi rất gần với trường phái lập thể”.

    Năm 21 tuổi - 1944, Văn Cao tham gia Việt Minh và Hội Văn hóa Cứu quốc, ông viết bài hát lừng danh Tiến quân ca (ngay trong Cách mạng tháng Tám, năm sau trở thành Quốc ca Việt Nam). Đây là dấu mốc Văn Cao chuyển từ phong cách nghệ thuật lãng mạn, trữ tình và cả hiện thực phê phán sang phong cách nghệ thuật cách mạng-kháng chiến cả trong nhạc, họa và thơ. Từ năm 1945 trở đi, ông viết Bắc Sơn,rồi các ca khúc, hành khúc như là sự tiên tri kỳ lạ: Hải quân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Chiến sĩ Việt Nam, Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca… tiếp đó là Làng tôi, Ngày mùa, Tiến về Hà Nội, đặc biệt là ca khúc Ca ngợi Hồ Chủ tịch và Trường ca Sông Lô… Ngoài ca khúc, sau này ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa...; sáng tác nhạc phim cho phim truyện Chị Dậu (1980), tổ khúc giao hưởng cho phim tài liệu Anh bộ đội cụ Hồ của Xưởng phim Quân đội... Vì nhiều lý do, kể cả chiến tranh, những chuyển dời, dâu bể, trầm luân,rất nhiều sáng tác hội họa của Văn Cao đã không được giữ gìn, thưởng thức và được giới thiệu như các tác phẩm âm nhạc và thơ ca của ông. Chỉ có thể nêu một số tác phẩm như Dân công miền núi,Chợ vùng cao, Lớn lên trong kháng chiến, Người Mông dắt ngựa, Người Mông uống rượu, Cá, Người đàn bà dài vú nuôi con...

    Giai đoạn tiếp theo của Văn Cao, trong âm nhạc là tác phẩm đặc biệt nổi tiếng và duy nhất sau năm 1975 Mùa xuân đầu tiên...; trong hội họa là Chân dung bà Băng, Chân dung Đặng Thai Mai, Cổng làng, Phố Nguyễn Du, Ngựa, Cây đàn đỏ, Cô gái và đàn dương cầm, Chân dung tự họa… Ông vẽ hàng trăm bìa sách cho nhiều văn nghệ sĩ, hàng trăm bức minh họa, đồ họa khác cho Báo Văn nghệ và vài ba tờ báo khác. Trong thơ là Ba biến khúc tuổi 65, Thời gian, Phố Phái, Những bó hoa… Các bài thơ được tập hợp trong tập Lá và Tuyển tập thơ Văn Cao.

    Chỉ cần lấy ngẫu nhiên các tác phẩm âm nhạc như Thiên thai, Trương Chi, Tiến quân ca, Trường ca Sông Lô, Mùa xuân đầu tiên; trong hội họa là Cuộc khiêu vũ của những người tự tử, Chợ vùng cao, Uống rượu…; trong thơ là Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Giấc mơ… đã thấy những bảo chứng sinh động cho dấu ấn khai phá, mở lối, vượt lên chính mình, đặt nền móng rất quan trọng cho sự phát triển của nền tân nhạc, hội họa và thơ ca Việt Nam, từ lãng mạn, hiện thực đến cách mạng, kháng chiến cho đến thời khắc rất sớm của thời kỳ đổi mới; của ca khúc, hành khúc và trường ca trong nhạc, trong thơ. Nhận định về sự nghiệp văn nghệ đặc sắc của Văn Cao, nhiều người ca ngợi ông là nghệ sĩ đa tài, thích “lãng du” qua những “miền” nghệ thuật khác nhau về âm nhạc, hội họa, thơ ca. Dù không gắn bó liên tục và dài lâu với một loại hình nào, nhưng ở cả ba “miền” ấy, ông đều lưu dấu rất nhiều, rất ấn tượng sáng tạo mang tính khai phá - mở lối cho mình và cho những người cùng thời hoặc đến sau. Cụ thể và hiển nhiên nhất là thể loại tình ca, hùng ca, trường ca trong âm nhạc và trường ca trong thơ Việt Nam hiện đại; là sự tiệm cận với phong cách hội họa lập thể, trừu tượng, siêu thực, ấn tượng. Nhưng trước hết và trên hết, trong nhạc, họa và thơ ông, văn hóa Việt Nam, tâm hồn người Việt Nam, khát vọng Việt Nam luôn đậm đà, da diết và thống nhất.

    Trong lĩnh vực thi ca, dù viết không nhiều, nhưng những sáng tác của ông thể hiện sự coi trọng tính tư tưởng và chất suy tư trong ngôn ngữ và thi pháp nghệ thuật của người cầm bút. Văn Cao đã nhận ra tính tư tưởng là vấn đề cốt yếu nhất để thơ có thể trường tồn theo thời gian và thực hiện sứ mệnh thiêng liêng. Văn Cao đã tạo cho riêng mình một thế giới thơ bằng trí tưởng tượng phong phú và sự sắp đặt ngôn từ một cách tài hoa, đánh thức mọi giác quan của bạn đọc khitiếp nhận tác phẩm. Đó là nỗi đau đớn khi chứng kiến những bi kịch chất chồng của cõi nhân sinh, của những kiếp đời nô lệ trong các bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa đông 1946, Linh cầm tiến, Ly khách... Đó còn là sự nhạy cảm, sự trải đời của người nghệ sĩ chân chính khiến Văn Cao lựa chọn và chấp nhận dấn thân trên hành trình nghệ thuật, dám cất lên tiếng nói của lòng mình trước sự tha hóa, sự băng hoại đạo đức, phẩm giá của con người, cảnh báo sự xuất hiện nguy cơ đe dọa sự phát triển đất nước:

    “Đất nước đang lên da lên thịt
    Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
    Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
    Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống
    Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng
    Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang
    Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hi vọng
    Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người
    Chúng nó ở bên ta, trong ta, lẻn lút
    Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men”
                                         (Những người trên cửa biển).

    “Đất nước đang lên da lên thịt Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày Tamuốn gói cuộcđời gọn gàng nhưtrái vải Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hi vọng Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người Chúng nó ở bên ta, trong ta, lẻn lút Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men” (Những người trên cửa biển).Nhiều nhà văn hóa lớn, các nhà lý luận, phê bình văn hóa, văn nghệ, các văn nghệ sĩ có tên tuổi đã từng được hỏi hoặc nếu được hỏi: Ở Việt Nam, thế kỷ XX, ai là nghệ sĩ lớn nhất, có nhiều sáng tạo mang tính đột phá, để lại dấu ấn đa dạng và sâu đậm nhất, có đóng góp rất quan trọng trên nhiều mặt cho nền văn hóa, văn nghệ nước nhà, thì chắc chắn phần đông trong số họ đều đồng thanh, đồng tâm nói rằng: Người nghệ sĩ đó là Văn Cao! Với tài năng đa dạng, độc đáo, nhiều chiều kích, tích hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy, thẩm mĩ, bút pháp; giữa hiện thực đời sống, sự cảm nhận, tri nhận và nghệ thuật biểu đạt; giữa âm nhạc - hội họa - thơ văn, Văn Cao được nhiều người khẳng định là một hiện tượng hết sức đặc biệt và hiếm có trong lịch sử văn nghệ Việt Nam hiện đại. Gọi ông là nghệ sĩ thiên tài cũng không có gì là quá lời. Không thiên tài sao được khi thập niên bốn mươi thế kỷ trước ông đã viết các kiệt tác âm nhạc Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi..., đặc biệt là bản hùng ca bất hủ Tiến quân ca - Quốc ca Việt Nam. Năm 1945, ông viết như là dự cảm, dự báo, đúng hơn là tiên tri, về sự ra đời của các quân chủng “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam”, là báo trước 5 năm (từnăm 1949),thời khắc quân và dân ta sẽ “Tiến về Hà Nội” giải phóng Thủ đô và cả Miền Bắc thân yêu năm 1954.

    Cuộc đời 72 năm sống, sáng tạo nghệ thuật của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với thế kỷ XX nhiều biến động.Trên hành trình cuộc đời ấy, dẫu không ít chông gai, sóng gió, đau xót:

    “Có tuổi thanh niên
    Như cây mùa xuân mới mọc
    Bị tước dần vỏ non
    [...]
    Có lúc,
    Ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt”…

    Nhưng vượt lên tất cả, lối sống khiêm nhường, bình dị, nhẫn nhịn, chấp nhận thua thiệt; tình yêu thương và trân trọng con người, cỏ cây, phố xá, làng quê, đất nước đã giúp ông vượt lên nỗi đau khổ, bất hạnh, luôn đồng hành cùng dân tộc, cùng nhân dân, sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ sáng chói. 

    Bằng tài năng như là thiên bẩm, bằng sự tự học, tự rèn, đổi mới, sáng tạo, bứt phá, Văn Cao đã có những cống hiến to lớn đối với nền văn hóa, văn nghệ nước nhà ở cả ba lĩnh vực âm nhạc, thơ và hội hoạ. Ông được Nhà nước ta trao tặng các phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (đợt 1, năm 1996). Tên ông cũng được đặt cho nhiều đường phố ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng...

    Văn Cao còn mãi với chúng ta. Các tác phẩm của ông như là những cột mốc yêu thương, hùng tráng, tha thiết của lịch sử, văn hóa, văn nghệ của nước nhà thế kỷ XX và lan tỏa, xao động, ám ảnh đến hôm nay và mai sau.

PGS. TS. Nguyễn Thế Kỷ 

Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương

Nguồn: Tạp chí điện tử Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật, ngày 15.12.2023.

Thông tin truy cập

63689071
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
9363
23426
63689071

Thành viên trực tuyến

Đang có 886 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website