Quy luật của ký ức cho thấy người tuổi càng cao thì càng mau quên những chuyện gần mà lại nhớ lâu về quá khứ xa xăm. Chẳng hạn, khi quay về tuổi học sinh, trí nhớ ta dễ gợi lại kỷ niệm thời tiểu học hơn là trung học, có lẽ vì những ảnh tượng thiếu thời đã khắc sâu vào ký ức và được “gia cố” kỹ hơn.
Cho nên, mặc dù hình ảnh các thầy cô giáo dạy ta thuở cấp 3 hay đại học tưởng như gần gũi hơn, ta lại không hoài nhớ và hình dung sống động bằng các thầy cô giáo thời tiểu học. Cũng có thể còn một lý do khác: từ cấp 2 trở lên, các thầy cô dạy ta từng môn riêng biệt, thời gian gần gũi trong lớp không nhiều; còn các thầy cô ở tiểu học thì dạy suốt một năm trường nên thường xuyên dõi theo, nhắc nhở và khích lệ ta.
Cuối năm, ngồi xếp lại những tập ảnh cũ, chợt tìm thấy tấm ảnh chụp ngôi trường tiểu học, bao kỷ niệm ùa về trong tôi, làm thức dậy hình ảnh những thầy giáo mà tôi không bao giờ quên: các thầy Phạm Văn Ngữ, Nguyễn Đồng, Võ Hữu Phụ và thầy hiệu trưởng Lê Đức Trâm. Khác với bây giờ, thời tôi đi học giáo viên nam nhiều hơn nữ, cả 5 năm tiểu học lớp tôi chỉ được học với một nữ giáo viên duy nhất là cô Minh Nguyệt dạy năm đầu cấp, hồi đó gọi là lớp Năm chứ không phải lớp Một như sau này.
Đó là một ngôi trường có vị trí rất đẹp, nhìn ra hướng Đông, phía trước là quốc lộ 1 qua khoảng cách của một lối vào in bóng hàng dừa, tránh được tiếng ồn của xe cộ. Trường cách thị trấn Đồng Cát chỉ hơn một cây số, tên là Trường tiểu học Đức Vinh, ngày nay đổi thành Trường tiểu học thị trấn Mộ Đức (tỉnh Quảng Ngãi). Khi lên Trung học đệ nhất cấp (tức Trung học cơ sở), tôi đã lưu lại tên trường đó với hình ảnh hư cấu về một cô giáo dành tình thương yêu cho học trò trong truyện ngắn đầu tay đăng trên bán nguyệt san Tuổi Hoa năm 1970.
Lên lớp Tư (tức lớp Hai ngày nay), chúng tôi được học với một thầy giáo đẹp trai, lịch lãm, dáng người thanh mảnh, khuôn mặt có nét Tây phương. Năm trước học với cô Minh Nguyệt hiền dịu, nên buổi đầu tiên học với thầy, cả lớp hơi lo lắng. May mắn cho chúng tôi, thầy cũng hiền không kém, luôn nở nụ cười, cả năm không hề rầy la học trò. Nếu có dịp đọc những dòng này, chắc nhiều bạn lớp tôi đến nay cũng không thể quên thầy, còn vì một lý do nữa: thầy có cái tên rất độc đáo.
Nhà thầy ở thị trấn Sông Vệ, bên bờ bắc của con sông cùng tên làm ranh giới giữa hai quận Mộ Đức và Tư Nghĩa. Hồi đó, nửa đầu những năm 1960, chiến tranh chưa lan rộng và khốc liệt, đoạn đường hơn 10 cây số từ nhà thầy đến trường tôi còn bình yên, chứ không như sau này luôn xảy ra những trận đánh làm nhiều người dân thường chết và bị thương. Mỗi sáng thầy đi xe máy đến trường, buổi chiều lại về nhà.
Thị trấn Sông Vệ có nhiều cửa hàng, là nơi trung chuyển hàng hóa về các địa phương phía Nam của tỉnh, sức kinh doanh chỉ sau thị xã Quảng Ngãi. Mẹ tôi có quầy hàng tạp hóa bán lẻ ở chợ Đồng Cát, thường ra Sông Vệ mua hàng giá sĩ về bán lại. Từ nhỏ tôi đã không thích cảnh buôn bán tấp nập ở phố chợ nên chỉ vài lần theo mẹ đi mua hàng ở thị xã Quảng Ngãi, nơi có ông cảnh binh đứng chỉ đường ở trạm gác ngã tư.
Khoảng nửa tháng trước Tết, chiều chủ nhật, mẹ tôi ra Sông Vệ vừa để mua hàng về bán lại, vừa để sắm sửa cho gia đình. Mẹ dẫn tôi theo để mua cho tôi bộ quần áo mới cho vừa ý, vì bộ đồ năm ngoái mua về bị tôi chê không mặc, mẹ đã tặng lại một đứa cháu. Tôi theo mẹ đi con đường từ phía bắc cầu sông Vệ dẫn xuống phía đông, hai bên là những cửa hàng đông đúc hơn ngày thường, nhộn nhịp người mua kẻ bán.
Giữa lúc mẹ con tôi đang chú ý tìm cửa hàng bán quần áo trẻ em, thì tôi chợt thấy trên dãy phố bên trái có tấm bảng hiệu ghi: Hiệu sách Lương Bá Bả. Tôi giật mình, cầm tay mẹ nói: “Má, tên hiệu sách kia giống y tên thầy con”. Mẹ tôi cũng ngạc nhiên. Đang lúc mẹ con tôi lúng túng chưa biết làm gì, thì chính thầy tôi từ phía nhà sau bước ra nói gì đó với cô bán hàng và nhìn thấy chúng tôi. Tôi nói với mẹ: “Đúng là nhà thầy con rồi”. Mẹ tôi nhắc: “Chào thầy đi con”. Thầy nhận ra tôi, cười hiền: “Phương đó hả”. Thầy kéo chiếc ghế đẩu mời mẹ tôi ngồi và hỏi chuyện gia đình tôi. Tôi vừa lắng nghe câu chuyện của hai người, xem thầy tôi có chê tôi chuyện học hành không, vừa thèm thuồng nhìn lên những kệ sách xếp đầy sách giáo khoa và các cuốn truyện.
Ngại ngồi lâu làm phiền thầy và không kịp mua hàng, mẹ tôi đứng lên chào thầy. Thầy nhìn tôi, bảo: “Em chờ thầy một chút”. Rồi thầy đến kệ sách lấy xuống một cuốn truyện và một cuốn sổ tay bìa xanh, bỏ vào bao ni-lông trao cho tôi. Thầy nói: “Thầy tặng em cuốn sổ này để em viết những gì cần ghi nhớ, còn đây là cuốn truyện Dế mèn phiêu lưu ký[I] của Tô Hoài, hay lắm, em đọc sẽ thích”. Tôi lí nhí cảm ơn thầy. Thầy còn nói thêm: “Cửa hàng chỉ còn hai tập truyện này, em đọc xong, cho bạn mượn đọc để cùng biết. À, mà tuần tới lớp mình liên hoan tất niên, thầy sẽ nói mỗi bạn đem đến lớp một món quà rồi trao đổi với nhau bằng cách bốc thăm để bạn nào cũng có quà tết. Em đọc xong cuốn truyện thì đem tới lớp góp vào làm quà nhé”. Tôi cầm gói quà của thầy, cúi đầu tỏ ý vâng lời, lòng dâng lên một nỗi vui khó tả.
Về nhà, mấy ngày sau đó tôi bị du vào thế giới của Dế Mèn. Tôi đi theo con đường phiêu lưu với những trắc trở của chú, tưởng tượng bao nhiêu điều thú vị mà nhà văn đã gợi ra trong trí óc non nớt của tôi. Tôi chẳng hiểu gì về “thế giới đại đồng” không có bất công, áp bức mà Dế Mèn hô hào mọi người cùng nhau xây dựng. Tôi chỉ mơ, lớn lên mình sẽ đi khắp năm châu bốn biển như Dế Mèn, mình sẽ thấy nhiều cảnh đẹp và có nhiều bạn mới.
Đến ngày lớp tổ chức liên hoan tất niên, nhớ lời thầy dặn, tôi mua một tờ giấy hoa để gói cuốn truyện đem đến góp làm quà cho lớp. Nhưng khi cầm Dế Mèn lên, tôi thấy tiếc quá. Tôi còn muốn đọc lại cuốn truyện, nếu cho đi, đứa bạn may mắn sẽ nhận cuốn sách, biết bao giờ tôi mới tìm lại được. Lớp trưởng sẽ đánh số và làm phiếu bốc thăm, làm sao tôi bốc trúng số ghi món quà của mình. Mà nếu tôi không làm theo lời thầy dặn thì tôi sẽ thay bằng món quà nào khác để thầy không biết? Bỗng trong đầu tôi nảy ra một cách: thay vì gói Dế Mèn, tôi gói cuốn sổ tay thầy cho, cũng cùng khổ cuốn sách, để làm món quà.
Hôm liên hoan, tôi đến lớp, nộp gói quà cho lớp trưởng, rồi ngoan ngoãn ngồi vào chỗ của mình. Sau phần phát biểu của thầy, lớp trưởng đứng lên chúc tết thầy và vị khách đặc biệt là cô Minh Nguyệt. Rồi cả lớp cùng hát bài Con đường vui của Lê Vy và Phạm Duy mà cô Nguyệt đã tập cho lớp từ năm trước:
Đoàn người tưng bừng về trong sương gió
Hồn như đám mây trắng lững lờ
Giang hồ không bờ không bến
Đẹp như kiếp Bô-ê-miên[II].
Ánh dương lên
Một đoàn thanh niên
Giục nhau đi từ khi nắng sớm
Lúc gió chiều về trong tiếng tiêu
Bóng ai còn in trên đường dài.
Đoàn người đi vượt rừng qua núi
Bước chân vui qua miền xa xôi
Kìa là đoàn người Việt Nam gieo thắm tươi.
Ôi, học trò mới vào tiểu học mà hát bài này có sớm quá không? Riêng tôi thì thích bài hát này từ nhỏ đến giờ, mãi nhớ ơn cô Minh Nguyệt đã dạy bài hát đó. Nó còn hợp tâm trạng tôi trong buổi liên hoan khi tâm trí tôi cứ quyến luyến hình ảnh chuyến viễn du của Dế Mèn.
Đến phần bốc thăm nhận quà, tôi hồi hộp vừa dõi xem đứa bạn nào nhận được quà của tôi, vừa để ý ánh mắt của thầy. Thằng bạn tôi nhận quà là mở ra ngay, nó sáng mắt lên khi cầm cuốn sổ tay đẹp, giơ cao khoe các bạn. Tôi hoảng hồn, sợ thầy tôi nhìn thấy sẽ la rầy khi phát hiện tôi làm trái ý thầy. Tôi chỉ lo xa, chứ lúc đó thầy tôi mải nói chuyện với cô Minh Nguyệt, đâu thèm để ý chuyện vặt vãnh. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi buổi liên hoan kết thúc, chúng tôi chào thầy cô về nghỉ Tết hai tuần lễ.
Tuổi nhỏ mau quên, chuyện gì rồi cũng qua. Nhưng câu chuyện không nghe lời thầy mà giữ riêng Dế Mèn đọc một mình làm tôi áy náy đến cuối năm học đó. Sang học kỳ hai (hồi đó gọi là đệ nhị lục cá nguyệt), thầy vẫn dạy học vui vẻ bình thường, không nhắc gì đến các món quà trong buổi liên hoan. Như người có lỗi, giờ ra chơi, tôi luôn tránh đi gần thầy khi thầy đứng ngoài hành lang hút thuốc hay nói chuyện với các đồng nghiệp. Tôi ngại lỡ như thầy hỏi: Bạn em có thích truyện Dế Mèn không, tôi biết trả lời làm sao.
May mắn cho tôi, năm lên lớp Ba, tôi có cơ hội sửa lỗi của mình. Thầy Nguyễn Đồng kêu gọi học sinh góp mỗi người một cuốn sách để làm tủ sách nhỏ cho cả lớp cùng chuyền tay nhau đọc. Mùa hè qua tôi có đủ thì giờ đọc đi đọc lại câu chuyện hấp dẫn tuổi thơ Việt Nam mọi thời. Bây giờ tôi chia tay với cuốn truyện cũng được rồi. Từ món quả thầy tôi tặng vào một buổi chiều gần Tết, cuốn sách đó đã đưa Dế Mèn làm bạn với nhiều bạn trong lớp tôi.
Nhiều năm sau và mãi đến gần đây, mỗi lần về quê, đi ngang qua thị trấn Sông Vệ, tôi đều dừng lại ăn mì Quảng ở một tiệm ăn nổi tiếng từ thời chiến tranh, hoài nhớ những kỷ niệm êm đềm thời thơ ấu. Con đường có hiệu sách của Thầy Lương Bá Bả giờ nối giữa hai trục đường có hai cây cầu Sông Vệ cũ và mới. Vậy mà không hiểu sao tôi chưa lần nào dám đi trở lại con đường ấy. Có phải từ trong tiềm thức, tôi muốn lưu lại mãi mãi hình ảnh thầy tôi tưởng như còn ở đó trao cho tôi món quà tết năm nào.
Huỳnh Như Phương
Nguồn: vanvn.vn, ngày 23.1.2023
___________________
[I] Lúc đầu Tô Hoài viết truyện ngắn Con Dế Mèn, NXB Tân Dân in trong ấn phẩm Truyền Bá (tuần báo của tuổi trẻ ra ngày thứ năm) số 3 (ngày 10/10/1941). Sau đó, tác giả viết truyện dài Dế Mèn phiêu lưu ký, in trong ấn phẩm Truyền Bá số 16 (ngày 22/01/1942) và số 17 (ngày 29/01/1942). Đến năm 1955, tác giả bổ sung, sửa chữa và kết hợp hai văn bản này dưới tên Dế Mèn phiêu lưu ký, do NXB Thanh Niên, Hà Nội, ấn hành. Ở miền Nam bản Dế Mèn phiêu lưu ký in năm 1942 vẫn lưu hành đến đầu những năm 1960 và sau đó được NXB Hoa Tiên tái bản cùng với các tác phẩm Quê người, Nhà nghèo và Chuột thành phố của Tô Hoài. Đài Phát thanh Sài Gòn đã phát sóng nhiều kỳ chương trình đọc truyện Dế Mèn phiêu lưu ký.
[II] Bohémien: từ trong tiếng Pháp dùng để chỉ người thuộc bộ lạc du cư, sống lang thang, phiêu lãng, nay đây mai đó, vốn có nguồn gốc từ xứ Bohême, nay thuộc Cộng hòa Séc.