Nói về tính phổ biến, tính toàn nhân loại của văn hóa (trong đó có văn học) và tính đặc thù riêng của từng khu vực văn hóa, từng dân tộc thì giới nghiên cứu đã nói nhiều. Nhưng trong lĩnh vực nghiên cứu so sánh văn luận phương Đông –phương Tây thì vấn đề này hiện còn gây ra những băn khoăn, những tranh luận. Để hình dung rõ điều này, chúng tôi xin chọn phân tích từ góc nhìn so sánh Đông-Tây một phạm trù lý luận của phương Tây-mimesis (mô phỏng) như một nghiên cứu trường hợp.

(ThS. Kiều Thanh Uyên, Bình luận văn học - niên san 2015, tr.165-174)

Tóm tắt

Chủ nghĩa hiện đại trong văn học Việt Nam có thể xem xét trên các phương diện: thời gian, không gian và tư tưởng. Xét về phương diện thời gian, chủ nghĩa hiện đại xuất hiện vào thời điểm vừa có sự thuận lợi và khó khăn cho sự hình thành và hoàn chỉnh diện mạo. Xét về phương diện không gian, chủ nghĩa hiện đại xuất hiện trong bối cảnh sôi động của các trào lưu, trường phái khác nhau của thời hiện đại. Xét về phương diện tư tưởng, chủ nghĩa hiện đại mang tinh thần đổi mới mạnh mẽ. Tuy nhiên, do những điều kiện khách quan, chủ nghĩa hiện đại trong văn học Việt Nam không phát triển thành một trào lưu, mà chỉ hiện diện rải rác, đơn lẻ trong sáng tác của một số nhà văn, nhà thơ.

Tôi có ba lí do để nghĩ về trường phái hình thức Nga vào tuần Giáng sinh này. Thứ nhất: Trường phái này được sinh hạ đúng vào một mùa Phục sinh, trước đêm Giáng sinh. Thứ hai: Phần di sản đến nay vẫn giữ nguyên giá trị của nó là hình thái học văn bản nghệ thuật và học thuyết về ý nghĩa cứu rỗi của “Lời”, về sự Phục sinh của tồn tại. Thứ ba: Nó được Phục sinh một cách mầu nhiệm sau khi bị đóng đinh câu rút và bị lãng quên liền liền mấy thập kỉ ngay trên quê hương mình...

Nghiên cứu trường hợp bài thơ Mưa xuân trong bài viết này có những ý nghĩa khoa học sau:

1. Hiện tượng nhà thơ nam giới hư cấu giọng nữ trong thơ Nguyễn Bính không mới. Trong thơ trung đại chúng ta đã bắt gặp một số khúc ngâm như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc mà ở đó, giọng người chinh phụ, cung nữ đều do nhà nho nam giới sáng tác. Điều này cho thấy, một mặt, hiện đại hóa thơ Việt Nam ở thơ mới không phải là sự đoạn tuyệt với truyền thống thơ trung đại, ít nhất trên một vài phương diện quan trọng. Văn học là một dòng chảy liên tục. Nhưng mặt khác, có một câu hỏi mà những nhà nghiên cứu thơ mới phải trả lời: vậy thì việc Nguyễn Bính hư cấu giọng nữ có gì khác biệt làm nên cái mới của những sáng tác như Mưa xuân?

1.    Thử đọc Chí Phèo[1]

1.1.   Mỗi tác phẩm văn học đều là một hiện tượng hết sức phức tạp. Nó liên quan và chịu sự tác động của cả một hệ thống những nhân tố đa dạng, đan chéo nhau, từ thẩm mỹ, tâm lý đến ngôn ngữ học, ký hiệu học… Vì thế, sẽ là không tưởng và siêu hình nếu như có ý định  xuất phát chỉ từ một góc độ thuần túy nào đó, coi như một chìa khóa vạn năng và duy nhất để tìm hiểu và phân tích một tác phẩm văn học. Tuy nhiên, cần thiết đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu khả năng của từng phương pháp tiếp cận.

     Trên thế giới người ta nói thể kỉ XX là “thế kỉ của phê bình văn học”. Nhận định ấy cũng đúng với Việt Nam, bởi chỉ vào thế kỉ XX Việt Nam mới có phê bình văn học theo nghĩa hiện đại.  Song số phận phê bình văn học Việt Nam thì hẩm hiu hơn nhiều. Nhận định nêu trên về phê bình văn học thế giới quả không ngoa: bởi vì ngay từ đầu thế kỉ đã lần lượt nảy sịnh các trào lưu phê bình văn học liên tục đan xen, thay thế nhau. Nào chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa hình thức, phê bình mới, phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, giải cấu trúc, chủ nghĩa tân lịch sử, thi pháp học, phong cách học, diễn ngôn học, tu từ học…Các khuynh hướng cạnh tranh nhau, bổ sung nhau làm cho các vấn đề văn học ngày càng được sáng tỏ, khắc phục dần các nhận thức ấu trĩ siêu hình. Song ở Việt Nam thì không thế. Vừa mới hình thành chưa lâu trước năm 1945, nhà phê bình chưa kịp tự ý thúc về mình và nghề mình thì sau đó gần hết nửa thế kỉ còn lại phê bình văn học Việt Nam buộc phải đi vào hai cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, chống ý thức hệ đối kháng. Do hoàn cảnh lịch sử và định hướng ý thức hệ phê bình văn học của Việt Nam hầu như trở thành một ốc đảo, chúng ta chỉ biết có chủ nghĩa Mác theo phiên bản các nước xã hội chủ nghĩa, mà hầu như không biết gì về các trào lưu khác trên thế giới, tách xa các trào lưu ấy như nước với lửa. Chỉ từ năm 1986, đúng hơn từ năm 1995 do mở của hội nhập với các nước trên thế giới, ta mới có ít nhiều đổi thay trong giao lưu văn học, phê bình, song do theo định hướng lấy chủ nghĩa Mác Lenin làm nền tảng, các tư tưởng khác hầu như đều ở vào địa vị bất hợp pháp, bất bình đẳng, ngoại biên, bị coi là phi chính thống. Chính vì vậy mà đã gần 40 năm lí luận phê bình văn học chúng ta tiến bộ rất chậm chạp.

LTS: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội vừa ấn hành công trình Kí hiệu học văn hóa của Iu. M. Lotman, do các dịch giả Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử dịch từ nguyên bản tiếng Nga. Công trình này tập hợp 29 bài nghiên cứu công phu, sâu sắc của Iu. M. Lotman, người sáng lập trường phái Tartu, một trường phái khoa học nhân văn nổi tiếng ở Liên Xô những năm 60 - 80 thế kỷ trước.

TÓM TẮT

 Lê Đình Kỵ là một nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp cho khoa nghiên cứu văn học của Việt Nam. Riêng với chủ nghĩa hiện thực, ông đã tiếp cận vấn đề với tư cách là nhà lý luận văn học, nhà phê bình văn học, đồng thời là nhà văn học sử. Ở lĩnh vực nào, những nghiên cứu của ông cũng mang tính tiên phong và gây sự chú ý lớn với giới chuyên môn, kể cả những tranh luận. Tuy nhiên, bất chấp những ý kiến trái chiều và những hạn chế nhất định, đóng góp của Lê Đình Kỵ trong việc nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực nói riêng và uy tín của ông đối với lý luận phê bình văn học Việt Nam nói chung là không thể chối cãi.

Khái niệm “hậu hiện đại” và “chủ nghĩa hậu hiện đại”, bản thân chúng đã chứa đựng những vấn đề hết sức phức tạp, tạo ra những cuộc tranh luận trong suốt gần nửa thế kỷ qua giữa các nhà khoa học, các nhà văn hóa, các nghệ sĩ trên thế giới. Khi được áp dụng vào Việt Nam, số phận của chúng cũng không được “thuận buồm, xuôi gió”. Tìm hiểu hoạt động nghiên cứu, phê bình hậu hiện đại trong lĩnh vực văn học mới thấy hết được sự gian khó của cái mới để tồn tại, khi nó phải đối diện với những thái độ ứng xử rất khác nhau, và không phải bao giờ cũng có sự công tâm và sự khách quan khoa học. Thời gian là người thầy của các sự kiện, câu trả lời về hậu hiện đại và tất cả những gì là nội hàm và ngoại diên, tất cả những gì bao bọc lấy khái niệm này sẽ có câu trả lời ở tương lai, một tương lai gần. Nhưng tất cả chúng ta đều buộc phải thừa nhận rằng, cả trên thế giới và ở Việt Nam, hậu hiện đại đã đem đến một nhận thức mới, một luồng sinh khí mới cho đời sống, trong đó có cả cho đời sống văn hóa, văn học.

Nhật Tuấn  bước vào làng văn bằng truyện ngắn. Trang 17, tập truyện đầu tay của ông, xuất bản năm 1978, đã đem đến cho người đọc cảm giác vui mừng và hy vọng về một tác giả có nhiều hứa hẹn. Bên cạnh giọng văn trong sáng, gợi cảm, Nhật Tuấn còn có một kỹ thuật dàn truyện thuần thục, vững vàng. Đó là cái mà nhiều người bảo là “bút pháp chuyên nghiệp”, đã sớm bộc lộ nơi ông.

Ngay “Từ trong máu lửa” cho đến nay, giới nghiên cứu văn học sử Việt Nam đều công nhận sự hiện hữu của dòng văn học yêu nước tại các đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 như là một nhân tố tích cực thúc đẩy sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta đi đến thành công. Dòng văn học này cũng dần định hình “ý thức triết học” cho nó, tức là cũng hiện hữu một dòng lý luận, phê bình văn học dựa trên nền tảng lòng yêu nước, khát vọng hòa bình và tinh thần độc lập dân tộc. Và điểm sáng của dòng lý luận, phê bình này chính là khuynh hướng lý luận, phê bình marxist với những tác giả tác phẩm cụ thể và sắc thái riêng.

Đọc tiểu thuyết Thiên đường ảo vọng, Nxb Trẻ 2015)

Mở đầu Thiên đường ảo vọng - cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Nguyễn Trí cho người đọc gặp ngay thế giới nhân vật trong Bụi vàng, đá quý, trầm hương - tập truyện ngắn của anh đã được tặng giải nhất văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam năm 2013. Bắt đầu bằng Cường Linh - một trong “bộ tứ” nhân vật sẽ “ra trò” trong cuốn sách dày 259 trang. Nhưng tác giả lại không phác họa lý lịch của nhân vật này mà kể về mụ mẹ của anh ta, vì “gái nhờ đức cha còn trai nhờ mẹ”.

(Đọc tiểu thuyết Bàn tay nhỏ dưới mưa của tác giả Trương Văn Dân)

Trước khi được đón nhận chính thức cuốn sách Bàn tay nhỏ dưới mưa do chính nhà văn Trương Văn Dân gửi tặng, tôi đã được tiếp cận với một trong những đoạn nóng bỏng nhất của cuốn tiểu thuyết này trên tạp chí Quán Văn. Sau đó, nhà thơ Từ Sâm cho mượn bản gốc khi nó mới được in thử vài cuốn.

        Ngày tôi sinh, với tác phẩm thơ phản chiến Chiến tranh Việt Nam và tôi (1972) ông đã danh nổi như cồn. Nhưng ngay cả cái tập thơ trứ danh đó, lớn lên tôi cũng chỉ đọc bài được, bài mất, chưa bao giờ được cầm trên tay nguyên tập. Thơ cũng như người, Nguyễn Bắc Sơn là của…chế độ cũ. Một thời gian dài ông vẫn sống nhưng không tồn tại, nghĩa là suốt ngày rong chơi nhưng cứ phải giấu giấu giếm giếm, phù du đâu đó trong trí nhớ và sự ngưỡng mộ, yêu mến của bạn bè, người yêu thơ, trong đó có tôi.

Khuất Bình Nguyên

Tôi cứ đọc đi đọc lại cái phóng sự Chén rượu vĩnh biệt của Nguyễn Tuân viết cho cuộc phúng điếu ông Tản Đà[i] năm 1939. Mãi mà không thấy chán. Cái tình của hai vị nguyên soái trong làng văn nước Việt. Nửa đầu thế kỷ trước. Chẳng biết thế nào mà đâm mê lối thân thiết tặng nhau từng thanh đóm châm lửa hút thuốc lào, cùng sự vui vẻ ngang tàng đến mức sang trọng ngay trong lúc túng quẫn tiền bạc của hai ông.

            Một nghệ sĩ thực thụ vừa có những giây phút thu mình vào chốn cô đơn cùng tận rồi lại trải lòng ra trăm nẽo với đời: “Có khi nghĩ trời sinh một mình ta là đủ/ Vì đám đám đông quậy bẩn nước hồ đời/ Nhưng lại nghĩ trời sinh thêm bè bạn/ Để choàng vai ấm áp cuộc rong chơi” (Mai sau dù có bao giờ) đã không còn “choàng vai” bè bạn trên cõi nhân gian này nữa mà vĩnh viễn đi vào “cuộc rong chơi” trong thế giới phiêu bồng bên kia từ lúc 08 giờ 50 ngày 04/8/2015 tại nhà riêng ở Phan Thiết – thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn.

Tôi đang cầm trong tay tập trường ca Bước gió truyền kỳ của nhà thơ Phan Hoàng. Đọc xong tập trường ca của anh, tôi vừa bất ngờ vừa xúc động. Tôi không thể không xúc động. Mừng cho anh! Ngay sau đó, tôi “a-lô” cho Phan Hoàng chia sẻ với anh vài nhận xét bước đầu của mình…

NVTPHCM- Hành trình đi từ “dấu chân trên cát” đến “tro bụi trần gian” của đời người dù phải trải qua bi kịch của sự sống và cái chết, của sự cô đơn thân phận và tình yêu, thì cái nhìn của Trương Văn Dân trong Bàn tay nhỏ dưới mưa, cũng không đắm chìm trong bi kịch của một thứ hiện sinh yếm thế mà trái lại nó thể hiện một tâm thức hiện sinh tích cực của một cây bút luôn dấn thân và trăn trở trước những hệ lụy của cuộc sống mà con người đang phải gánh chịu như sự đặt để của số phận...

“Văn học đô thị” (hay văn học thành thị) là một cụm từ khá quen thuộc trong nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học sử. Bài viết khảo sát khái niệm “văn học đô thị” với nhiều nghĩa khác nhau: được xem như hiện tượng đối lập với các hiện tượng văn học như văn học cung đình thời hậu kỳ trung đại Đông Á, văn học nông thôn thời kỳ hiện đại; hoặc mang nghĩa văn học đường phố ở các nước Âu-Mỹ, văn học Sài Gòn giai đoạn 1955-1975. Từ đó cho thấy, văn học đô thị dù đã được thuật ngữ hoá hay chưa và có nhiều khác biệt ở từng khu vực, nhìn chung đều chịu chi phối bởi quy luật cung cầu, cũng là một trong những quy luật chi phối sự hình thành và phát triển của đô thị.

Nhà văn Võ Phiến nhận định thơ Nguyễn Bắc Sơn “ngông nghênh và ngang tàng”. Ông được xem như một nhà thơ phản chiến bằng chính các sáng tác của mình.

Thông tin từ người thân của nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn, cho biết: ông qua đời do mắc bệnh tim lúc 8h50 sáng ngày 4/8 tại nhà riêng ở TP.Phan Thiết (Bình Thuận), hưởng thọ 72 tuổi.

Thông tin truy cập

60864333
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
6520
17592
60864333

Thành viên trực tuyến

Đang có 583 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website