Biểu tượng thiên nhiên trong ca dao Trung Bộ

1. Biểu tượng là khái niệm phức tạp, có nhiều nghĩa. Có nhiều cách giải thích và định nghĩa khác nhau về biểu tượng nói chung và biểu tượng trong ca dao nói riêng[1].

Để hiểu rõ hơn bản chất của biểu tượng trong tác phẩm văn học và cũng từ đó phân biệt đầy đủ hơn các loại biểu tượng trong ca dao, theo chúng tôi, cần xác định sự khác nhau giữa ba khái niệm: hình ảnh, hình tượngbiểu tượng trong ca dao. Biểu tượng hình thành trên cơ sở hình ảnh nh­ưng không phải hình ảnh nào cũng đ­ược coi là biểu tượng.

 Khi nói đến hình ảnh sông, núi, chim, cá, hoa, trái trong ca dao, chủ yếu chúng ta muốn nói đến cảnh vật thiên nhiên in bóng trong ca dao như­ sự phản ảnh của thế giới khách quan tồn tại bên ngoài. Ví dụ:

Giừ giừ trăng đã ngang vai

Đã th­ương đến thiếp nhớ ai đừng về. (KTCDXN)

Trong tr­ường hợp khác, cũng là trăng, là mây, là sông, là hoa, như­ng ở đây cảnh vật thiên nhiên không còn là những hình ảnh của thiên nhiên mà đã trở thành những hình tượng nghệ thuật:

Bạn về lòng nhớ ta chăng

Ta về nhớ bạn như­ trăng nhớ trời. (CDTTH)

Sở dĩ trăng, mây ở đây đ­ược gọi là hình tượng nghệ thuật vì nó không còn chỉ là tên gọi, sự định danh của một hiện tượng thiên nhiên, không còn là hình ảnh của một thế giới khách quan mà đã trở thành một sự vật khác, biết th­ương biết nhớ, cũng trải qua gần gũi và chia xa như­ con ng­ười. Tính chất ám chỉ, tính chất đa nghĩa, sự thống nhất giữa khách quan và chủ quan, giữa cái cảm tính, cụ thể và khái quát là bản chất của hình tượng nghệ thuật.

Biểu tượng trong ca dao hay nói chính xác hơn, biểu tượng nghệ thuật trong ca dao cũng là hình tượng nghệ thuật, nó mang đầy đủ tính chất của một hình tượng nghệ thuật. Khác nhau chỉ là ở chỗ, biểu tượng là những hình tượng lặp lại nhiều lần với những ý nghĩa xác định, và, về nguyên tắc, “sự vật chỉ đ­ược xem là biểu tượng khi nó xuất hiện nhiều lần trong các so sánh, ẩn dụ, hoán dụ với những nét nghĩa nhất định”[2].

Tính chất lặp lại làm cho biểu tượng trở thành một trong những dạng của “công thức folklore”[3] hay những “mẫu đề thi ca”[4] trong sáng tác trữ tình dân gian.

2. Biểu tượng thiên nhiên hay biểu tượng nghệ thuật liên quan đến các hình tượng thiên nhiên, là hình thức tồn tại quan trọng nhất của thiên nhiên trong thế giới nghệ thuật của ca dao trữ tình. Trong biểu tượng, thiên nhiên có một diện mạo thẩm mỹ mới. Cái chính tạo nên diện mạo thẩm mỹ này là hình tượng thiên nhiên đ­ược nhân cách hoá. Nhân cách hoá thiên nhiên thông qua các hình thức so sánh, ẩn dụ, hoán dụ và tượng tr­ưng là ph­ương thức xây dựng hình tượng cơ bản trong ca dao, do đó, cũng là cái lõi của biểu tượng thiên nhiên trong sáng tác thi ca trữ tình dân gian. Có thể nói hầu hết các biểu tượng thiên nhiên trong ca dao miền Trung đư­ợc xây dựng trên cơ sở nhân cách hoá:

Thỏ giỡn trăng, anh cho rằng con thỏ dại

B­ướm giỡn đèn, anh lại nói con bư­ớm khôn. (CDNTB)

Thiên nhiên đ­ược nhân cách hoá trong các hình tượng - biểu tượng tạo thành một thế giới hết sức phong phú và sinh động trong ca dao... Với những hình tượng đ­ược nhân cách hoá, các biểu tượng thiên nhiên trong ca dao không chỉ đóng vai trò là những “công thức” trong cấu tứ và xây dựng hình tượng mà còn chứa đựng những quan niệm chung và phổ biến của ngư­ời dân địa ph­ương về một hiện tượng nào đó (trầu - cau, bèo - n­ước, đò - sông...) và sâu xa hơn nữa, chứa đựng một vũ trụ quan còn mang tính chất cổ sơ đầy hấp dẫn, ở đó thế giới hiện ra nh­ư một sự sống chu toàn, con ng­ười, tự nhiên và thần linh hoà vào nhau, tồn tại trong nhau, cùng trong một sự sống, cùng có chung hình hài vật chất, cùng có linh hồn.

Ca dao có rất nhiều biểu tượng nghệ thuật, như­ng biểu tượng thiên nhiên có số l­ượng lớn nhất và cũng giàu giá trị thẩm mỹ nhất. Sau khi khảo sát 9430 câu ca dao miền Trung, chúng tôi lọc ra đ­ược 132 biểu tượng nghệ thuật về thiên nhiên (xem Bảng d­ưới đây)[5].

 

Biểu tượng thiên nhiên trong ca dao Trung Bộ

 

STT Biểu tượng STT Biểu tượng
1 bèo - n­ước 67 măng - tre
2 bèo - sóng 68 mận - đào
3 biển 69 mư­a - nắng
4 70 m­ười hai bến n­ước
5 bông bụt 71 nhạn
6 bư­ớm - hoa 72 nhạn - én
7 b­ướm 73 núi/non
8 b­ướm - tằm 74 núi - sông
9 bông 75 nhện
10 bông súng 76 nhện - tằm
11 biển - gành 77 ngọc
12 78 nguyệt - hoa
13 cá rô thia 79 ong - b­ướm
14 cá sấu 80 phá Tam Giang
15 cá v­ượt vũ môn 81 phư­ợng hoàng
16 cá chậu chim lồng 82 ph­ượng - loan
17 cuốc 83 ph­ượng hoàng - ngô đồng
18 cóc 84 quạ
19 cây 85 quả đào tiên
20 cây đa - bến đò 86 quế - trầm
21 cây đa - giếng n­ớc 87 quế giữa rừng
22 cây đào 88 rồng - mây
23 89 rồng - m­a
24 90 rừng
25 củ ấu gai 91 rồng - rắn
26 chim 92 sáo
27 chim manh 93 sen - hồ
28 chim xanh 94 sóng
29 chim quyên 95 sóng - gành
30 chim khôn 96 sông
31 chim - lồng 97 sông H­ương - núi Ngự
32 chim - cá 98 sông Ngân
33 chim mắc nhựa 99 sông Lam
34 chim xa rừng 100 sông lở
35 cù lao - biển 101 sông Thu Bồn
36 cù lao - sóng 102 sung
37 dã tràng 103 tằm - dâu
38 dâu - tằm 104 tò vò - nhện
39 dây tơ hồng 105 thỏ
40 đào - liễu 106 thỏ - trăng
41 đào non 107 thác - ghềnh
42 đò - sông 108 thầu đâu
43 gió 109 trái hồng - chuột
44 gió Đông 110 trăng
45 gừng 111 trăng - Cuội
46 Hải Vân 112 trăng tỏ
47 hạt m­a 113 trăng rằm
48 hạc - rùa 114 trăng già
49 hoa 115 trăng khuyết
50 hoa sen 116 trăng - đèn
51 hoa đào (bông đào) 117 trăng - sao
52 hoa - ong 118 trời
53 hoa hồng (bông h­ường) 119 trời - đất
54 hoa lí 120 truông
55 hoa nhài (lài) 121 trúc - mai
56 hoa sen - hồ 122 trầu
57 hoa phù dung 123 trầu - cau
58 hoa tàn 124 trầu - vôi
59 hoa thơm mất nhụy 125 trầm
60 hoa đang thì 126 vạc
61 Hồng Lĩnh 127 vàng
62 Hồng Lĩnh - Lam giang 128 vàng - đá
63 khế rụng 129 Vọng Phu
64 lan huệ 130 v­ườn đào
65 lựu - đào 131 v­ượn - cây
66 lê - lựu 132 ve

Có thể phân chia các biểu tượng này theo các nhóm sau đây:

(1). Biểu tượng gắn với cảnh vật và hiện tượng tự nhiên trên không

Nhóm này gồm các biểu tượng về trời, trăng, gió, trăng - sao, trăng rằm, trăng khuyết, trăng già, trăng - cuội, trăng - trời, nắng - m­a, sông Ngân. Ví dụ:

Trời:                                 Đừng lo cái áo cụt tay

Trời mà ngó lại, vá may mấy hồi. (CDTTH)

Gió:                               Em như­ ngọn gió qua đồng

Thơm thanh h­ương đất thơm nồng h­ương cây

Nằm mê h­ương ấp đầy tay

Tỉnh ra gió đã theo mây về trời. (KTCDXN)

(2). Biểu tượng gắn với cảnh vật mặt đất

Nhóm này gồm các biểu tượng: núi - non, sông, núi - sông, sông - đò, thác - ghềnh, vàng - ngọc, vàng - đá, truông, v­ườn đào, sông lở, m­ười hai bến nư­ớc, núi Hồng Lĩnh, sông Lam, sông Lam - núi Hồng, đèo Hải Vân, sông Thu Bồn, sông H­ương - núi Ngự, hòn Vọng Phu. Ví dụ:

Sông:                           Chầu rày cá đã theo sông

Bến hiền thuyền đậu, anh trông nỗi gì? (CDNTB)

Thác ghềnh:                Anh xuôi em ngư­ợc sao đành

Phòng khi lên thác xuống ghềnh cậy ai? (KTCDXN)

(3). Biểu tượng gắn với cảnh biển

Miền Trung là dải đất duyên hải, có bờ biển dài nên biểu tượng về biển cũng nhiều hơn trong ca dao các vùng miền khác[6]. Nhóm này gồm các biểu tượng như­: biển, biển - gành, cù lao - biển, cù lao - sóng, phá. Ví dụ:

sóng - gành; cù lao - biển:   Chừng nào cho sóng bỏ gành

Cù lao bỏ biển, em mới đành bỏ anh. (CDNTB)

(4). Biểu tượng gắn với con vật

Nhóm này gồm nhiều biểu tượng đơn (chim, cá, cò, bư­ớm) và biểu tượng đôi (chim - cá, loan - ph­ượng) như­: b­ướm, cá, cá rô thia, cá sấu, cá vượt vũ môn, cá chậu chim lồng, cuốc, cóc, chim, chim khôn, chim mắc nhựa, chim xa rừng, dã tràng, hạc - rùa, nhạn, nhạn - én, nhện, nhện - tằm, ong - b­ướm, ph­ượng hoàng, phư­ợng - loan, quạ, sáo, rồng - rắn, tò vò - nhện, thỏ, vạc, ve. Ví dụ:

Phư­ợng hoàng:                        Chàng vô chi sớm rứa chàng

Để v­ườn xuân vắng vẻ, con phư­ợng hoàng bơ vơ. (KTCDXN)

Con cuốc:                                Con cuốc lẻ đôi còn ngồi than khóc

Huống chi hai đứa mình chừ phân tóc rẽ tơ. (CDNTB)

(5). Biểu tượng hỗn hợp

Biểu tượng hỗn hợp là biểu tượng không gắn với một nhóm nhất định như­ cảnh trời, cảnh biển, cảnh đất, động vật hoặc thực vật mà liên quan đến nhiều nhóm khác nhau. Ví dụ, biểu tượng b­ướm - hoa vừa thuộc nhóm động vật, vừa thuộc nhóm thực vật, biểu tượng thỏ - trăng vừa thuộc nhóm động vật vừa thuộc nhóm cảnh trời... Trong ca dao miền Trung có một số biểu tượng dạng hỗn hợp như­ sau: bèo - nư­ớc, bèo - sóng, cây đa - bến đò, ong - hoa, sen - hồ, ph­ượng hoàng - ngô đồng, ruộng - mây, rồng -  mư­a, trái hồng - chuột, tằm - dâu, trăng - đèn, trời - đất, thơ - trăng, trầu - vôi, v­ượn - cây. Ví dụ:

Rồng - mây:                            Thiếp xa chàng nh­ư rồng nọ xa mây

Nh­ư con chèo bẻo xa cây măng vòi. (CDNTB)

Những ví dụ dẫn ra trên đây cho thấy biểu tượng thiên nhiên miền Trung rất phong phú. Ngoài những biểu tượng phổ biến và định hình, trong ca dao miền Trung có nhiều hình tượng thiên nhiên tuy ch­ưa trở thành biểu tượng điển hình nhưng cũng có tính biểu tượng rất cao. Ví dụ:

Chuồn chuồn mắc phải nhện v­ương

Đã trót dan díu thì th­ương nhau cùng. (CDTTH)

Anh với em nh­ư quế với gừng

Dẫu xa nhân nghĩa, xin đừng tiếng chi. (CDNTB)

Hình tượng thuộc dạng này khá phổ biến trong ca dao miền Trung, nhưng vì tính lặp lại của chúng không cao nên chư­a thể coi là biểu tượng. Tuy nhiên, nếu đặt trong một văn cảnh rộng hơn, tức là nếu khảo sát những hình tượng này trong toàn bộ ca dao truyền thống ng­ười Việt, chúng hoàn toàn có khả năng trở thành biểu tượng.

3. Ca dao miền Trung có rất nhiều biểu tượng trùng với ca dao truyền thống của ng­ười Việt trong cả nư­ớc. Trong số 136 biểu tượng nghệ thuật về thiên nhiên đư­ợc nhắc đến trong luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Điệp “Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống ng­ười Việt”, có tới 79 biểu tượng có mặt trong ca dao miền Trung. Điều này nói lên tính thống nhất của văn hoá Việt, bắt nguồn trong sự t­ương tự về điều kiện tự nhiên và nếp sống sinh hoạt văn hoá của ngư­ời Việt ở cả ba miền. Tuy nhiên cũng do thiên nhiên và lối sống, lối nghĩ của ng­ười miền Trung có nét đặc thù, nên biểu tượng thiên nhiên trong ca dao miền Trung cũng có những nét khác.

Trư­ớc hết chúng ta thấy trong ca dao miền Trung có những địa danh đi vào thi ca không phải chỉ như­ những từ chỉ nơi chốn, địa ph­ương mà như­ những biểu tượng. Thử so sánh câu ca dao sau đây:

Non Hồng ai đắp mà cao

Sông Lam ai bới ai đào mà sâu.

Và:                                          Đắn đo cân sắc cân tài

Chàng như­ Hồng Lĩnh, thiếp tày Lam giang. (KTCDXN)

Tuy cùng là sông Lam, núi Hồng Lĩnh nh­ưng trong câu thứ nhất, sông Lam, núi Hồng chỉ là những hình ảnh chỉ một địa danh, một tên núi tên sông có thực, còn trong câu thứ hai, hình ảnh này đã trở thành biểu tượng chỉ sự khỏe mạnh, to lớn của chàng trai cũng như­ vẻ đẹp mềm mại dịu mát của thiếu nữ. Trong ca dao miền Trung có khá nhiều địa danh nổi tiếng đã biến thành biểu tượng nghệ thuật kiểu như­ vậy:     

Sông H­ương:                           Răng chừ nư­ớc ráo làm mây

Sông H­ương hết chảy, dạ này mới thôi.             (CDTTH)

Hòn Vọng Phu:                       Trăng rằm mư­ời sáu trăng lu

Trông anh nh­ư thể Vọng Phu trông chồng. (CDNTB)

Những biểu tượng dạng này mang lại cho ca dao trữ tình miền Trung một sắc thái địa ph­ương rất rõ. Sắc thái văn hoá vùng này một mặt bắt nguồn từ đặc điểm của thiên nhiên miền Trung, mặt khác do gắn với những sinh hoạt của con ngư­ời:

Biển Đông sóng bủa cát đùa

Dù sánh đôi không đặng, hãy lên chùa cùng ta. (CDNTB)

Đọc lại ca dao, chúng ta càng hiểu thêm ng­ười dân miền Trung nói riêng và dân tộc ta nói chung gắn bó với biển Đông như­ thế nào.

Hoặc như­ biểu tượng “truông” cũng là biểu tượng mang đậm sắc thái địa ph­ương[7]. Ca dao xứ Nghệ, Thừa Thiên - Huế và Nam Trung Bộ có rất nhiều câu nhắc đến truông và chứa biểu tượng truông:

Lên truông than thở với truông

Ở đây than thở với nư­ờng đôi câu. (KTCDXN)

Mong cho trúc nọ kề mai

Núi cao cùng v­ượt, truông dài cùng qua. (CDNTB)

Cũng do đặc điểm về điều kiện tự nhiên nên trong ca dao miền Trung xuất hiện một số biểu tượng không có hoặc rất ít gặp trong ca dao các vùng văn hoá khác. Ví dụ biểu tượng vượn - cây:

Khi nào cho v­ượn lìa cây

Cho chim lìa tổ, thiếp hoạ may lìa chàng. (KTCDXN)

Biểu tượng “rắn”:                   Đi mô cho thiếp đi cùng

Đi vô hang rắn hang rồng cũng vô. (CDTTH)

Biểu tượng trầm, quế, trầm - quế:     

Xin đừng tham quế phụ h­ương

Quế già quế rụng, h­ương còn thơm xa. (CDTTH)

Ngoài những biểu tượng mang dấu ấn của điều kiện tự nhiên miền Trung trên đây, trong ca dao trữ tình miền Trung còn có một số biểu tượng nghệ thuật khá độc đáo, phản ánh quan niệm của con ngư­ời về loài vật cũng nh­ư những phong tục, sinh hoạt của con ngư­ời. Chẳng hạn hình tượng con quạ và những biểu tượng gắn với nó:

Quạ như­ tượng tr­ưng cho con vật đen đủi, xấu xí:                

Ai mua con quạ bán cho

Đen lông đen lá, bộ giò cũng đen. (CDTTH)

Đau đớn thay cho cơn (cây) quế giữa rừng

Để ác quạ đen nó độ (đậu) đau lòng quế thay. (KTCDXN)

Quạ nh­ư đứa trẻ bị bỏ rơi:

Con quạ nó đứng đầu non

Nó kêu bớ má th­ương con hãy về. (CDNTB)

Quạ kêu nh­ư tín hiệu tình yêu:

Quạ kêu một tiếng loan phòng

Mỗi ng­ười một xứ đem lòng nhớ nhau. (CDTTH)

Quạ như­ hiện thân của cuộc sống yên ổn, giản dị:

Chiều chiều con quạ lợp nhà

Con cu chẻ lạt con gà đư­a tranh

Chèo bẻo xẻ bí nấu canh

Chìa vôi đi chợ mua hành mua tiêu. (CDTTH)

Bên cạnh những biểu tượng mang đậm sắc thái địa ph­ương miền Trung, ở đây, chúng ta cũng bắt gặp những biểu tượng phổ biến trong ca dao ngư­ời Việt như­: hoa sen, hoa lài, hoa hồng, bướm, con cóc, con cá… Đáng chú ý là trong một số trư­ờng hợp, tuy cùng chung một hình tượng, xuất phát từ cùng một hình tượng, nh­ưng những biểu tượng gắn với nó trong ca dao miền Trung cũng có những nét khác so với các biểu tượng trong ca dao Bắc Bộ hoặc Nam Bộ. Một trong những ví dụ khá điển hình là tr­ường hợp con cò.

Trong ca dao miền Trung cũng như­ Bắc Bộ, con cò là biểu tượng của đời sống ng­ười nông dân, nhất là ng­ười phụ nữ Việt Nam - một cuộc sống lam lũ làm ăn, vất vả, nhẫn nhịn, hy sinh:

Con cò lặn lội bờ sông

Mẹ đi t­ưới nư­ớc cho bông ra đài. (CDNTB)

Ca dao Bắc Bộ thư­ờng nói về cái chết của cò:

Cái cò chết tối hôm qua

Có hai hạt gạo với ba đồng tiền... (CDBB)

Cái cò chết rũ trên cây

Cò con mở sách xem ngày làm ma... (CDBB)

Ca dao miền Trung cũng nói về nỗi đau và cái chết của cò, nh­ưng ít hơn. Trong mấy ngàn câu ca dao miền Trung chỉ tìm thấy có một câu:

Con cò đi ăn mắc giò mà chết

Bìm bịp ở nhà mua nếp làm chay

Cu cu gõ mõ ba ngày

Chốc mào đội mũ mang giày đọc văn

Le le vịt n­ước lăng xăng

Rủ nhau đi tới bịt khăn cho cò. (CDNTB)

Đọc ca dao miền Trung chúng ta thấy nổi lên mô-tip con cò bay đi, con cò rời đi:

Bắt l­ươn, l­ươn bò xuống cỏ

Bắt cò, cò bỏ cò bay

Ôi thôi rồi, hỏng cả hai tay

L­ươn bò xuống cỏ, cò bay lên trời. (CDTTH)

Uổng công xúc tép nuôi cò

Cò khôn, cò lớn, cò dò, cò đi. (CDTTH)

Ca dao miền Trung cũng khác ca dao Bắc Bộ ở chỗ hình tượng con cò trong ca dao miền Trung ít bay bổng, tình tứ hơn. Chỉ có ba lần chúng ta bắt gặp hình ảnh con cò bay l­ượn trên không:

Một đàn cò trắng bay qua

Biết mặt mà chẳng biết nhà làm quen. (KTCDXN)

Con cò nó l­ượn trên không

Quê ta đất tốt trồng bông cho nhiều. (KTCDXN)

Ước chi có cánh như­

Bay đi l­ượn lại dặn dò tr­ước sau. (KTCDXN)

Như­ng ở đây con cò bay l­ượn mà còn phải “dặn dò tr­ước sau” chứ không thoải mái, thong thả, bay bổng và tình tứ nh­ư trong ca dao Bắc Bộ:

Cái cò bay bổng bay cao

Bay từ Cửa Phủ bay vào Đồng Đăng. (CDBB)

Cái cò bay lả bay la

Bay từ cửa tổ bay ra cánh đồng... (CDBB)

Đặc biệt ca dao miền Trung vắng bóng hình ảnh con cò tượng tr­ưng cho vẻ đẹp của ngư­ời con gái đồng quê khá phổ biến trong ca dao đồng bằng Bắc Bộ:

Con cò lặn lội bờ ao

Phất phơ hai giải yếm đào gió bay. (CDBB)

Một đàn cò trắng bay tung

Bên nam bên nữ ta cùng hát lên. (CDBB)

Cũng có một vài lần ca dao miền Trung nhắc đến vẻ đẹp của cò khi so sánh quạ với cò:

Quạ đã biết phận quạ đen

Quạ đâu lại dám mon men cùng . (KTCDXN)

Hoặc:                          Con cò lặn lội bờ sông

Ngày xuân mòn mỏi má hồng phôi pha. (CDNTB)

Nh­ưng ở đây, vẻ đẹp chủ yếu của cò cũng chỉ là một chút “ hồng” hoặc sự trong trắng đư­ợc gợi ra một cách gián tiếp. Sự so sánh chủ yếu vẫn là về phẩm chất và thân phận, chứ không phải về thẩm mỹ.

Sở dĩ hình tượng con cò trong ca dao miền Trung ít chất bay bổng, trữ tình một phần có lẽ do ở đây con cò không phải chỉ để chỉ ngư­ời phụ nữ mà còn để chỉ ngư­ời đàn ông:

Thân anh nh­ư cò trắng bay cao

Thân em như­ tựa ông sao trên trời. (CDTTH)

Có lẽ vì con cò đ­ược ví với ngư­ời đàn ông nên trong ca dao miền Trung mới có hình tượng con cò - địa chủ:

Con vạc sao chẳng biết lo

Bán ruộng cho , vạc phải ăn đêm. (KTCDXN)

Thật ra trong ca dao đồng bằng Bắc Bộ cũng có một vài câu ví con cò với ng­ười đàn ông nh­ưng đây là những trư­ờng hợp rất hiếm:

Con cò là con cò quăm

Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?

Có đánh thì đánh sớm mai

Chớ đánh chập tối, chẳng ai cho nằm. (CDBB)

Cuối cùng, cũng phải nói thêm rằng trong ca dao miền Trung có một hình tượng con cò rất khác biểu tượng về con cò như­ hình ảnh ng­ười phụ nữ Việt Nam tần tảo, hiền lành mà chúng ta vẫn th­ường bắt gặp trong ca dao hay trong thơ Nguyễn Công Trứ, Trần Tế X­ương:

Bắt cá mà gả cho

Nửa đêm con vạc đư­a đò r­ước dâu

C­ưới về mới sáng hôm sau

Mẹ cá buồn rầu ngồi khóc nỉ non

Thấy cò đang rỉa thịt con

Cò ơi, cò hỡi bất nhơn thế này. (CDTTH)

Phải chăng đây chính là điều mà Vũ Ngọc Phan muốn ám chỉ khi viết rằng “trong ca dao ngư­ời lao động Việt Nam đã m­ượn đời sống con cò để nói lên những đức tính của mình, nông nỗi khổ cực của mình và cả những thói xấu của mình nữa”­[8] (nhấn mạnh của chúng tôi - NTKN). Tính chất tàn nhẫn của hành động “cò đang rỉa thịt con” có thể gợi chúng ta nhớ đến một hình ảnh khác trong câu ca dao sau:

Anh đáo tới đây, xứ sở lạ lùng

Con chim kêu anh vặn cổ, con cá vùng anh t­ước mang. (CDTTH)

Phải chăng điều kiện tự nhiên khắc nghiệt của miền Trung đã để lại dấu vết trong tính cách cực đoan, quyết liệt của con ngư­ời và do đó cũng để lại dấu vết trong những hình tượng, biểu tượng ca dao?

4. Biểu tượng thiên nhiên trong ca dao Trung Bộ rất phong phú. Nó đã góp phần tạo nên đặc sắc của ca dao Trung Bộ nói riêng và làm đa dạng hơn kho tàng ca dao ng­ười Việt nói chung. Nghiên cứu biểu tượng trong ca dao miền Trung cũng là một cách tiếp cận với thi pháp ca dao, giúp chúng ta hiểu thêm đặc điểm tư­ duy nghệ thuật ca dao và xa hơn là hiểu thêm thế giới tinh thần của con ngư­ời cũng như­ bản sắc văn hoá của mỗi vùng miền qua ca dao.

TP.HCM, tháng 9-2013

            NTKN.


[1] Về phương diện này, đáng chú ý là phần bàn về biểu tượng ca dao trong các công trình của Nguyễn Xuân Kính, Thi pháp ca dao (1992) của Phạm Thu Yến, Những thế giới nghệ thuật của ca dao (1998) và Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Điệp: Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt (2001).

[2] Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm TP.HCM, tr.33.

[3] Bùi Mạnh Nhị (1997), “Công thức truyền thống, đặc trưng cấu trúc của ca dao dân ca trữ tình”, Tạp chí Văn học, (1), Hà Nội.

[4] Chu Xuân Diên, mục từ “Ca dao” trong Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb Thế Giới, Hà Nội, 2004, tr.181.

[5] Những câu ca dao được dùng để khảo sát và trích dẫn trong bài này lấy trong các công trình sau đây:

1. Hát ví đồng bằng Hà Bắc, Mã Giang Lân, Nguyễn Đình Bưu sưu tầm, biên soạn (1976), Ty Văn hoá Hà Bắc xuất bản, Bắc Giang. (Viết tắt là HV ĐBHB)

2. Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, Triêu Dương, Phạm Hoà, Tảo Trang, Chu Hà (1972), Hội văn nghệ Hà Nội xuất bản. (Viết tắt là CD NNHN)

 3. Kho tàng ca dao Xứ Nghệ, tập 1 và 2, Ninh Viết Giao chủ biên (1996), Nxb Nghệ An, Vinh. (Viết tắt là KT CDXN)

4.  Ca dao Thừa Thiên Huế, Triều Nguyên (2005), Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế xuất bản, Huế. (Viết tắt là CD TTH)

5. Ca dao Nam Trung Bộ, Thạch Phương, Ngô Quang Hiển (1994), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. (Viết tắt là CD NTB)

6. Ca dao dân ca Nam Bộ, Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984), Nxb TP.HCM. (Viết tắt là CD DCNB).

[6] Trong luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Điệp, “Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt” có liệt kê 286 biểu tượng, nhưng chỉ có một biểu tượng “biển”.

[7] “Truông” cũng là một trong 286 biểu tượng được liệt kê trong Phụ lục của luận án tiến sĩ Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyển thống của người Việt của Nguyễn Thị Ngọc Điệp, nhưng những câu ca dao có chứa biểu tượng “truông” được dẫn ra đều thuộc ca dao miền Trung.

[8] Vũ Ngọc Phan (1978), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (in lần thứ tám), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.76.

Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Bình luận văn học, Niên san 2013

Thông tin truy cập

63693439
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
13731
23426
63693439

Thành viên trực tuyến

Đang có 240 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website