Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - vợ nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa qua đời tại TP.HCM chưa bao lâu, hôm nay tin nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng lặng lẽ đi theo bà vào ngày 24.7.2023, khiến cho giới văn nghệ sĩ bàng hoàng.

Được biết, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (sinh ngày 9.9.1937), vừa qua đời ngày 24.7.2023, hưởng thọ 87 tuổi.

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường quê gốc làng Bích Khê, xã Triệu Long (H.Triệu Phong, Quảng Trị). Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1978.

20230725

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường 

Gia đình cung cấp

Thời niên thiếu, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh sống và học tập tại Huế. Sau khi học hết bậc trung học ở Huế năm 1960, ông chuyển vào TP.HCM học tại Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1960, ông tốt nghiệp khóa I ban Việt Hán - Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn.

Sau đó ông quay trở lại Huế và tiếp tục việc học tại Trường Đại học Văn khoa Huế. Năm 1964, ông chính thức tốt nghiệp và nhận bằng cử nhân Triết học tại ngôi trường này.

Trong khoảng thời gian từ năm 1960 - 1966, ông dạy tại Trường Quốc học Huế và tham gia tích cực vào các phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ, đòi độc lập, thống nhất đất nước.

Năm 1966 - 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường tình nguyện thoát ly gia đình và di chuyển lên các chiến khu để góp sức vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoạt động cách mạng trên mặt trận văn nghệ.

Ông viết văn và viết báo từ khi còn rất trẻ. Ông cũng từng nắm giữ nhiều chức vụ: Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Bình - Trị - Thiên, Tổng thư ký Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình TP.Huế, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình - Trị - Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt.

Vĩnh biệt nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường  - Ảnh 2.

Ảnh nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường chụp tại Hội Nhà văn Việt Nam lúc sinh thời

Gia đình cung cấp

Vĩnh biệt nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường  - Ảnh 3.

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (trái) sau lần bạo bệnh

NGÔ MINH

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là tác giả của rất nhiều tác phẩm được yêu thích: Về bút ký có: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971); Rất nhiều ánh lửa (1979, Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam, 1980 - 1981); Ai đã đặt tên cho dòng sông (NXB Thuận Hóa, Huế, 1984); Bản di chúc của cỏ lau (truyện ký, 1984); Hoa trái quanh tôi (1995); Huế - di tích và con người (1995); Ngọn núi ảo ảnh (2000); Trong mắt tôi (bút ký phê bình, 2001); Rượu hồng đào chưa uống đã say (truyện ký, 2001); Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé (bút ký văn hóa, 2005); Miền cỏ thơm (2007); Ai đã đặt tên cho dòng sông, Tinh tuyển bút ký hay nhất (NXB Hội Nhà văn, 2010). Về thơ, các tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường gồm: Những dấu chân qua thành phố (1976); Người hái phù dung (1992). 

Vĩnh biệt nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường  - Ảnh 4.

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ và nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, ảnh chụp năm 1973

GĐCC

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường lâm bạo bệnh vào năm 1998, nhưng với khát vọng sống mãnh liệt, ông vẫn tiếp tục viết trên giường bệnh trong suốt 20 năm qua. Đa số các tác phẩm trong giai đoạn này được đăng tải trên chuyên mục Nhàn đàm của Báo Thanh Niên. Các tác phẩm của ông thời gian sau này có: Nhàn đàm (NXB Trẻ, 1997); Người ham chơi (NXB Thuận Hóa, 1998); Miền gái đẹp (NXB Thuận Hóa, 2001, Tặng thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam 2001), và Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường (4 tập, NXB Trẻ, 2002).

Ông đã đoạt nhiều giải thưởng: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, 1980; Tặng thưởng Văn học Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, 1999, 2008; Giải A giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố đô (1998 - 2003); Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, 2007.

Theo tin từ gia đình nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, một lễ tưởng niệm cho nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và vợ là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ vừa qua đời cách đây không lâu sẽ được tổ chức tại Huế vào lúc 14 giờ ngày 30.7 đến hết ngày 31.7 tại Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên - Huế.

Lê Công Sơn

Nguồn: Thanh niên, ngày 25.7.2023.

Website Khoa Văn học Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã qua đời vào sáng hôm nay, ngày 6/7/2023 tại TP. Hồ Chí Minh, hưởng thọ 75 tuổi. BBT website khoa Văn học đăng lại bài viết này để tưởng niệm bà.

-----

20230708

Hồn đầy hoa cúc dại (NXB Thuận Hoá, 2007) là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ, nếu kể cả một tuyển thơ của chị được dịch sang tiếng Anh và in ở Mỹ. Hầu hết những bài trong tập thơ mới này viết khoảng mười năm nay, thời gian mà tác giả gặp nhiều khó khăn về gia cảnh. Trong bài thơ Thân phận tơ trời, Lâm Thị Mỹ Dạ tâm sự với bạn thơ nữ ở Nha Trang:

              Đàn bà làm thơ trăm cái khổ

              Thấm vào trong như cát chẳng thấy gì

              Góc khuất nào người đời không thấu được

              Xin chia cùng cho bạn nhẹ chân đi…

Trăm cái khổ: nỗi khổ có tên và nỗi khổ không tên, nỗi khổ đi vào thơ và nỗi khổ phía sau thơ.

Ngày Hoàng Phủ Ngọc Tường ngã bệnh, Mỹ Dạ giãi bày với sông Hàn:

              gánh đời nặng nề

              sao tôi bước như người không trọng lượng

              bây giờ bên sông

              tôi ngồi trong chiều xuống muộn…

Một đời người bao nhiêu lần bước đi như vậy? Như ngày nào, theo lời kể của Ngô Minh, người thiếu nữ Mỹ Dạ từ núi rừng Tuyên Hoá đi bộ về Lệ Thuỷ với mẹ khi con đường học vấn bị rào ngăn. Bây giờ đây, gần 40 năm sau, nhà thơ không che giấu bao lo âu, phiền muộn trên con đường thiên lý còn phải bước đi. Chị thấy mình hư hao từ bên ngoài:

             Những ngày tháng xanh tươi dần vắt cạn

             Đôi mắt quầng thâm bóng tối đậm dần…

Từ bên trong, chị cảm nhận như thời gian đang gặm nhấm tâm hồn:

             ta tự sát bằng thời gian

             không màu, không vị, không đớn đau!

             […]

             một ngày đi qua

             một ngày ta dần mất ta

             từng chút, từng chút một…

Với một trái tim mềm yếu, khổ đau có thể tăng gấp bội khi người ta ý thức mình phải đơn thân đối mặt với chính khổ đau. Nói về hoàn cảnh cay nghiệt đó, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ dù cố nuốt nỗi đau vào bên trong, vẫn mang chút hờn tủi lẫn cả lời trách móc:

              Trên đôi vai bình yên

              Mà bão giông nghiêng ngửa!

              Em chênh vênh đối mặt chính mình

              Nào ai biết, đến anh cùng chẳng biết

              Em quằn mình như rễ giữa đất im.

Chị tưởng tượng ra một điểm tựa nào đó để có thể úp mặt vào khóc thoả thuê một lần như trẻ nhỏ, nhưng giật mình tỉnh lại, đó chỉ là ảo ảnh. Điểm tựa còn lại bây giờ là thơ, thơ trong hình dung của chị:

              Tôi ngụp lặn giữa tháng ngày chật hẹp

              Thơ trên cao - tầm tay với chênh vênh

              Cái đầu tôi tự dưng đặc quánh như bóng đêm

              Những tứ thơ bị nhốt trong đó…

Thậm chí, có khi cảm xúc đóng băng, chị thấy lòng mình như sa mạc, phải “giơ cao lá cờ trắng trước thơ”.

Nhưng đau khổ cũng có thể là bà đỡ của sáng tạo. Trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, đối nghịch với tháng ngày chật hẹp, với gánh nặng trần gian, với cõi đời phiền nhiễu là những hình ảnh mong manh nhưng có sức gọi gió trong tâm hồn và trở thành biểu tượng của thi ca: cánh chim, làn hương, hạt sương, tơ trời, hoa cúc dại… Những lo toan vất vả không những không làm thui chột nguồn thơ mà còn giúp phát hiện ra một vẻ đẹp khác của người thơ: nghị lực, lòng kiêu hãnh, sự vững chãi của tâm hồn cũng như sự tự tin vào giá trị của bản thân mình.

Như tơ trời nhẹ bay, hồn thơ Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn vỗ cánh với những chiều kích của bản ngã. Và vì vậy, tuy nỗi buồn chừng như không có ngưỡng, nhưng người đàn bà trong thơ không trĩu nặng niềm hoang mang và cay đắng. Hồn thơ này đã lọc qua tâm cảm đồng quê, chan chứa cỏ cây sông nước đất trời, nên nỗi mong cầu cũng bớt phần quay quắt. Cuộc đời vẫn giúp chị gìn giữ chất non tơ mặc cho thời gian bôi xoá:

             Ta gập lưng lặng lẽ giữa đời thường

             Tóc điểm bạc mà hồn còn trẻ nít.

Và vượt qua những phôi pha, tâm hồn con người lại lại bừng dậy khi đất trời khơi mở:

              Đôi lúc tâm hồn màu phố Phái

              Tĩnh lặng ngói rêu, tĩnh lặng tường

              Sớm nay thời tiết như mười bảy

              Tở mở lá cành ngơ ngác hương…

Hình như đó là suối nguồn truyền thêm sức cho một tâm hồn nữ, biết mình “mắc nợ đoá phù dung”, mà bền bỉ đi tiếp trên con đường nghiệp dĩ:

                   Nghiêng vai đặt gánh qua cầu

              Hạnh phúc thì mỏng khổ đau thì dày.

                   Lệch người biết gánh sao đây

              Đường đi chưa hết kiếp này chưa qua.

Đường đi đã tới tháng mười, ngoái nhìn thấy hình bóng tháng giêng còn đuổi theo, lòng người an nhiên tự nhủ:

                    Thưa rằng tôi vẫn là tôi

               Mong manh một chút tơ trời mỏng tang…

Tơ trời mong manh.

Tơ trời còn vương…

Huỳnh Như Phương

2007

(In trong Tuyển tập Lâm Thị Mỹ Dạ, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2011)

TP HCM - Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - tác giả bài "Khoảng trời, hố bom" qua đời ở tuổi 74, sáng 6/7, tại nhà riêng, sau thời gian bệnh Alzheimer.

Hoàng Dạ Thư - con gái cả nhà thơ - cho biết những năm gần đây, bà sống cùng gia đình cô ở TP HCM. Bà mắc bệnh alzheimer nên không còn minh mẫn.

Lâm Thị Mỹ Dạ nổi tiếng trên thi đàn từ năm 1971 ở tuổi 20, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ với bài Khoảng trời, hố bom. Tác phẩm từng được đưa vào giảng dạy trong chương trình ngữ văn cấp ba.

20230706Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Ảnh: Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế 

Sinh thời, bà nhiều lần nói về tuổi thơ không được ở cùng cha. Năm 1966, bà nhập ngũ, chứng kiến nhiều đau thương, mất mát trên chiến trường. Bà từng nói về thơ: "Thơ vừa là nơi gây cho mình nhiều vết thương, mà cũng vừa là nơi xoa dịu, nhưng cũng không hẳn là một khu vườn chữa bệnh. Vì nếu như vậy, ai cũng nhảy vào đó. Thơ như cuộc đời đầy tràn vết thương. Trên đường đi vào thể nào cũng bị cào rách nát. Nhưng khi đến được thì đó là đích cuối cùng".

Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Hồ Thế Hà nhận định: "Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ giàu ý tứ. Tứ thơ bao giờ cũng là bất ngờ. Hình như không tạo được tứ lạ thì bài thơ vẫn còn trong dự tưởng.". Nhà thơ Ngô Văn Phú nói: "Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ hay ở những chỗ bất thần, ngơ ngác và những rung cảm đầy nữ tính".

Năm 2005, một tập thơ gồm 56 bài do bà tự tuyển chọn được Nhà xuất bản Curbstone (Mỹ) dịch sang tiếng Anh và phát hành. Năm 2007, bà được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật với các tập thơ: Đề tặng một giấc mơ (1988), Trái tim sinh nở (1974), Bài thơ không năm tháng (1983).

Bài thơ Truyện cổ nước tôi được in trong sách Tiếng Việt lớp 4 tập một, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, năm 2019. Ảnh: Mạnh TùngBài thơ "Truyện cổ nước mình" của Lâm Thị Mỹ Dạ được in trong sách Tiếng Việt lớp 4 tập một, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, năm 2019. Ảnh: Mạnh Tùng

Lâm Thị Mỹ Dạ sinh năm 1949, quê ở huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Bà làm việc tại Ty văn hóa Quảng Bình, năm 1978 đến 1983 học Trường viết văn Nguyễn Du. Sau bà làm phóng viên, biên tập viên Tạp chí Sông Hương của Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế.

Chân dung nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ qua nét cọ của họa sĩ Kevin Bowen

Chân dung nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ qua nét cọ của nhà thơ Mỹ Kevin Bowen.

Hà Thu

Nguồn: VnExpress, ngày 06.7.2023.

Nhà văn Lê Lựu - tác giả tiểu thuyết nổi tiếng "Thời xa vắng", một trong số nhà văn nổi bật của Việt Nam thế kỷ XX - vừa qua đời chiều nay tại quê nhà Hưng Yên, hưởng thọ 81 tuổi.

Nhà văn Lê Lựu - Ảnh: Nam Khành

Thông tin được nhà văn Nguyễn Bình Phương - phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - chia sẻ với Tuổi Trẻ Online. Ông Phương cho biết vừa nhận tin từ con gái nhà văn Lê Lựu cho biết nhà văn đã qua đời chiều nay, 9-11.

Ông Phương đánh giá đây là một mất mát lớn của văn chương Việt Nam. Hơn hai năm sau sự ra đi của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thì nay Lê Lựu cũng về với xa vắng. Hai nhà văn trong số vài cái tên hàng đầu của văn chương Việt Nam thế kỷ XX lần lượt qua đời cách nhau không lâu.

Nhà văn gốc nông dân, gốc lính này đã sớm có những tác phẩm được coi là kinh điển của dòng văn học thời kỳ chiến tranh như truyện ngắn Người cầm súng (1970), tiểu thuyết Mở rừng (1976).

Nhưng thật sự khẳng định vị trí vững chắc của Lê Lựu trên văn đàn phải là bộ ba tiểu thuyết Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1994) và nhất là Thời xa vắng (1986) - "một cuốn phim đời mang dấu ấn đau thương của thời đại", theo cách gọi của nhà văn Phạm Ngọc Tiến.

Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều đánh giá, với Thời xa vắng, Lê Lựu đã thay đổi đời sống văn học Việt Nam trong những năm 80 của thế kỷ trước. Tư tưởng của Thời xa vắng đã bẻ một bước ngoặt của văn học Việt Nam kể từ 1954.

Tác phẩm cũng đã được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên.

Đây là cuốn sách ông "viết từ mình, rút ruột mình ra mà kể chuyện mình, chuyện một người nhưng là chuyện của nhiều người, chuyện của một thế hệ, chuyện của một thời". Nhưng nhà văn Phạm Ngọc Tiến cho rằng cuộc đời thật của Lê Lựu còn sinh động, còn đau khổ gấp nhiều lần nhân vật Giang Minh Sài của ông.

Theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên thì chính Lê Lựu là nhà văn cựu chiến binh Việt Nam đầu tiên đi Mỹ để nói chuyện văn chương cùng những cựu binh Mỹ năm 1988.

Cuối đời, khi đất nước vừa mở cửa, ông cũng là người tiên phong thành lập Trung tâm Văn hóa doanh nhân.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-van-le-luu-qua-doi-20221109164837603.htm

Đối với chúng tôi, điều bất ngờ nhất là sự quan tâm và theo dõi của Khuất Bình Nguyên đối với thơ miền Nam trong thời chiến…

Được đào tạo căn bản về văn học và luật học, Khuất Bình Nguyên dành phần lớn cuộc đời cho công tác tư pháp, nhưng vẫn không lìa xa được văn chương chữ nghĩa.

Từ khi về hưu, ông chuyên tâm cho văn học và xuất hiện như một thi sĩ tiềm ẩn lâu năm với năm tập thơ riêng (Người lữ hành thời gian, Nơi thời gian trở về, Cành tục ngữ hóa đá, Bỏ quên trong rừng thu, Hoa hoàng đàn nở muộn) và hai tập in chung (Bảy con đường của số phận, Mùa thu lứa đôi) được xuất bản chỉ trong vòng bốn năm.

Tự ví mình như một bông hoa nở muộn trên cánh đồng văn chương muốn bung hết sắc màu cho trời đất, Khuất Bình Nguyên không dừng lại ở lãnh vực sáng tác. Hơn mười năm qua, ông vừa làm thơ, vừa suy nghĩ về văn chương, phân tích những thế giới nghệ thuật mà ông tâm đắc và phác vẽ chân dung những cá tính sáng tạo mà ông yêu mến. Ông không nhìn ngắm và luận bàn như một nhà khoa học khách quan mà như một người nghệ sĩ đồng cảm, sẻ chia với lao động nghệ thuật của những đời văn.

20230517

Các tác phẩm của Khuất Bình Nguyên

Cần mẫn làm việc, Khuất Bình Nguyên hoàn thành bộ sách ba tập, tổng cộng 800 trang khổ lớn, gồm: Giọt nước trong lá sen (2016, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam), Giấu vàng trong gió thu (2019, Giải A của Hội đồng Lý luận Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương), Giọt nước thầm giữa những thời đại thi ca (2023), được gọi chung trong một tiêu đề phụ là Chân dung văn học - Đàm luận văn chương.

Đọc hết ba tập sách của Khuất Bình Nguyên, có thể thấy tác giả như bị cuốn hút đến gần như ngây ngất trên cánh đồng văn chương màu mỡ của dân tộc, từ cổ điển đến đương đại. Ông nghĩ lại và nghĩ tiếp về thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Tú Xương, Tản Đà; đào sâu hơn những ẩn nghĩa trong thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Bích Khê - những giá trị nghệ thuật tưởng chừng đã ổn định trong đánh giá. Tấm lòng của ông bộc lộ rõ khi ngòi bút liên tài đã tiếp cận những đời thơ lận đận của Phùng Quán, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Văn Cao, Phùng Cung, Việt Phương.

 

Đối với chúng tôi, điều bất ngờ nhất là sự quan tâm và theo dõi của Khuất Bình Nguyên đối với thơ miền Nam trong thời chiến. Bản lĩnh của một ngòi bút lịch duyệt khiến ông không ngần ngại bàn đến thế giới thơ từng xa xôi cách trở của Vũ Hoàng Chương, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Bùi Giáng, Trần Vàng Sao trong khía cạnh nghệ thuật độc đáo nhất.  

Cùng là đồng môn nhưng cách nhau bảy khóa, Khuất Bình Nguyên và chúng tôi đều đã từng theo học những giờ giảng về văn học miền Nam của Thầy Hồ Tấn Trai tức Phạm Văn Sỹ. 

Nhớ lại những câu thơ Thanh Tâm Tuyền mà thầy Trai đọc trong lớp, nhớ đến hình ảnh Đà Lạt mà nhà thơ và nhà giáo này đặt chân đến trong khoảng cách một thập niên, Khuất Bình Nguyên viết: "Thế hệ thầy Trai và Thanh Tâm Tuyền đến lúc cuối đoạn đường đời vẫn chưa thể gặp nhau. Cuộc đời của họ đã vỡ vào chuông giáo đường để chỉ còn lại tiếng ngân nga của ân tình và thức tỉnh".

Có lẽ do khoảng cách địa lý và thời gian nên Khuất Bình Nguyên chưa nắm đầy đủ thông tin về mảng văn học này. Ông dùng hình ảnh thật thích hợp: thơ Nguyên Sa là "những vũ điệu của tình yêu". Nhưng nếu ông đọc được bản thảo tập thơ Những năm sáu mươi (bị chính quyền miền Nam kiểm duyệt, không cho xuất bản) và những bài thơ của Nguyên Sa trên các tạp chí Đất Nước, Trình Bầy, thì ông sẽ thấy rằng Nguyên Sa không hoàn toàn xa lạ với tinh thần "dấn thân" của chủ nghĩa hiện sinh.

Viết về những tác giả cùng thời hay cùng thế hệ, ngòi bút Khuất Bình Nguyên càng tự tin hơn, nhờ sự từng trải trong cảnh sống mà ông chan hòa. Những bài viết của ông thu hút sự chú ý trước hết nhờ những nhan đề vừa đầy chất thơ, vừa gợi mở được chân dung của các tác giả: "Tiếng đập cửa của số phận" (viết về Bằng Việt); "Người của một thời, thơ của muôn đời" (viết về Phạm Tiến Duật), "Tôi ấy mà, một gốc rạ bơ vơ" (viết về Hữu Thỉnh), "Rút tơ ra trải đường đi riêng mình" (viết về Nguyễn Đức Mậu), "Người lính mang thông điệp đoàn viên" (viết về Nguyễn Trí Huân), "Người lặng lẽ ở số 9 Nguyễn Đình Chiểu" (viết về Ngô Thế Oanh), "Người suốt đời vác cây thánh giá tuổi thơ" (viết về Trần Đăng Khoa), "Sự mất ngủ của thi ca" (viết về Nguyễn Quang Thiều), "Nỗi sợ hãi trước chân trời" (viết về Trương Đăng Dung)… Đôi khi ông không giấu giếm sự "thiên ái" như đã viết đến ba bài về Nguyễn Huy Thiệp.

Cũng như làm thơ, đối với Khuất Bình Nguyên, viết tiểu luận phê bình pha chất tùy bút bao giờ cũng là một cuộc viết nghiêm trang. Ông không đóng khung tác phẩm trong giới hạn của văn bản. Ông kéo nó lại gần với cuộc đời,v với tâm tình người viết và tâm trạng người đọc. Ông đi tìm lại những dấu tích của Nguyên Hồng, Bích Khê, Quang Dũng, Trần Vũ Mai, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh… Chúng tôi đã từng được ông đưa đến phố Lãn Ông thắp hương tưởng niệm Vũ Đình Văn và ôn lại chuyện cũ với gia đình nhà thơ; ngồi cùng ông và những bạn văn một sáng thu hồ Tây để ngắm nhìn ngôi-nhà-cây-liễu xưa của Thạch Lam bên hồ Ao Vả ở đầu làng Yên Phụ.

Gần đây ngòi bút Khuất Bình Nguyên có xu hướng viết về những tài năng mới phát hiện trong đời sống văn chương và những bài tổng luận có tính khái quát. Mong ông dành tâm sức và thời gian đầu tư cho một công trình chuyên sâu, dài hơi về tiến trình thơ Việt Nam hiện đại.

GS. Huỳnh Như Phương

Nguồn: Người lao động, ngày 10.5.2023.

20221031

           Mở đầu tập thơ này, Nguyễn Chín cho in “đôi lời muốn nói” như một lời đề từ:

                           Thơ của tôi những ngôn từ vụng dại

                           Để mua vui cho những khách nhàn du…

           Thực ra thì thơ anh nếu có chỗ nào vụng dại là ở những bài thơ thời trẻ, viết trong những ngày trung học. Về sau này, thơ anh vẫn giản dị, đôi chỗ đơn sơ, nhưng đằng sau những ngôn từ đó là một tấm lòng chân thành, thơm thảo.

           Anh Nguyễn Chín với tôi là người cùng quê. Quê mẹ của anh cũng là quê mẹ của tôi: hai chúng tôi cùng sinh ra và lớn lên ở một miền quê ven đường số 1, từ Thiết Trường ra Đồng Cát – ôi, những địa danh bây giờ đã thay đổi, biết ai còn nhớ! –, phía Tây có ngọn đồi đất đỏ trồng khoai sắn, phía Đông có cánh đồng trải dài ngút mắt. Con đường anh và tôi từng mòn dép đến lớp học, cũng là con đường hai bà mẹ của chúng tôi trĩu nặng gánh hàng trên vai, nhiều lúc với đôi chân trần, cho kịp phiên chợ mai, như Nguyễn Chín tả trong một bài thơ về mẹ. Mẹ anh và mẹ tôi cùng có một gian hàng bé xíu ở chợ huyện: người bán bánh tráng, người bán hàng tạp hoá để nuôi con ăn học. Trong một bài tạp văn mới đây, tôi có kể chuyện ngày nhỏ ra trông hàng cho mẹ, để mất hàng, ngồi khóc, mẹ anh thấy thương, dỗ dành và cho ăn bánh tráng!

            Cho nên, khi cầm tập thơ thứ hai này của Nguyễn Chín, tôi không quan tâm mấy đến khía cạnh ngôn từ, tôi chỉ thấy những kỷ niệm ngày xưa uà về trong tâm trí. Còn nhớ Tết năm 1971, có hai nhóm học sinh yêu văn nghệ ở quận lỵ Mộ Đức rủ nhau làm hai tờ báo xuân in ronéo (tất nhiên là không giấy phép), đặt tên là Lộc Xuân Xứ Mộ. Tờ báo sau đăng một bài thơ của Nguyễn Chín viết về một đêm chiến tranh, súng nổ, đạn bay dẫn đến cái chết tức tưởi của chị Tư trong xóm. Bài thơ của Nguyễn Chín mộc mạc, thật thà mà gây bàng hoàng, in đậm trong trí óc cậu học trò lớp 9 là tôi cho đến bây giờ.

           Rồi chúng tôi gặp nhau ở Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Nguyễn Chín thuộc hàng niên trưởng của chúng tôi và đã được các bạn đồng môn biết đến khi nhận giải thưởng của Hội Thân hữu Văn khoa với công trình nghiên cứu về Giai nhân kỳ ngộ của Phan Châu Trinh. Và anh vẫn âm thầm làm thơ, khi còn trong giảng đường cũng như khi ra trường làm báo, nhưng rất hiếm khi công bố, dù là những bài thơ thế sự hay những vần thơ tình, anh chỉ giữ riêng cho mình:

                      Cô gái làng bên chửa hẹn hò

                      Âm thầm tôi đặt mấy câu thơ

                      Và tôi không gửi – tôi còn giữ

                      Cho đến bây giờ, tóc bạc phơ.

           Mãi đến năm ngoái đây, Nguyễn Chín mới in tập thơ đầu tay có nhan đề Nguyên khôi, gồm toàn những bài thơ Đường luật. Nếu không kể những lúc đọc thơ bên chén rượu với bạn bè, đồng nghiệp và những lần rải rác xuất hiện trên báo, thì đây là lần ra mắt chính thức của thơ anh. Và những người quen biết anh không ngờ anh làm thơ từ lâu như thế và nhiều đến thế. Lại càng ngạc nhiên khi giữa thời buổi hiện đại hoá này, anh vẫn thuỷ chung với thể thơ quen thuộc của ông cha.

           Tập thơ thứ hai này được anh chọn lựa từ hàng trăm bài thơ khác không thuộc thể thơ Đường luật. Ở thơ Nguyễn Chín, tôi thấy có một nghịch lý này: những bài mang hình thức cổ điển, với niêm luật chặt chẽ, đăng đối lại gửi gắm những tâm tình thế sự của ngày hôm nay; còn những bài có phần phá thể, khuôn khổ mở rộng thì nói nhiều hơn về kỷ niệm, giàu chất hồi tưởng. Nói cho đúng, trước sau Nguyễn Chín vẫn là con người của truyền thống. Nhưng ngay trong những bài thơ lục bát, tác giả không giữ nguyên dạng thức quen thuộc mà ngắt dòng để nhịp điệu câu thơ thay đổi:

                       Sáu hai tuổi vẫn còn khờ

                       Bây giờ và biết bao giờ hết ngu.

                       Thế Chiến quốc

                       Thế Xuân thu,

                       Rượu

                       Thơ

                       Thơ

                       Rượu

                       Say

                       dù chưa say…!

            Thơ là một cách lên tiếng của ký ức. Đọc Nguyễn Chín, ta bắt gặp hình ảnh tuổi thơ nghèo khó, lạc loài. Đó là hình ảnh của ngày xưa mà cũng không xa lạ với ngày hôm nay. Thơ anh đắng cay với những em bé cùng quê tha phương cầu thực. Về Quảng Ngãi, anh lang thang tìm những gánh chè đậu ván đêm đêm chờ khách trên đường Phan Bội Châu: gánh chè còn đó, nhưng người bán chè bây giờ chắc là con của người bán chè ngày trước? Đi qua cầu Mỹ Thuận mới xây, anh lại nhớ cô gái bán hàng rong trên chiếc phà năm cũ:

                               Bây giờ sông bắc cầu rồi

                        Hỡi cô em gái dạt trôi phương nào?

              Nguyễn Chín là người bộc trực, thẳng tính. Anh tin vào lẽ công bằng của xã hội. Nghề làm báo cho anh đi nhiều, biết nhiều. Anh vui với những thay đổi của đất nước gợi lên niềm hy vọng, niềm vui đôi khi pha chất lý tưởng hoá. Những lúc gặp chuyện bất bình, thơ anh không kiềm được sự phẫn nộ. Nhưng rồi anh sẽ tự hoá giải bằng những vần thơ trải đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ mà thế hệ chúng tôi thuộc làu từ thời trung học, để cho những bức xúc cũng bay đi theo những cánh diều:

                               Cánh diều đã lộng gió bay

                        Nhạc diều trầm lắng những ngày chao nghiêng.

              Những cánh diều, những ruộng luá, những gánh chè đậu ván, những người chị, những bà mẹ ở quê tôi đã đi vào thơ Nguyễn Chín như vậy đó. Không biết có ngày nào họ đọc được thơ anh, hay đêm nào họ mở máy thu thanh nghe những bài tường thuật anh viết về muà màng, thóc giống, về những trận lũ lụt và những cơn hạn hán, để cảm nhận một tấm lòng thơm thảo với quê hương xa cách.

Nhà báo, nhà thơ NGUYỄN CHÍN, sinh năm 1943 tại Quảng Ngãi, cựu sinh viên Đại học Văn khoa Sài Gòn, nguyên công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam, đã qua đời lúc 23h15 ngày 30-10-2022 tại nhà số 7, đường số 10, phường Thảo Điền, TP Thủ Đức, TP HCM, hưởng thọ 80 tuổi. Trân trọng báo tin buồn đến các thân hữu!

Huỳnh Như Phương


[*] Lời bạt tập thơ Quê mẹ (NXB Lao Động, 2010) của Nguyễn Chín và Trần Tấn Dũng, nhà báo VOV, cựu sinh viên Đại học Văn Khoa Sài Gòn.

Đó là một trong những câu hỏi lớn được đặt ra và mổ xẻ đầy sôi nổi trong buổi cà phê học thuật nhân văn chủ đề 'Văn học trẻ Việt Nam trong dòng chảy giao lưu quốc tế' chiều 25-3.

20230327

Buổi trò chuyện "Văn học trẻ Việt Nam trong dòng chảy giao lưu quốc tế" diễn ra sôi nổi với nhiều vấn đề do sinh viên đặt ra cho các diễn giả là các nhà văn, dịch giả cùng thảo luận. Từ trái sang: MC Công Nghĩa, nhà văn Huỳnh Trọng Khang, nhà văn Bích Ngân, dịch giả - TS Nguyễn Thị Hiền, dịch giả Huỳnh Như Hương Châu - Ảnh: HUỲNH VY

Gần 500 khán giả đã lấp kín khán phòng buổi trò chuyện tại hội trường Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM. Nhiều bạn sinh viên sẵn sàng ngồi dưới đất để lắng nghe các diễn giả trao đổi suốt hơn hai giờ.

Nhiều vấn đề hóc búa đã được đặt ra: Cần yếu tố gì để văn học trẻ Việt Nam vươn ra thế giới? Văn học trẻ đang đối mặt khó khăn và thách thức gì? Văn học dịch có hỗ trợ văn học sáng tác? Những ảnh hưởng của văn học mạng? Ràng buộc nào khiến những cây bút trẻ không dám bứt phá? Văn học đại chúng có thể sống lâu dài không? Tác giả trẻ cần chủ động quảng bá cho tác phẩm của mình ra sao?...

Để vươn ra thế giới, trước hết phải viết hay

Theo nhà văn Bích Ngân - chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM, để văn học trẻ vươn ra thế giới, trước tiên tác phẩm phải hay. Muốn sáng tác hay, người viết phải có tài. Ngoài năng khiếu, còn cần sự khổ luyện và chuẩn bị kỹ càng về kiến thức, ngôn ngữ, sự hiểu biết, từng trải của riêng mỗi người.

Văn học trẻ Việt Nam đang có những bước tiến rõ ràng. Thế hệ 7X có những tác giả mang tầm vóc văn chương như Nguyễn Ngọc Tư, Vũ Đình Giang. Thế hệ 8X, 9X, Nguyễn Thị Kim Hòa, Đinh Phương, Trường An... đang khẳng định tài năng.

Các bạn mạnh dạn viết về lịch sử, đặt ra những vấn đề, câu hỏi mới mà thế hệ cha anh chưa chạm đến. Khác với thế hệ trước có quá nhiều tính báo chí trong tác phẩm, đôi khi quên mất cái vỏ tải quan trọng nhất là ngôn ngữ. Thế hệ trẻ chú trọng nhiều hơn đến cách biểu đạt.

Cần gì để văn học trẻ Việt Nam vươn ra thế giới? - Ảnh 3.

Dịch giả - TS Nguyễn Thị Hiền tự tin văn học trẻ Việt Nam có thể vươn ra thế giới - Ảnh: HUỲNH VY

Đồng tình với nhà văn Bích Ngân, TS Nguyễn Thị Hiền cho rằng nhiều cây bút trẻ Việt trước đây có phỏng theo các nhà văn thế giới, nhưng hiện tại, các bạn mang đến nhiều thú vị khi thể nghiệm các chất liệu cổ tích, sử dụng bút pháp siêu thực... 

Văn học dịch tại Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ. Và theo dịch giả Hương Châu, đó cũng là động lực để văn học trẻ vươn ra thế giới. 

Đọc văn học dịch, những cây bút Việt sẽ có thêm góc nhìn về thế giới, nhận ra những tác giả lớn cũng từng đối mặt khó khăn như mình. Từ đó, các bạn bớt lo âu, có dũng khí để viết và viết chân thực hơn, dám mạnh mẽ lên tiếng về những vấn đề xã hội.  

Việc dịch tác phẩm Việt ra tiếng nước ngoài cũng mang lại động lực cho sự hội nhập văn chương.

Cần gì để văn học trẻ Việt Nam vươn ra thế giới? - Ảnh 4.

Dịch giả Hương Châu cho rằng văn học dịch giúp văn chương nước nhà mở ra nhiều chiều kích hơn - Ảnh: HUỲNH VY

Tin tưởng ở người viết trẻ

Về văn học mạng, các diễn giả đều đồng ý văn học mạng giúp giảm áp lực về xuất bản, kiểm duyệt, giúp các bạn trẻ dám viết và có được bước nhảy khởi đầu. Nhưng sáng tác là chiến đấu với cô đơn. Nếu các tác giả của văn học mạng không biết tiết chế, thu mình để giữ cái tôi khi sáng tác thì rất nguy hiểm.

Theo nhà văn Bích Ngân, tác giả phải chân thực với chính mình, sống thế nào viết thế ấy, và phải tiếp tục đòi hỏi bản thân luôn trau dồi vốn văn hóa.

Là dịch giả chuyên về văn học Hàn Quốc, TS Nguyễn Thị Hiền chia sẻ văn học Hàn đang dần định vị trên bản đồ văn học thế giới nhờ có chiến lược. Tác phẩm phải vừa toàn cầu hóa vừa địa phương hóa, sử dụng chất liệu truyền thống nhưng bút pháp hiện đại.

Nhà văn Huỳnh Trọng Khang bổ sung một số nhà văn trên thế giới có chiến lược khi viết, có người quản lý. Nhưng vậy có trung thành với điều mình viết, có còn giữ được bản sắc? Anh luôn tự nhắc: hãy đi đến tận cùng bản thân thì sẽ gặp được nhân loại.

Cần gì để văn học trẻ Việt Nam vươn ra thế giới? - Ảnh 5.

Giáo sư Huỳnh Như Phương tin lớp trẻ sẽ làm nên chuyện - Ảnh: HUỲNH VY

Có mặt tại buổi trò chuyện, GS.TS Huỳnh Như Phương bày tỏ niềm vui khi trong một ngày, ông được dự hai sự kiện là giải Văn học trẻ 2022 và buổi tọa đàm văn chương với những trao đổi rất sâu sắc này.

"Mọi giá trị văn hóa, văn học hiện tại đang trôi quá nhanh, các tài năng bị bỏ lại cũng nhanh. Nhiều điều mình cần tiếp cận khác. Văn học có thể không cần đòi vĩnh cửu, không phải luôn toàn bích dẫu đó là đích đến.

Khi một người lựa chọn ngôn ngữ viết, ví như chọn tiếng Việt, bản thân việc lựa chọn đã là bản sắc. Tôi luôn tin lớp trẻ sẽ làm nên chuyện, và có những cảm hứng lan tỏa từ chính những cuộc trò chuyện thế này" - GS Huỳnh Như Phương chia sẻ.

Huỳnh Vy

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 25.3.2023.

Trong khoảng 10 năm cầm bút làm phê bình văn học, hiếm khi nào tôi lại được rộng rãi nhiều phương án lựa chọn tiêu đề cho một bài viết như lần này. Đi đâu đi, đừng mua vé khứ hồi. Những cây nến nhỏ từng giọt đời ra thắp lửa. Mạch rồng của thi ca v.v.. Nhưng cuối cùng tôi chọn đầu đề ở trên.

20220921

Vốn là một câu thơ trong bài The Hill We Climber đọc tại Lễ nhậm chức của tổng thống Hoa Kỳ ngày 20/01/2021 được Phạm Minh Quân dịch ra tiếng Việt in ở tập Mạch Rồng với 317 bài thơ của 42 tác giả tuổi đời dưới 35, cùng tham dự Hội nghị nhà văn trẻ lần thứ 10 tại Đà Nẵng hồi trung tuần tháng 6 năm 2022. Chọn như thế bởi vì thời đại của chúng ta có những khát vọng, băn khoăn giống nhau khi người Việt Nam vươn tới thế giới hiện đại trong một nỗ lực không mệt mỏi mà tiêu biểu là lớp người gần như trẻ và xung mãn nhất của đất nước đang hướng tới tương lai mà chính họ dường như còn chưa biết rõ mình là ai và nhất là rồi sẽ là ai. Thi ca với tư cách nghệ thuật của ngôn từ là người diễn ngôn chân thành, đầm ấm và trăn trở nhất văn hóa của một thời đại. Thi ca thức tỉnh nguồn mạch những giá trị sống. Đọc tập Mạch Rồng của họ, tôi hân hoan được tiếp nhận một thế giới tinh thần giàu cảm xúc hưng phấn và ấn tượng đầu tiên về một nền hòa bình trong tình yêu và khát vọng. Khác với nhiều tuyển thơ trong thế kỷ 20 và khoảng 10 năm đầu thế kỷ 21, Mạch Rồng của thời đại hôm nay không còn tiếng gầm rú của bom rơi đạn nổ, không còn tiếng máu chảy bi thiết mà trầm lắng dòng dòng trên núi đồi và sông suối… Và cả tiếng hô khẩu lệnh nhằm thẳng quân thù mà bắn vang đi suốt chiều dài của 50 năm nửa sau thế kỷ 20. Trong 317 bài thơ chỉ có 5 lần nói tới chiến tranh. Nhưng đó là ký ức chiến tranh sâu lắng trong đời sống tinh thần như những tiếng thầm của đất nhắc nhở sự hy sinh của bao người đi trước cho hòa bình hôm nay. Âm điệu nhẫn nại của lửa truyền lại từ cuộc chiến giờ chỉ còn ngàn ngàn ngôi mộ vô danh. Không biết có bao nhiêu đứa con đi ra chiến trường bỏ mẹ theo cha cũng đã đi như thế. Mẹ như ngọn nến mong manh giữa rừng. Trong khi người em gái nhỏ hát giữa đại ngàn bài ca người ra trận mà không hay biết người chiến binh ấy ở đâu dọc những chiến hào hàng triệu người trai tráng ngã xuống. Những lá thư rơi rụng dọc đường. Chỉ có hoa màu xanh nở giữa thung xanh. Hoặc chỉ là bầy mối trong rừng mưa khi những người lính lặng lẽ bước ra từ những mộ phần yên nằm không ai nhìn thấy để nhớ lại cơn sốt rét dài hơn thập kỷ. Bầy mối bay quanh quẩn trong rừng mưa như một ẩn ức nhắc nhở cuộc đời này. Chỉ có 5 lần chiến tranh xuất hiện trong 500 trang sách nhưng đại diện được cho toàn bộ thế hệ trẻ hôm nay biết ơn và không bao giờ quên quá khứ với một thi pháp diễn ngôn đầy xúc động bổ sung vào nguồn mạch thi ca viết về chiến tranh trong thế kỷ 20.

Có một sự gặp gỡ lạ lùng giữa tuổi trẻ và thi ca ở những thời điểm thách thức của lịch sử hiện đại. 44 tác giả trong Thi nhân Việt Nam, chỉ trừ Tản Đà là người cao tuổi. Hầu hết các tác giả của phong trào Thơ mới 1930-1945 đang độ tuổi dưới 30. Già dặn như Đông Hồ, Quách Tấn cũng chỉ 35, 36. Cả thảy họ có 169 bài chưa kể hai người chỉ được điểm thơ. Vậy mà họ là người mở ra một thời đại mới trong thơ. Tuyển Thơ chống Mỹ cứu nước 1965-1967 có 112 tác giả đã có 58 người thơ trẻ với 58 bài thơ mà Chế Lan Viên đã gọi họ là sức trẻTuyển thơ 10 năm đầu thế kỷ 21 có tới nghìn trang gồm 215 tác giả trong đó chỉ có 50 người ở lứa tuổi già. Vậy mà người làm sách trong lời phi lộ nói rằng Tuyển chưa phản ánh đầy đủ diện mạo thi ca Việt Nam vào giai đoạn đó. 42 người trong Mạch Rồng chưa thể gọi là một thời đại mới trong thi ca. Nhưng có cảm tưởng họ cùng nhau hành hương về mảnh đất mang tên số phận con người, cùng chia sẻ những trăn trở, suy tư và ước vọng, thương yêu với cuộc đời này làm nên một thế giới tâm trạng đa màu, đa diện đầy ẩn ức của cá nhân con người. Khác với nhiều tuyển thơ khác, Mạch Rồng báo hiệu một điều hy vọng bởi đã có những tác giả thơ với cảm xúc và hình tượng thơ khác biệt làm nên một lối diễn ngôn có cá tính không thể lầm lẫn. Họ không hát đồng ca nữa. Họ có giọng điệu riêng của bản thân mình với sự phong phú về thể loại thơ. Có nhiều tác giả ghi dấu ấn trong thể thơ tự do có vần và một số tìm sự khác biệt thành công trong thể thơ lục bát. Họ như là bình minh của một ngày đang tới.

Mộc Anh đa mang trăn trở những điều muôn thuở của nhân gian khi Viết về đêm. Bắt gặp lại những nhành cỏ bơ vơ trên suốt quãng đường về với mơ hồ phấn mịn mùa hè nằm yên trong nếp áo. Bài ca về con đường nhỏ dại mà đêm thầm thì tên gọi những dòng sông. Cuộc đời con người như những đám mây có thể tan tác khi trời đổ lệ mà sao liếp sàn thì thùng gió núi, ván sàn lép bép củi than nơi bản xa miền sơn cước xứ Nghệ.

Huỳnh Ngọc Tuyết Cương trở về với cái bình an nhẹ nhàng của dân gian Điền dã từ trong cảm xúc vận hành thể thơ lục bát nhuần nhụy. Lá như đôi mắt người say, nửa rơi xuống đất nửa bay về trời. Thầm trách ai đó qua sông vô cớ bỏ lại một câu Kiều để thi nhân mãi vẹn một chiều sao hôm. Có lúc câu thơ già hơn tuổi. Cuộc đời ai ra đi bỏ lại bơ vơ để ai về quét lá quê nhà, đốt lên bầy khói nhuộm già tóc non.

Vàng A Giàng se sắt những sợi lanh ẩn ức cuộc đời. Cảm nhận chiều tam giác mạch buồn như nỗi nhớ bởi lỡ hẹn một cuộc tình khi chiều đứng bóng Khâu Vai. Lời thơ của Vàng A Giàng chân thật như ruộng bậc thang có mấy bậc nhìn là biết mà bất ngờ Giàng say ảo giác những sợi chiều cũng bớt cô liêu.

Nguyễn Hương Giang ý thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ bình lặng mặn mà. Trải nghiệm trước những chuyện dị thường của Puskin và Victo Hugo như là một người trong cuộc đấu súng cuối cùng để tìm ra một triết lý trên mặt phẳng hạnh phúc niềm hân hoan cùng tận mặc cho cuộc đấu súng có thể còn tiếp diễn trên mặt tuyết cô đơn. Cùng với niềm tin rằng anh gù Quasimodo vẫn sống và sống mãi như tình yêu bất tử. Thi nhân không hiểu có phải già đi nhiều lắm không khi biết bài thánh ca chẳng có sự lãng quên vĩnh cửu.

Nguyễn Đức Hưng lựa chọn cho mình một cách diễn đạt mới về một vấn đề xã hội phức tạp vốn đã tồn tại nhiều thế kỷ nay được anh gọi là vai phụ. Người đàn bà cô đơn lén lút gọi chồng người khác là chồng chỉ biết ngồi đối thoại với màn đêm. Màn đêm thì hoài nghi không dám nói. Thi nhân suy tư về những vấn đề hàng ngày của đời sống như Viết trước cổng chùa, Nợ quê, Lấy vợ v.v.. Rồi ký ức tháng 6 kể người em hờn dỗi giấu mắt vào vai áo. Thanh xuân ồn ào như một trận mưa. Em gom hết những cồn cào tháng 6.

Lê Tuyết Lan thơ hay mà già hơn tuổi. Hơi thở hiến đời cho những đa đoan. Chỉ đi ngang qua ngôi nhà có khói bếp nhà ai chảy dài qua khóe mắt và cũng chỉ sờ thôi đã bỏng rát thực hư. Trăn trở mùa thay cho nội tóc giờ bạc trắng bởi bao lần hạt bụi đời giằng xé, bao lần sứt mẻ góc sông xưa. Thi nhân không biết tự mình có đánh rơi gì không mà cánh đồng chẳng có mùi nắng cháy rơm rạ. Người ta ngỡ ngàng không nghĩ là cái kết của bài thơ Cơ hàn giấc tôi lại xa xăm đến thế.

Về đây thưa lại ngút ngàn

Lòng sâu đã dựng cơ hàn

Mắt, môi.

Thơ Siêu Thị Chiêu Linh suy tư về sự tan vỡ và hàn gắn của giấc mơ không chở nổi những ngày dài. Thực tại cứ hồn nhiên 10 năm hay nhiều hơn không quan trọng chẳng biết lòng người có cho quá khứ ngủ yên không? Những người đàn bà đi qua những buổi bình minh chắc gì đo đếm được những chiều tà sầu muộn. Thi nhân nói hộ họ, những người đã đi qua tuổi 30 khát khao vô hạn chuyện bế bế bồng bồng. Người ta chợt cảm thông và xác tín với sự nghi ngờ rằng không bao giờ tôn thờ những điều cứ ngỡ rằng có thật, ví như lời thề vàng đá chẳng hề phai.

Thơ Lý Hữu Lương đậm đà chất văn hóa dân tộc Dao. Ta bắt gặp sự nặng lòng suy tưởng về thân phận con người gắn bó với miền đồi núi yên lặng và xa vắng bằng những hình tượng và sự biểu cảm mới lạ. Nhiều vần thơ có sức vang xa. Với Lý Hữu Lương chỉ cần mở bàn tay đã gặp nỗi buồn thượng cổ. Mạch Rồng là bài thơ hay nhất của tác giả và cũng là một trong những bài hay của Tuyển. Người thơ nêu câu hỏi: Tổ quốc được minh định từ bao giờ, lòng đất đã hóa mạch rồng truyền thuyết và tự trả lời: Máu chảy trong tôi máu lai cổ. Vạn vạn người nằm xuống. Có bao nhiêu là oan hồn. Nuôi mạch rồng trong đất.

Lữ Mai mới lạ trong thi pháp ở những liên tưởng bất ngờ giàu chất thơ. Người đã đưa những vùng cảm xúc và ý nghĩa tưởng chừng như không có gì liên hệ gần lại với nhau làm nên bức tranh chan hòa tình yêu cuộc sống. Đôi khi khiến ta không hiểu rõ và mơ hồ ta là ai? Ta đang ở đâu giữa cuộc đời dâu bể này. Giờ gai nhọn đâm hoa nở dưới chiều tà. Bềnh bồng muôn dấu hài xanh cửa sóng. Cứ mơ bật nắp chum sành. Gặp mình quẩn quanh ôm trọn vầng khói tỏa. Trong đêm nghĩ về thân phận cầu Long Biên như không nói về cây cầu mà nói bản thân ta. Ta vơ vất mùa thu trầm đục. Phía sâu xa cay mắt một mái nhà.

Trương Mỹ Ngọc câu thơ dài mà mạch thơ không chậm. Lời thơ trầm ngâm nghĩ ngợi với nhiều cung bậc cảm xúc. Thật dịu dàng bản tình ca cho hai người hát lúc Xuống phố mùa thu, Phác họa mùa thu… Mùa thu ở đây buồn mà lắng đọng suy tư. Nỗi nhớ cũng gầy gò như tháng 7. Mắt thì nâu, tay thì gầy mỏng manh như ngọn cỏ. Với phương nào cũng đụng phải dáng hình anh trong hoang đường của miền ký ứcBa bài thơ thế sự Chỉ cần là đồng bào…, Thương lắm phù sa, Em đã đi… tứ thơ còn dàn trải có thể vì chưa kìm được ngòi bút chạy?.

Ghi nhận sự thành công của Vân Phi ở bài thơ thế sự, vốn là một đề tài ít nhiều còn vơi cạn ở tập Mạch Rồng. Dù là Ngồi lại, thi nhân vẫn tìm ra ý mới thật hay Đi đâu đi đừng mua vé khứ hồi. Đôi lúc thế sự được ngay cả những điều nhỏ bé, giản dị như hạt thóc, gà con… Ngồi đây một xíu thôi mà, để nghe hạt thóc thật thà nói thương. Và Gà con nhặt thóc ngoài sân, nhặt sao cho hết tảo tần gà ơiBản phác thảo thời gian ở xứ tháp Chàm trầm ngâm nhiều lắm. Bốn nghìn năm thăng trầm thế cuộc. Ta nhặt những mảnh vỡ của thời gian từ muôn kiếp trước. Trái tim vẫn bồi hồi trước điệu múa Chaligia.

Những ngày tay đói bàn tay hay ở lối diễn ngôn mới. Chất tự sự không hề bị chồng lấn khi kể chuyện người đàn bà xứ Bắc làm dâu xóm nhà râm ven biển miền Trung. Tựa cửa tủi phận mình rong rêu mùa nhan sắc, bữa ăn trào nước mắt ngóng chồng vẫn biệt ở khơi xa nên buổi chiều cứ miên man thêm mỗi ngày bàn tay đói bàn tay của đôi vợ chồng ấy. Chẳng khác chi nỗi cô đơn mong nhớ mẹ già. Bữa ấy nắng lên đồi rất khẽ, chiều trút võ vàng lên làng cũ, những đăm chiêu rưng rức phía mẹ ngồi.

Trúc Thanh nhận chức làm người bằng tiếng khóc. Hành trang kẻ ra đi có tờ giấy kết hôn không còn giá trị giữa Mùa xuân áo cũĐêm thênh thang cơn gió về trăn trở. Chiếc lá thầm rơi đâu phải mùa thu. Thơ Trúc Thanh buồn mà thanh khiết lạ lùng.

Vĩnh Thông nặng lòng suy tưởng mà tinh tế ẩn chứa nhiều hy vọng. Gọi chiều ơi không còn nữa mà vẫn thấy một chiếc hoa buông xõa thầm thì. Trên đỉnh Phù Vân đời nhỏ bé, bỗng nghe tiếng chuông chùa trăm năm chẳng hiểu ai người đến trước. Trăm năm rêu phong thành vách đền đài. Chẳng biết cái gì còn, mất giữa miền hư ở biên giới Vĩnh Xương cuối năm nghe được tiếng rơi nước mắt như nắng rơi vỡ sóng sông Tiền. Bài thơ Cánh đồng nhiều trăn trở và có cách diễn đạt mới.

Lê Đình Tiến nhẹ nhàng mà tha thiết trên con đường trở về với lục bát dân gian. Làm như một Nguyễn Bính của thời nay. Cảnh và người trong thơ lục bát của Tiến thân thuộc mà ân tình biết mấy. Làng quê chứng kiến sự nhỡ nhàng của một mùa trăng.

Trăng từ hôm ấy nhỡ nhàng

Hóa thành hạt thóc sang ngang mỗi chiều.

Chợ chiều như từ thế kỷ trước hiện về đây. Đơn sơ như vẻ đẹp thanh bần muôn năm của cái cũ.

Chợ chiều bán nhớ mua quên

Vẫn đôi thúng rách nằm bên giần sàng.

Lục bát của Lê Đình Tiến không chỉ chân quê như thế kỷ trước mà còn diễn ngôn được triết lý và suy ngẫm của cuộc dâu bể thời nay.

Ta đi cầm nón ra đồng

Để che mưa nấm mộ không bóng người.

Giữa ngàn nấm mộ vô danh các chiến binh người người lớp lớp ngã xuống mà tình đời còn ở lại với bao la và ngân lên đức tin của Phật.

Các con bỏ mẹ theo cha

Để mình mẹ với bao la chuông chùa.

Tôi buộc phải theo thơ Lê Đình Tiến về lại quê nhà xứ Đoài chỉ để nghe bụi tre già ngoài ngõ thở dài vào những ngày xưa.

Trần Đức Tín thơ trẻ mà “già” lắm, hiểu theo nghĩa sự sâu sắc của tư duy thơ không kịp chạy về cánh đồng tuổi trẻ để đặt lại tên cho nỗi buồn. Không có cánh cửa nào phía sau đôi mắt biếc. Thi nhân ngồi lặng im như tràng hạt. Có khi gánh quê đi đâu que nhang nào không khói. Mang trong lòng mình chiếc lá bồ đề đa mang ân tình với quê hương, con người và phật. Đã vượt qua được ranh giới mong manh giữa sự dẽ dàng và sự bề bộn của suy tưởng thơ.

Mai Diệp Văn có tứ thơ độc đáo và cách diễn ngôn mới. Đi tìm tuổi mình đánh rơi. Mọi người đều rơi tuổi. Mỗi ngày thêm vài tuổi. Mỗi đêm thêm người lạ đi tìm. Tức là đi tìm bản ngã của đời người. Giấc mơ lăn đậm sắc nhân văn kể về người mẹ và đứa con gái bị mù được trao tay cho nhiều người khác. Đã 10 mùa thu đến để rụng lá mà không hình dung được khuôn mặt mẹ già. Tìm bóng đã tìm ra một ý tưởng mới vượt ra ngoài cái bóng của Andecxen.

Thơ Hải Yến nghiêng về suy tưởng. Hình tượng thơ độc đáo như hạt thóc đã mang hình vương miện tự ngàn năm. Từ câu chuyện cổ xưa chiếc bánh Lang Liêu, mối tình Mỵ Châu – Trọng Thủy để thức tỉnh chuyện đời. Đá cụt đầu còn nhỏ máu xuống chân nhang và Những cây nến mang tia mặt trời nhỏ từng giọt đời ra thắp lửa. Cứ nghĩ bây giờ tuổi trẻ nhiều người già trước tuổi bởi họ nhìn thấy mặt trời cúi xuống trần gian thở dài.

Viên Mai trong Tùy Viên Thi Thoại chê trách người đời Tống nhầm lẫn khi cho rằng thơ của Đỗ Phủ, Hàn Dũ hay là do họ có nhiều chữ, không chữ nào là không có lai lịch. Thực ra thơ hai ông hay không phải do chữ có lai lịch mà vì họ sáng tạo ra những chữ mới. Điều cần nói trong tập Mạch Rồng có lẽ cũng từ chính cái điều nhiều chữ mà ra. Không ai phủ nhận học vấn. Nhưng vì học vấn chưa nhuần trong sáng tạo cá nhân nên có trường hợp thơ rơi vào diễn giải cầu kỳ. Từ sự cầu kỳ đến lời thơ khó hiểu là một khoảng cách rất ngắn mà thực ra rất khó khắc phục. Nhưng điều ấy không nguy hiểm bằng hiện tượng đọc một số bài thơ thấy quen quen. Rằng hay thì vẫn là hay nhưng khó tạo ra sự đột khởi cho cảm xúc thẩm mĩ người đọc vì thiếu sự khác biệt và sự độc đáo. Đúng như một nhà thơ của Mạch Rồng đã cảm nhận Lá trũng xuống dưới dấu chân ngằn ngặt. Người quen quen quen những điều đã cũ. Cảm giác hay hay mà quen quen không biết đã gặp ở đầu rồi. Đó là mối nguy hiểm lớn nhất cho người làm thơ và buồn tênh nhất cho người đọc thơ.

Chế Lan Viên khi giới thiệu Thơ 3 năm chống Mỹ cứu nước 1965-1967 âu yếm gọi thơ trẻ tươi mát màu lá nonLá của mùa xuân và sức trẻ. Nhưng thực ra có người trẻ lúc đó cũng hàn lâm như một chính khách. Thơ của tuyển Mạch Rồng sau hơn nửa thế kỷ so với thời ấy phần nhiều lại đưa đến cảm giác ngược lại. Các nhà thơ trẻ của chúng ta già dặn quá. Già trước tuổi. Có lẽ đó cũng là một điều khó tránh khỏi của một thời đại giông bão của biết bao chuyển đổi. Trong một khoảng thời gian không dài, có nhẽ từ 1990 trở lại đây, nhiều chân lý tưởng như bất biến đã được nhận thức lại. Phải vật vã đôi khi đau đớn để tìm lại chính mình. Người làm thơ trẻ thường đứng trung tâm của cuộc bão táp đó. Vì lẽ ấy họ phải trở nên già hơn trong thơ chăng?

Mỗi thời đại văn chương thường có nhân vật của riêng mình. Bác xà ích và cỗ xe tam mã rong ruổi những con đường mùa đông văn chương nước Nga từ thế kỷ 19 đến nay vẫn chưa dừng lại. Những hoạn quan quái đản làm lung lay bao nhiêu vương triều Trung Hoa và chiến tranh biên tái với những người lính thú hàng mấy nghìn năm nay vẫn chưa về được đã ám ảnh thế giới hiện đại. Người Mỹ đưa người lên mặt trăng nhưng văn chương của họ dường như vẫn để chàng cao bồi miền Tây lang thang hoang dã như là một biểu tượng không thay đổi được của văn hóa Mỹ. Tôi lúng túng chưa chọn được nhân vật nào tiêu biểu cho tập Mạch Rồng. Có phải vì Mạch Rồng như một bức tranh lập thể, nhiều nhân vật đang vận động mà tôi chưa kịp nhận ra chăng?

Thách thức của thế hệ trẻ hôm nay khó khăn hơn nhiều thời kỳ phong trào Thơ mới 1930-1945 xét ở góc độ giao lưu văn hóa. Bởi vì ngày nay thơ trẻ không thể chỉ là sản phẩm của sự gặp gỡ của văn hóa Đông Tây mà hơn thế nữa người Việt Nam không chỉ tiếp thu những tinh túy của mưa Âu gió Mỹ mà của toàn cầu để sáng tạo những khuôn mẫu riêng biệt của người Việt Nam trong cuộc đồng hành cùng nhân loại, trong sự đồng điệu của khát vọng và băn khoăn. Mạch Rồng chưa phải mở ra một thời đại mới trong thơ vì lẽ đó chăng? Nhưng điều quan trọng nhất họ là bình minh của một ngày đang tới. Họ là người diễn ngôn cho một thế giới tinh thần đầy nhạy cảm của thời đại về số phận con người. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều bảo: Ngoài 42 người còn có những gương mặt khác, chưa kịp đưa vào Mạch Rồng. Mạch Rồng đề cập đến con người bằng một thi pháp mới và Mỹ học mới.

Vâng, họ đang bằng thi ca để thức tỉnh con người hướng tới cái đẹp và tự do. Tôi không hiểu những gì đang chờ chúng ta ở phía trước và những ai trong 42 người ấy sẽ tiếp tục chặng đường thi ca đến năm 2050 để diễn ngôn cho văn hóa của thời đại ấy bằng ngôn ngữ sau đây: Tôi biết một thứ ngôn ngữ giản dị như đất. Thứ ngôn ngữ mộc mạc thẳng băng. Tựa như tiếng tù và. Như tiếng kèn đồng. Như tiếng chuông vọng. Có một thứ ngôn ngữ thức tỉnh con người.

Tôi mơ một giấc mơ giống như Boris Pasternak rằng thơ Puskin thời niên thiếu ở trường lycée còn lệ thuộc vào luật thơ để sau đó Puskin tương lai bừng thức dậy trong chàng thiếu niên này, để loại thơ 4 âm tiết của Puskin trở thành một đơn vị đo lường của cuộc sống Nga. Ai trong số 42 người ấy sẽ làm được điều tương tự như thế?

Khuất Bình Nguyên

Nguồn Văn nghệ số 36+37/2022

______

1. Mạch Rồng – Tuyển thơ – NXB Hội Nhà văn – 2022.

2. Viên Mai – Tùy Viên Thi Thoại – NXB Giáo dục – 1999 – Trang 72-73.

3. Chế Lan Viên – Thơ chống Mỹ cứu nước 1965 – 1967 – NXB Văn học – 1968 – Trang 17.

4. Nguyễn Huy Thiệp – Truyện ngắn – NXB Văn học – 2021 – Trang 356.

5. Boris Pasternak – Bác sỹ Zhivago – NXB Văn học – 2016 – Trang 326.

Nhà thơ, dịch giả Dương Tường vừa qua đời lúc 20h08 tối nay 24-2 tại Bệnh viện 108, Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi. 

Nhà thơ, dịch giả Dương Tường qua đời - Ảnh 1.

Nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng năm 2019 - Ảnh: T.ĐIỂU

Tin từ gia đình nhà thơ, dịch giả Dương Tường cho biết ông vừa qua đời tối nay sau một thời gian nằm viện vì tuổi cao, sức yếu.

Ông là người thứ 3 trong nhóm 4 người văn thân thiết đồng trang lứa gồm Nguyễn Xuân Khánh, Phạm Toàn (Châu Diên), Dương Tường đã qua đời, chỉ còn Nguyên Ngọc.

Dương Tường - người thơ

Sinh thời, ông được nhiều thế hệ bạn bè văn nghệ, đặc biệt là ở Hà Nội yêu mến - một nhà thơ, dịch giả có nhiều bạn bè vong niên, bởi ông thích giao thiệp với những người trẻ, những điều mới mẻ, vừa chia sớt tình thân vừa cho mình những cơ hội học hỏi những điều mới.

Cuộc đời ông đã dành nhiều trang viết để ủng hộ những người viết, vẽ trẻ, đặc biệt là những người trẻ sáng tạo, tìm kiếm những bờ bến mới của không gian sáng tạo tưởng không bao giờ có đường biên.

Căn gác nhỏ nơi con ngõ nhỏ trong khu phố Pháp ở Hà Nội của ông luôn ngập tràn sách, những bức tranh chân dung ông do nhiều lứa họa sĩ tài danh vẽ tặng và những cuộc thăm viếng bạn bè văn nghệ cả nước yêu quý ông.

Nhà thơ, dịch giả mới học dở dang bậc trung học này được nhiều bạn văn, độc giả yêu mến không chỉ bởi tài năng thơ văn, niềm đam mê với văn chương nghệ thuật, sự tận tụy với chữ nghĩa, mà còn bởi ông là cái gì đó rất Hà Nội, thuộc về Hà Nội, từ cái máu văn nghệ cho tới những đối đãi tình nghĩa người - người.

Nhà thơ, dịch giả Dương Tường qua đời - Ảnh 3.

Dương Tường và nhà thơ Phan Huyền Thư trình diễn thơ tại Sân thơ trẻ, Ngày thơ Việt Nam năm 2008 - Ảnh: LƯU QUANG PHỔ

Nhiều người sẽ không tránh khỏi cảm giác như Hà Nội mất đi nhiều phần Hà Nội khi những văn nghệ sĩ như Dương Tường dần ra đi.

Thành công theo nghĩa được nhiều người biết đến và mến mộ hơn cả với vai trò là một dịch giả, nhưng Dương Tường trước nhất là một nhà thơ.

Trong giới văn nghệ, Dương Tường ghi tên mình như một nghệ sĩ lớn với một hồn thơ đắm đuối, nhạy cảm, nhiều sáng tạo trong nghệ thuật thi ca.

Thơ ông, cùng với những người bạn của mình như Lê Đạt, Đặng Đình Hưng... từ rất sớm đã có rất nhiều những thể nghiệm mới mẻ. 

Nghệ thuật thơ ca của ông trước hết là nghệ thuật của chữ, của những "con âm", với rất nhiều nhạc tính, và nhất thiết phải có nhạc trong thơ. Tâm hồn thì tất nhiên phải có.

Nhà thơ, dịch giả Dương Tường qua đời - Ảnh 4.

Dịch giả Dương Tường và cuốn Kiều in Dương Tường’s version ra mắt năm 2020 - Ảnh: T.ĐIỂU

Nhiều bài thơ tình của ông đã được nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc, thành những bài hát nổi tiếng, rất được yêu thích như bài Tình khúc 24, Dương cầm lạnh...

Yêu thơ và tìm thấy sự bung tỏa của năng lượng sáng tạo với thơ nhưng Dương Tường sinh thời lại khẳng định ông "còn nợ thơ". 

Trong cuộc trò chuyện với Tuổi Trẻ năm 2019, ông tâm sự thơ mới là cái nghiệp chính của ông, nhưng bởi cơm áo nên ông phải chuyên chú cho dịch thuật. Thế là, cả đời ông mãi vấn vương với món nợ nàng thơ không thể trả.

20230224

Chân dung Dương Tường do Bùi Xuân Phái vẽ tặng

Dương Tường - người tử tế

Nhưng trong dịch thuật, dù chỉ là cái "nghề kiếm cơm", ông vẫn đưa tên mình lên hàng những dịch giả uy tín.

Dương Tường bắt tay vào dịch những tác phẩm lớn của thế giới như Anna Karenina (Lev Tolstoy), Lolita (Vladimir Nabokov), Cái trống thiếc (Gunter Grass)... đặc biệt là các tác phẩm của những tác giả mà văn chương của họ thật sự thách thức độc giả như Bên phía nhà Swan và Dưới bóng những cô gái đương hoa của Marcel Proust...

Từ năm 1961 đến nay, ông đã dịch trên 50 tác phẩm, xuất bản 5 tập thơ (trong đó 2 tập in chung) và cả tập tạp văn Chỉ tại con chích chòe. Tập này vừa được gia đình cho tái bản, có bổ sung thêm tư liệu.

Năm 2020, cuốn Kiều phiên bản tiếng Anh do dịch giả Dương Tường chuyển ngữ - Kiều in Dương Tường’s version được ông cho ra mắt độc giả sau nhiều năm soi kính lúp ngồi dịch.

Trước đó là một cuốn sách dịch rất thách thức với bất cứ dịch giả tài năng nào, Chết chịu của Céline.

Nhà thơ, dịch giả Dương Tường qua đời - Ảnh 6.

Chân dung Dương Tường của họa sĩ Nguyễn Quân

Ngoài ra ông còn viết văn, viết báo, viết phê bình nghệ thuật, từ mỹ thuật tới sân khấu.

Nhưng trên cả thơ, văn, phê bình, dịch thuật, điều khiến ông thấy "thích" nhất ở mình chính là "Tôi đã sống như một người tử tế. Tôi đã không ăn gian của Trời một ngày nào trong cái cuộc sống mà Trời đã cho tôi".

Và ông đã sống đúng như vậy cho tới hơi thở cuối cùng.

Dương Tường sinh năm 1932, quê gốc ở Nam Định, cha ông là một nhà thầu khoán ở Hà Nội. Ông học tiểu học tại Nam Định, học trung học tại Hà Nội tới khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông đi theo cách mạng.

Năm 1955, Dương Tường giải ngũ về Hà Nội sinh sống.

Từ năm 1955 đến giữa thập niên 1960, Dương Tường là phóng viên tổ văn xã (văn hóa xã hội) của Thông tấn xã Việt Nam.

Từ năm 1967, ông làm biên dịch tại Ủy ban Điều tra tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam.

Ông về hưu năm 1979, chuyên chú hơn cho văn chương, dịch thuật cho tới tận cuối đời.

Thiên Điểu

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 24.02.2023.

Bà Ngọc Phấn - vợ của nhà văn Ngụy Ngữ - xác nhận với Tuổi Trẻ Online, sau một thời gian lâm trọng bệnh, nhà văn - biên kịch Ngụy Ngữ đã qua đời vào sáng nay.

Nhà văn, nhà biên kịch Ngụy Ngữ - Ảnh: Gia đình cung cấp

Ông ra đi tại nhà riêng, lúc 10h18 ngày 9-9, hưởng thọ 76 tuổi. Linh cữu quàn tại chùa Xá Lợi, đường Bà Huyện Thanh Quan (TP.HCM), lễ viếng từ ngày 10-9, sau đó đưa đi hỏa táng tại Bình Hưng Hòa.

Nhà văn - biên kịch Ngụy Ngữ tên thật là Nguyễn Văn Ngữ, quê quán tại Thừa Thiên Huế. Trước năm 1975, ông là cây bút của tạp chí Văn.

Sau năm 1975, ông viết kịch bản phim, trong đó có nhiều phim đáng chú ý như Con thú tật nguyền, Cảnh sát hình sự, Ai xuôi vạn lý (với Nguyễn Thiên Đỉnh), Xóm nước đen (4 tập), Bụi hồng, Những năm tháng đã qua (5 tập), Cánh đồng bất tận, Mẹ con Đậu Đũa...

Bộ phim Gái nhảy do ông viết kịch bản, đạo diễn Lê Hoàng thực hiện, Hãng phim Giải Phóng sản xuất năm 2003 đã tạo nên tiếng vang lớn bởi đây là bộ phim mở đầu cho thời kỳ phim thương mại sau giai đoạn khủng hoảng của điện ảnh Việt Nam thập niên 1990.

Nhiều người trong nghề nhận xét, trong kịch bản phim biên kịch Ngụy Ngữ viết, các nhân vật luôn mang cá tính mạnh, có số phận nhiều thăng trầm, điển hình của một hoàn cảnh xã hội…

Ông Nguyễn Hồ, nguyên Phó Tổng Giám đốc Đài Truyền hình TP HCM, Giám đốc Hãng phim TFS bày tỏ trên trang cá nhân: “Vài năm qua Ngữ vắng bóng trong những cuộc họp mặt, không viết thêm gì, cũng không in gì, càng không giữ gì. Giải nghiệp chướng nhưng nghiệp lành Ngữ tạo ra không phải nhỏ. Riêng với tôi Ngữ có đến hàng chục phim và nhiều phim khó. Với báo, Ngụy Ngữ viết không ít, gom lại in sẽ thành sách hay... Ngữ có hàng trăm truyện ngắn, trong đó nhiều truyện được người đọc xếp hạng cao...”. 

Chia sẻ với Tuổi Trẻ Online, ông bùi ngùi xúc động nói: “Ngữ viết khỏe, có học thức, tri thức, uyên bác… là nhà văn khó kiếm. Ngụy Ngữ không viết những điều xoàng xỉnh mà viết những vấn đề lớn về con người, đất nước”.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-van-bien-kich-nguy-ngu-qua-doi-20220909151158993.htm

Nếu nói cái chết là một sự trở về vĩnh viễn của mỗi đời người thì nhà thơ Giang Nam đã chính thức "trở về" cùng Quê hương - tên một bài thơ nổi tiếng của ông - vào mùng 2 tết Quý Mão, nhằm ngày 23.1.2023, khép lại một cuộc đời 95 năm giông bão nhưng cũng đầy kiêu hãnh của ông.

Nhà thơ Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh năm 1928 tại TX.Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa, trong một gia đình nhà nho nghèo hiếu học và học cực kỳ xuất sắc.

Đam mê văn chương và rất "mê tín" nhà thơ Hồ Dzếnh cùng câu thơ nổi tiếng của thi sĩ này: "Tô Châu lớp lớp phủ kiều/Trăng đêm Dương tử mây chiều Giang Nam" nên Nguyễn Sung đã lấy tên Giang Nam làm bút danh cho mình đến tận cuối con đường văn học hơn 70 năm của ông.

Nhà thơ Giang Nam đã về với quê hương - ảnh 1

Nhà thơ Giang Nam (bên trái)

TRẦN ĐĂNG

Xong bậc tiểu học ở quê nhà, Giang Nam thi đỗ vào Trường Quốc học Quy Nhơn để theo học lấy bằng Thành chung nhưng ông không lọt vào top 3 nên không có học bổng mà phải nhờ sự cưu mang của hai người anh ruột là Nguyễn Lưu và Nguyễn Quang cũng đang học tại đây. Ông Nguyễn Lưu bấy giờ vừa nhận được học bổng của trường này lại đi dạy kèm được nên có đủ tiền để "bao" cho em. Nhưng chỉ một năm đầu, từ một học sinh không nằm vào top 3, Giang Nam đã vượt lên và luôn giữ ba vị trí đầu bảng cho đến khi ông lấy được bằng Thành chung (1945).

"Rồi cách mạng bùng lên/Rồi kháng chiến trường kỳ/Quê tôi đầy bóng giặc/Từ biệt mẹ tôi đi". Giang Nam đã lên đường như bao thanh niên cùng thế hệ để tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp.

Vốn là một thanh niên thông minh, lại giỏi tiếng Pháp và cũng tập tành viết lách, ông được tiếp nhận vào "văn phòng bộ" của Tỉnh ủy Khánh Hòa cho mãi đến năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Cũng trong thời gian này, ông gặp rồi yêu bà Phạm Thị Chiều - "cô du kích" trong bài thơ Quê hương nổi tiếng của ông, rồi lấy làm vợ.

Vì giỏi tiếng Pháp nên Giang Nam được cử vào phái đoàn đàm phán giữa chính phủ Việt Minh và Pháp trong cuộc bàn giao để tập kết giữa hai miền (tháng 7.1954). Theo phái đoàn của Việt Minh ra Quy Nhơn để xuống tàu tập kết nhưng Giang Nam bí mật lên Vân Canh - một huyện miền núi của tỉnh Bình Định để đi bộ ngược trở về Nha Trang tham gia "nằm vùng", hoạt động hợp pháp trong vai trò công nhân trong một xưởng gỗ nhưng rồi bị bại lộ ông phải rời Nha Trang để vào miền Nam, sau đó trở ra Khánh Hòa lên chiến khu tham gia kháng chiến chống Mỹ.

Giang Nam là nhà thơ vô cùng hiền lành và giản dị. Ông gần gũi với tất cả những ai muốn "đến" với ông, hoàn toàn không tỏ ra "khệnh khạng" như một vài nhà thơ có chút ít thành đạt cùng thời. Vây quanh Giang Nam còn là những giai thoại, mà giai thoại nào cũng thấm đẫm bi kịch mà ông là "nhân vật chính" của những bi kịch đó.

Giang Nam có lần kể về vợ mình và một trong những "bi kịch" mà cả hai cùng "gồng gánh" trong một thời gian dài kể từ sau ngày ông "đi tập kết" nhưng bí mật trở lại "nằm vùng". Đó là khi ông nhận hung tin rằng bà đã bị sát hại và ông viết bài thơ "khóc vợ" mang tên Quê hương nổi tiếng suốt hơn 60 năm qua.

20230123

Nhà thơ Giang Nam cùng vợ và con gái năm 1973 - TƯ LIỆU GIA ĐÌNH

Bà Phạm Thị Chiều tham gia kháng chiến chống Pháp từ lúc còn thiếu niên, giữ một chân liên lạc rồi đánh máy cho Văn phòng Tỉnh ủy Khánh Hòa lúc còn trên chiến khu. Thấy người đẹp xuất hiện trong cùng cơ quan, Giang Nam bắt đầu lân la làm quen rồi hằng ngày ông kiếm lý do để "nhờ" cô văn thư đánh máy các văn bản do ông "sáng tác" được núp dưới danh nghĩa là "công văn" của Tỉnh ủy.

Mối tình của họ cuối cùng rồi cũng có một cái kết đẹp bất chấp nghịch cảnh lúc bấy giờ là đang vào giai đoạn cuối của chiến tranh chống Pháp. Ông cưới bà trước khi đi "tập kết giả".

Khi Giang Nam bị lộ phải lánh vào miền Nam thì bà Chiều cũng bị chính quyền Sài Gòn bấy giờ bắt giam tại nhà tù Phú Lợi. Trong một chiều mưa buồn bã ở vùng chiến khu Hòn Dù của tỉnh Khánh Hòa, Giang Nam được cơ sở ở nội thành báo lên rằng vợ ông đã bị giết hại và mất xác. Hung tin ấy đã làm ông "chết nửa thân người" và bài thơ Quê hương cứ thế tuôn trào như một vết thương không băng bó được.

Bài thơ Quê hương lập tức được phổ biến rộng khắp vùng chiến khu và cả vùng giải phóng ở miền Nam lúc bấy giờ. Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu năm 1965 như một tưởng thưởng xứng đáng cho Giang Nam khi Quê hương được trao giải chính thức. "Tôi sẵn sàng đánh đổi mọi vinh quang để nhà tôi được sống. Và sự thực là, thông tin vợ tôi bị giặc sát hại chỉ là tin nhầm. Thế là tôi "được" cả hai" - nhà thơ đã có lần hài hước về câu chuyện này với tôi khi tôi tò mò hỏi ông về việc "khai tử" bà từ những năm 60 của thế kỷ trước. Còn bà thì luôn luôn tươi cười khi ai đó hỏi về "cô du kích" Phạm Thị Chiều bị "Giặc bắn em rồi quăng mất xác/Chỉ vì em là du kích em ơi": "Nhờ ổng "khai tử nhầm nên tôi mới thọ đến hôm nay đó"!

Bà đã bỏ ông để "về với quê hương" cách đây đúng 10 năm (2013), giờ đến lượt Giang Nam. Cả nhà thơ lẫn "cô du kích" đã tan vào hư vô nhưng mối tình đẹp của họ cùng bài thơ Quê hương thì bất tử với thời gian.

Xin cúi đầu vĩnh biệt ông!

QUÊ HƯƠNG

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:

"Ai bảo chăn trâu là khổ?"

Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

Những ngày trốn học

Đuổi bướm cầu ao

Mẹ bắt được...

Chưa đánh roi nào đã khóc!

Có cô bé nhà bên

Nhìn tôi cười khúc khích

Mắt đen tròn thương thương quá đi thôi...

***

Cách mạng bùng lên

Rồi kháng chiến trường kỳ

Quê tôi đầy bóng giặc

Từ biệt mẹ tôi đi

Cô bé nhà bên - (có ai ngờ!)

Cũng vào du kích

Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích

Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)

Giữa cuộc hành quân không nói được một lời

Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại...

Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...

***

Hoà bình tôi trở về đây

Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày

Lại gặp em

Thẹn thùng nép sau cánh cửa...

Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ

Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)

Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi

Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...

Hôm nay nhận được tin em

Không tin được dù đó là sự thật

Giặc bắn em rồi quăng mất xác

Chỉ vì em là du kích, em ơi!

Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm

Có những ngày trốn học bị đòn roi...

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi!

Nhà thơ Giang Nam đã nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt 1/2001. Từng tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam trong nhiều khóa, Tổng Biên tập Báo Văn nghệ của Hội Nhà văn VN; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa trước khi ông về hưu 1989.

Trần Đăng

Nguồn: Thanh niên, ngày 23.01.2023.

1. VẤN ĐỀ TIỂU SỬ VÀ VĂN BẢN TÁC PHẨM PHAN VĂN TRỊ

Nếu không kể bài Gia Định thất thủ phú do Trương Vĩnh Ký sưu tầm và phiên âm ra quốc ngữ giới thiệu đầu tiên trong sách Saigon d’autrefois năm 1882 ghi là khuyết danh, cho đến nay vẫn chưa xác quyết của Phan Văn Trị thì bài Con rận thơ cũng do Trương Vĩnh Ký sưu tầm giới thiệu trên Miscellanées số 2 (tháng 6 năm 1889) được coi là bài mở đầu cho việc phiên âm, giới thiệu thơ Phan Văn Trị bằng chữ quốc ngữ. Như vậy cho đến nay được hơn 130 năm. 130 năm, với những cố gắng của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu mà thơ văn của ông càng ngày càng đến gần với độc giả, tên tuổi của ông càng ngày càng sáng trên bầu trời văn học - văn hóa Việt Nam.

Có thể kể ở đây các nhà nghiên cứu có đóng góp quan trọng: Mở đầu là Trương Vĩnh Ký (như đã nói), tiếp đến là Lê Quang Chiểu, người anh em bên vợ của Cử Trị. Bằng công trình Quốc âm thi hiệp tuyển (1903) lần đầu tiên Lê Quang Chiểu đã giới thiệu thơ Phan Văn Trị với số lượng lớn gồm 28 bài cả có tên và không đề tên ông. Sau đó là các nghiên cứu, sưu tập của Huỳnh Tịnh Của (Quốc âm thi tập, 1907), Võ Sâm (Thi phú văn từ, 1912), Chương Dân - Lâm Tấn Phác trên Nam Phong tạp chí từ năm 1919 đến 1926, Nguyễn Văn Kinh (Nam âm, 1925), Trần Trung Viên (Văn đàn bảo giám, 1926), Vũ Ngọc Phan (Thi sĩ Trung Nam, 1943), Nhất Tâm (Phan Văn Trị (1830-1910), 1956), Thuần Phong - Đoàn Văn (Phan Văn Trị thi tập, 1959), Thái Bạch (Cuộc bút chiến giữa Phan Văn Trị - Tôn Thọ Tường, 1957), Ca Văn Thỉnh, Bảo Định Giang (Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, 1962). Hội thảo Nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị (1830 - 1910) kỷ niệm 155 ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông tổ chức từ ngày 31/10 đến 2/11/1985 tại Cần Thơ đánh dấu mốc quan trọng trong việc nghiên cứu, giới thiệu thơ văn Phan Văn Trị. Sau Hội thảo, một tập kỷ yếu hội thảo cùng hàng loạt các sách về Phan Văn Trị của các nhà nghiên cứu ra đời (Văn nghệ Cần Thơ, Nghĩ và viết về Phan Văn Trị ,1985; Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân, Phan Văn Trị - cuộc đời và tác phẩm, 1986; Ban chủ nhiệm hội thảo Phan Văn Trị, Tác phẩm Phan Văn Trị, 1987)

Nhiều vấn đề về tiểu sử và văn bản tác phẩm Phan Văn Trị đã được đặt ra và giải quyết như quê quán Phan Văn Trị, tiểu sử và các mối liên hệ của Phan Văn Trị ở làng Hanh Thông (Gia Định), Bình Thủy (Cần Thơ) v.v…

Theo tôi vẫn còn một số vấn đề cần đặt ra: quan trọng nhất là năm mất của Phan Văn Trị: có chắc chắn là 1910 như đa số các tài liệu viết về Phan Văn Trị không? Phan Văn Trị về Phong Điền, Cần Thơ năm nào? Ông kết hôn với bà Đinh Thị Thanh năm nào: thập niên 1870 khi ông 40, hay 1880 khi ông 50? Bà Thanh sinh thập niên 1840, 1850 hay 1860? Bà còn tái giá sau khi Phan Văn Trị mất. Nếu Phan Văn Trị mất 1910 thì lúc ấy bà cũng khoảng 50-70 tuổi, vậy có hợp không? Trong Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong xuất bản năm 1909 có đoạn viết về Phan Văn Trị thế này: “Cử Trị ăn ở lạ lùng/ Áo quần xịt xạt điên khùng quá tay/ Gặp Tường thời Trị mắng ngay/ Bởi vì tà tửu ít hay kiêng dè (..) Đều là tương trợ thành danh/ Đã lâu về cõi âm minh xa miền” (Nguyễn Liên Phong, 1909, tr.172). Năm 1909 mà Nguyễn Liêng Phong cho biết Cử Trị và Tôn Thọ Tường mất đã lâu, thế thì chắc chắn ông không thể mất 1910 như nhiều sách lâu nay ghi. Ông mất khi nào? Nguyễn Khuê-Cao Tự Thanh căn cứ vào bài Khóc đầu Hạng Võ tương truyền là Tôn Thọ Tường khóc Cử Trị để khẳng định Cử Trị mất trước 1875 (năm Tôn Thọ Tường chết), có thể là năm 1874. (Nguyễn Khuê-Cao Tự Thanh, 2011, tr.300).

Trong tiểu sử Phan Văn Trị vẫn có chỗ chưa rõ là tại sao ông không ra làm quan. Ông thi đậu Cử nhân năm 1849 cùng khoa với Nguyễn Thông (1827-1884), khi ấy Nguyễn Thông 22 tuổi, còn ông mới 19. Sau đó Nguyễn Thông làm quan nhiều nơi, lên đến chức Bố chánh Quảng Ngãi. Sao Cử Trị không làm quan? Nếu nói lý do ông chán quan trường thì không có căn cứ vì ông không chọn làm xử sĩ như Võ Trường Toản mà đi thi, tức là có ý định ra làm quan. Liệu có phải do lý lịch của ông “có vấn đề” như trong bài thơ điếu ông của tác giả khuyết danh có nói xa gần: “Một đời oan chịu đã mòn hơi/ Hà huống oan oan đến chín đời” (Nhất Tâm, 1956, tr.45) và ông cũng có nói về thân thế nhà mình trong bài Hột lúa: “Ông cha giúp nước đà ghe thuở/ Dòng giống nuôi dân biết mấy đời”? Vấn đề lý lịch ấy nếu có là vấn đề gì? Và gia thế mấy đời trước của ông thế nào? Chúng ta chưa biết rõ.

Về vấn đề văn bản, nếu Phan Văn Trị không mất vào năm 1910 mà trước đó, hoặc vì một lý do nào khác, thì không chắc là Phan Văn Trị đã được xem Quốc âm thi hiệp tuyển của Lê Quang Chiều xuất bản năm 1903. Và như vậy thì văn bản tác phẩm Phan Văn Trị mà chỉ dựa vào Lê Quang Chiểu để xác định đâu là tác phẩm của ông đâu là tồn nghi, tôi e rằng không thuyết phục. Vì vậy tôi cho rằng: để xác định văn bản tác phẩm của Phan Văn Trị cần lập ra lịch sử văn bản Phan Văn Trị qua các sưu tuyển chủ yếu trước 1945, rồi gạt ra những bài có tên tác giả khác, thì chúng ta sẽ có một danh mục các tác phẩm của Phan Văn Trị có thể tin được. Chúng tôi đã tiến hành công việc ấy, và thấy danh mục ấy gần giống với danh mục tác phẩm Phan Văn Trị trên Nam phong tạp chí do Chương Dân (1919), Lâm Tấn Phác sưu tập (1923-1926), hay các tập của Nhất Tâm (1956), Ca Văn Thỉnh, Bảo Định Giang (1962). Theo đó thì các tác phẩm của Phan Văn Trị gồm có 45 bài, chia thành 3 loại: Thơ vịnh vật, Thơ bút chiến (xướng họa), Thơ tức cảnh - cảm hoài: 

- Thơ vịnh vật (19 bài): Hột lúa, Con mèo, Cá thia thia (2 bài), Cối xay, Con cóc, Thú đi câu, Câu cá, Thợ may, Quán nước, Chùa hư, Cào cào, Con rận, Kiến hôi cắn kiến vàng, Con muỗi, Con cua, Ông táo, Cục cứt.

- Thơ bút chiến (13 bài): Họa Tự thuật (10 bài), Tôn Phu nhân quy Thục, Từ Thứ quy Tào, Hát bội.  

- Thơ tức cảnh, cảm hoài (13 bài): Mất Vĩnh Long, Cám cảnh An Giang, Cảm hoài (10 bài), Câu đối điếu Cai tổng Vĩnh, 

- Tồn nghi: Làm khi đỗ cử nhân, Cảm thuật, Đồn lính trong làng, Than thời sự (2 bài), Vịnh Kiều, Gia Định thất thủ phú. 

2. THƠ VỊNH VẬT CỦA PHAN VĂN TRỊ

Thơ vịnh vật của Phan Văn Trị là một mảng quan trọng trong thơ ông, nó chiếm đến 19 bài. Trong 19 bài ấy lại có thể chia ra thành 3 loại đề tài:

(1) Thơ vịnh vật thể hiện khẩu khí quân tử;

(2)  Thơ vịnh cảnh vật, tả sự để thể hiện chí của tác giả;

(3) Thơ phúng thích: châm biếm, đả kích bọn sâu dân mọt nước, bọn phản bội hại dân.

Trong số đó có nhiều bài thơ được hiểu khá khác nhau, có khi đối lập nhau vì tính chất mờ về nghĩa, tính đa nghĩa của hình tượng văn học. Tuy nhiên nếu đọc kỹ ta vẫn có thể có cách hiểu đúng.

Bài Cá thia thia là ví dụ nổi bật. 

Bài 1

Đồng loại sao ngươi chẳng ngỡ ngàng,

Hay là một lứa phải nung gan?

Trương vi so đọ vài gang nước,

Đâu miệng hơn thua nửa tấc nhang.

Ráng sức giây lâu đà tróc vảy,

Nín hơi trót buổi lại phùng mang.

Ra tài cửa võ([1])chưa nên mặt,

Cắc cớ khen cho khéo nhộn nhàng.

Bài 2

Đằm thắm mưa xuân trổ mấy màu,

Vì tài vì sắc mới kình nhau.

Đua chen hai nước toan giành trước,

Lừng lẫy đua hơi chẳng chịu sau.

Mường tượng rồng đua nơi biển thẳm,

Mỉa mai cù dậy dưới sông sâu.

Thở hơi sóng dợn nhăn lòng nước,

Mắt thấy ai ai cũng cúi đầu.

Bài thơ có ý tứ khá mâu thuẫn giữa bài 1 và bài 2. Bài 1 hình ảnh con cá thia thia khá xấu (Đồng loại sao ngươi chẳng ngỡ ngàng, Đâu miệng hơn thua, Cắc cớ khen cho…), phải chăng Phan Văn Trị muốn đả kích bọn người hay tranh luận, đấu đá với bạn bè. Câu: “Ra tài cửa võ chưa nên mặt”, lấy tích cá chưa vượt vũ môn, chưa thi đỗ, phải chăng là ám chỉ Tôn Thọ Tường, và vì vậy việc đá cá thia thia chính là chỉ việc Tường tranh luận bút chiến dữ dội với sĩ phu Lục tỉnh để bảo vệ cho con đường đầu hàng phản bội cho mình?

Bài 2 hình ảnh con cá thia thia lại hiện lên rất đẹp. Cũng là cá đá, nhưng cá này thì: Đằm thắm mưa xuân trổ mấy màu, rồng đua, cù dậy…Với 2 câu cuối: “Thở hơi sóng dợn nhăn lòng nước/ Mắt thấy ai ai cũng cúi đầu.” thì chỉ có thể chỉ những người yêu nước. Vậy có thể hiểu cá thia thia bài 2 là chỉ những người bút chiến, tranh luận với Tường như Phan Văn Trị và những người bạn của ông. Chúng ta không nên hiểu Cá thia thia là một bài để rồi yêu cầu bài thơ phải “nhất khí quán hạ”, mà nên hiểu đây là hai bài, bài đầu ám chỉ phe đầu hàng giặc của Tôn Thọ Tường, bài 2 ẩn dụ phe những người yêu nước như Phan Văn Trị, hai phe đấu tranh với nhau như hai con cá thia thia đang đá nhau.

Bài Con mèo cũng là bài hay về ngôn từ, thú vị về ý tứ, lại bị hiểu khá khác nhau: người thì nói bài này chê cười bọn quan lại (trực tiếp là Phan Thanh Giản), người thì nói ngược lại là khen. Chúng ta đọc kỹ xem thực tế thế nào:

Mấy tầng đài các sải chơn leo,

Nhảy lẹ chi cho bẵng([2]) giống mèo.

Chợt ngoảnh mặt hùm nhìn trực thị,

Chi cho lũ chuột dám vang reo.

Vuốt nanh sẵn có vàng khoe sắc,

Vằn vện đành không bụi đóng meo.

Trăm tuổi hồn dầu về chín suối,

Nhúm lông để lại giúp trò nghèo.

Bài thơ này được nói gắn với cuộc gặp gỡ giữa Phan Văn Trị và Phan Thanh Giản khoảng đầu những năm 1850. Khi ấy Phan Văn Trị hơn 20 tuổi, là cậu Cử trẻ tuổi tài cao, nhưng còn “bạch diện thư sinh”, còn Phan Thanh Giản (1796 - 1867) thì hàng cha chú, khoảng gần 60 tuổi, đang là Thượng thư bộ Lại, Cơ mật viện đại thần, Kinh lược sứ Nam Kỳ. Con mèo tất nhiên là ám chỉ quan Kinh lược: đúng là nhảy rất nhanh, từ con nhà bình dân ở góc biển Ba Tri hẻo lánh lên đến tột đỉnh quyền lực dành cho bề tôi dưới triều Nguyễn. Nhưng Phan Thanh Giản nổi tiếng là cương trực, nghĩa khí, thanh liêm, ông từng can gián vua, đàn hặc bao quan tham, hai câu thực của bài thơ nhắc đến chuyện đó: “Chợt ngoảnh mặt hùm nhìn trực thị/ Chi cho lũ chuột dám vang reo.” Lúc bấy giờ Pháp chưa chiếm Nam Kỳ, danh tiếng quan Phan còn sáng chói, nên vuốt nanh sắc bén mà lấp lánh như vàng, vằn vện rất đẹp, không một chút bụi bặm vấy bẩn (Vuốt nanh sẵn có vàng khoe sắc/ Vằn vện đành không bụi đóng meo). Mai mốt ông về nơi chín suối, thì cái uy quyền, cái ân đức của ông còn có thể giúp đám nho sĩ hậu sinh như nhúm lông mèo làm bút học trò vậy. Bài thơ hay ở chỗ nói rất trúng về Phan Thanh Giản, thái độ chung là ngợi ca chứ không hề mỉa mai châm biếm, nhưng rõ ràng có cái trào tiếu, cái đùa nghịch với quyền lực, chứ không thấy cái khiếp sợ, hèn yếu, bợ đỡ quyền lực - đúng như tính cách Phan Văn Trị.

Thơ vịnh vật quốc âm có từ thời Nguyễn Trãi với các bài vịnh tùng cúc trúc mai, thiên tuế, hoa sen, hoa mộc nói về chí người quân tử, đôi bài có tính chất răn dạy như vịnh hoa nhài. Đến Lê Thánh Tông, vị hoàng đế văn võ song toàn này thường vịnh những vật tầm thường như con cóc, bù nhìn rơm, cái chổi… nhưng thể hiện khẩu khí đế vương. Thơ vịnh vật của Nguyễn Công Trứ vừa có tính ngôn chí, vừa có tính châm biếm bọn quan lại bất tài, xiểm nịnh. Thơ vịnh vật của Hồ Xuân Hương thì chơi đùa giữa thanh và tục - đố tục giảng thanh, đố thanh giảng tục, độc đáo nhất trong thơ vịnh vật Việt Nam. Thơ vịnh vật của Phan Văn Trị khá phong phú đa dạng về chủ đề và giọng điệu: có những bài thể hiện khẩu khí giống như quân tử mà thực ra là “khẩu khí” của những người yêu nước, thương dân (Hột lúa, Cá thia thia (bài 2), Cối xay, Con cóc); có những bài vịnh cảnh vật để “ngôn chí” giúp nước như: Thú đi câu, Câu cá, Thợ may, Quán nước; và có khá nhiều bài phúng thích, châm biếm, đả kích bọn sâu dân mọt nước, bọn phản bội hại dân: Cào cào, Con rận, Kiến hôi cắn kiến vàng, Cá thia thia (bài 1), Con muỗi, Con cua, Ông táo, Cục cứt.

Phan Văn Trị xứng đáng là người đứng đầu trong những nhà thơ Nam Kỳ nửa cuối thế kỷ XIX về thể tài thơ vịnh vật. 

3. THƠ BÚT CHIẾN CỦA PHAN VĂN TRỊ

Phan Văn Trị được nhắc đến nhiều nhất là những bài thơ xướng họa có tính chất bút chiến. Đó là bài họa bài Tự thuật (10 bài), Tôn Phu nhân quy Thục, Từ Thứ quy Tào, Hát bội. Để thấy được diễn tiến của cuộc tranh luận, ta phải sắp xếp thứ tự như sau:

  1. Ban đầu Tôn Thọ Tường viết 10 bài Tự thuật để thanh minh và chứng minh là mình theo Pháp là đúng đắn. Phan Văn Trị họa lại 10 bài tranh luận. Bùi Hữu Nghĩa, Lê Quang Chiểu cũng tiếp sức.
  2. Núng thế, Tôn Thọ Tường hạ bớt mình xuống, ví mình như con gái phải theo chồng trong bài Tôn Phu nhân quy Thục. Phan Văn Trị họa lại, bóc trần sự trí trá của Tường.
  3. Tôn Thọ Tường hạ xuống nữa bằng bài Từ Thứ quy Tào, ý nói tôi chỉ như Từ Thứ vì cứu mẹ  mà phải theo Tào Tháo, đội ngũ kháng chiến còn bao người tài. Tôi hứa về Tào tôi sẽ ngậm miệng im tiếng, không nói năng gì giúp cho Tào cả. Phan Văn Trị họa lại bài này, nhắc lại lời hứa đó.
  4. Tôn Thọ Tường lùi thêm nữa, giờ tôi chỉ là đĩ già đi tu thôi (Lão kỹ quy y). Phan Văn Trị và những người yêu nước chiến thắng. Với tinh thần mã thượng, ông không thèm tranh luận nữa mà chỉ làm bài Hát bội bằng bộ vần Từ Thứ rất khó để cười mỉa Tường và phe nhóm thôi.

Trước hết là cuộc tranh luận đầu tiên qua 10 bài Tự thuật của Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị.

Tôn Thọ Tường giao đấu bằng tài văn chương của mình: ông ta làm một mạch 10 bài thơ Nôm liên hoàn thủ vĩ ngâm. Thơ Nôm họ Tôn nổi danh Bạch Mai thi xã, khiến ông được truyền tụng như hạng thượng thừa về chữ nghĩa. Lập luận của Tôn Thọ Tường có thể quy lại mấy vấn đề sau:

Bài 1: Đánh giá sức mạnh của người Pháp: người Pháp có vũ khí hiện đại, có sức mạnh hùm beo không thể đánh bại. Suy nghĩ tình cảm của Tường: thương dân thương nước, lo lắng cho vận mệnh đất nước, nên khuyên những người kháng chiến buông vũ khí. 

Bài 2: Tình cảnh của Tường: Bị mang tiếng xấu, thực ra thì lòng hướng thiện. Thời gian không còn nhiều, nhận chức tước của Pháp là để lo cho nước. Cho nên thái độ của Tường là kệ thây những lời chửi rủa của sĩ dân kháng chiến.

Bài 3: Tình cảnh đất nước sụp đổ hết cả rồi, đạo lý tan vỡ hết. Mình vẫn gánh vác cương thường đạo nghĩa, nên ai kêu mình là gì mình cũng chịu - “Thân còn chẳng kể kể chi danh”.

Bài 4: Lúc đất nước tan hoang thế này thì làm gì còn danh phận. Thực ra mình đang có những kế hoạch “bắt hùm”, “đánh cá” lớn; còn các phong trào kháng chiến bị đàn áp rồi, dân như gà con mất mẹ.

Bài 5, 6, 7, 8: Tường thương những người anh hùng thất bại như cha con Phan Thanh Giản, không muốn đi theo con đường ấy. Tường phải tính trước, lo cho thân mình. Lòng trong sạch của mình chỉ mình mình biết mà thôi. 

Bài 9: Thời thế thay đổi, nước mất, tân trào lập nên. Chống Pháp chỉ hoài công, nên thời thế đưa đẩy cho Tường làm việc cho “tân trào”, Tường chấp nhận “nhắm mắt đưa chân lỗi đạo hằng”.

Bài 10: Tường thanh minh tôi vẫn giữ được lòng thảo ngay (trung hiếu). Thời cuộc không cứu vãn được, tương lai, họa phúc không biết đâu mà tính. Tường chỉ mong làm sao cho đến ngày “giang sơn ba tỉnh vẫn còn đây.”

Phan Văn Trị đã trả lời đanh thép, lý luận sắc bén, bút lực dồi dào, chữ nghĩa tuôn chảy từ sự uất nghẹn đã lâu, như sông như suối không gì ngăn được. 

Về mặt đánh giá tình hình: Pháp mạnh không ai có thể thắng được, đương đầu với Pháp thì chỉ thất bại, với Pháp có thể đánh bại - lập luận của Tường và Phan chưa hẳn ai đã hơn ai, nhưng về thái độ sống, việc chọn đường của kẻ sĩ thì chân lý thuộc về Phan Văn Trị. Họ Phan đứng ở đỉnh cao vòi vòi của đạo lý làm người, đạo lý dân tộc để phê phán, mắng nhiếc Tường nặng nề, khiến Tường vuốt mặt không kịp:

- Bảo Tường là “mang nhơ”, “nói vơ”, là “đứa ngu”: “Người trí mảng lo danh chẳng chói/ Đứa ngu luống sợ tuổi không chờ” (bài 2)

- Nói Tường là: “Đứa dại trót đời già cũng dại.” (bài 8)

- Gọi Tường là “thằng hoang”, đạp đổ danh dự tổ tiên, là “con buôn”: “Thân danh chẳng kể thiệt thằng hoang”, “Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa/ Một nhà danh giáo xáo tan hoang”, “Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc”…(bài 4).

Tường phải lùi chính là vì con đường của mình sai, thái độ của mình hèn và tham, mà lý luận quanh co, dối trá không thể nào biện minh được.

Sau cuộc tranh luận đầu, Tôn Thọ Tường thấy mình kém thế, ông ta bèn rút vào hình dáng của người đàn bà là Tôn Phu nhân trong truyện Tam quốc. Truyện kể rằng Tôn Quyền vua nước Đông Ngô nghe theo kế Chu Công Cẩn: giả vờ gả em gái là Tôn Phu nhân cho cho Lưu Bị để mời Lưu sang rồi tìm cách mà giết đi. Khổng Minh đoán được ý định đã tương kế tựu kế: nói Lưu Bị cứ sang, trên đường đi thì phao tin cho mọi người biết là sẽ sang Ngô cưới vợ theo lời hứa của Tôn Quyền.Chuyện vỡ lở, Ngô Quốc thái, mẹ của Tôn Quyền không cho con mình giết Lưu Bị vì sợ mang tiếng bất nghĩa, và bắt phải gả Tôn phu nhân cho. Nhờ thế mà có cuộc hôn nhân này.

Tôn Thọ Tường mượn tích này để nói tình cảnh của mình cũng giống như Tôn Phu nhân, phải theo “Tân trào” vì đó là đạo lý phải theo:

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,

Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông.

Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc,

Về Hán trau tria mảnh má hồng.

Son phấn thà cam dày gió bụi,

Đá vàng chi để thẹn non sông?

Ai về nhắn với Châu Công Cẩn,

Thà mất lòng anh đặng bụng chồng.

Lý luận của Tường rất khó bắt bẻ, vì nhà nho ai cũng thừa nhận Tôn phu nhân hành xử hợp đạo, và như thế thì Tường cũng đúng sao? Phan Văn Trị đã họa lại:

Cài trâm sửa trấp([3]) vẹn câu tòng,

Mặt giã trời chiều biệt cõi đông.

Ngút toả vầng Ngô in sắc trắng,

Duyên về đất Thục đượm màu hồng.

Hai vai tơ tóc bền trời đất,

Một gánh cang thường nặng núi sông.

Anh hỡi Tôn Quyền, anh có biết,

Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng!

Phan Văn Trị bắt đầu bài họa không tranh cãi với Tường, có vẻ cũng thuận theo ý Tường. Nhưng để ý kỹ thì thấy hình ảnh Tôn phu nhân trong hai bài không giống nhau. Trong câu Đề, Phu nhân của Tường thì hiên ngang, văn võ song toàn, lên đường làm rạng rỡ khí tiết gái Giang Đông; Phu nhân của Phan thì yếu đuối hơn, đàn bà hơn, khung cảnh lên đường thảm đạm hơn. Trong câu Thực, Phu nhân của Tường chia tay nước Ngô có vẻ bịn rịn, về Thục có vẻ miển cưỡng; nhưng Phu nhân trong bài họa thì chia tay nước cũ dứt khoát hơn, nước cũ “ngút tỏa vầng Ngô un sắc trắng” không còn có vẻ gì quyến luyến nữa, còn duyên mới “đượm màu hồng”, Phu nhân lòng khấp khởi hơn, mong mỏi tương lai tươi đẹp đang chờ mình. Vì vậy Phu nhân có vẻ nữ nhi thường tình hơn. Trong câu luận và câu Thực, Phu nhân của Tường có vẻ kiên cường, chấp nhận hy sinh để làm tròn đạo nghĩa. Trong bài họa, đến đây họ Phan không nói về Tôn phu nhân nữa, mà bàn chung về đạo nghĩa ở đời: làm người ai cũng phải gánh nặng trên vai những nghĩa vụ đạo đức hiếu trung, cương thường, trong đó đạo lý lớn nhất là “Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng!”. Đến đây câu kết thật bất ngờ, Tường bị lôi ra ánh sáng, anh chỉ là kẻ bất trung, anh không thể trốn trong áo váy của Tôn Phu nhân để lẩn tránh trách nhiệm của mình. Bài họa thật xuất sắc, lý luận rất thuyết phục. Người ta bấy giờ mới hiểu cái “thâm nho” của Cử Trị, khi nói: “duyên về đất Thục” là ám chỉ Tường theo Tây vì Ba Thục ở phía Tây, đồng thời dùng “cài trâm sửa trấp” trong câu Đề như thể Khổng Minh tặng khăn yếm đàn bà cho Tư Mã Ý.

Bài họa Tôn Phu nhân quy Thục của Phan Văn Trị là bài họa xuất sắc, thể hiện cái trí, cái tâm, cái đạo của Phan Văn Trị, bài thơ trở thành mẫu mực cho thơ xướng họa mà cách sách giáo khoa, sách dạy làm thơ hay dùng.

4. THƠ PHÚ TỨC CẢNH CỦA PHAN VĂN TRỊ

Thơ tức cảnh, cảm hoài có lẽ là nhóm thơ ca Phan Văn Trị làm vào cuối đời, sau hết so với 2 nhóm thơ trên. Bài Mất Vĩnh Long làm sau khi Vĩnh Long bị thất thủ lần thứ nhất vào tháng 3 năm 1862; Bài Cám cảnh An Giang làm sau khi 3 tỉnh miền Tây rơi vào tay Pháp, Phan Văn Trị đi lang thang khắp các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Hà Tiên. Bài Cảm hoài (10 bài) có thể cũng làm vào dịp đó, hoặc có thể muộn hơn nữa. Các bài thơ này không phải thuộc loại “ngôn chí”, “khẩu khí” mà là thơ tức cảnh, tả tình. Bài Mất Vĩnh Long tâm trạng thật đau xót. Bài thơ bắt đầu bằng tiếng kèn đồng của quân Pháp: tiếng kèn thúc quân, tiếng kèn thu quân. Tiếng kèn ấy không thật hãi hùng, chỉ là “tiếng năm ba” thôi, nhưng nó luôn luôn gợi những ký ức đau xót: trận Mỹ Tho (4/1861), trận Gia Định (2/1859), quân địch thắng dễ, quân ta toàn thua. Tiếng kèn gây tan nhà nát cửa, tiếng kèn thúc cho quan ta cắt đầu cầu hòa. Bao đắng cay, tủi nhục, cười ra nước mắt vì quân ta, quan ta:  

Tò le kèn thổi tiếng năm ba,

Nghe lọt vào tai, dạ xót xa.

Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói,

Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa.

Tan nhà cám nỗi câu li hận,

Cắt đất thương thay cuộc giảng hoà(4).

Gió bụi đòi(5) cơn xiêu ngã cỏ,

Ngậm cười hết nói nỗi quan ta.

Cuối đời Cử Trị giả điên hay gần như thế - nước mất nhà tan, “bờ cõi xưa đà chia đất khác” như câu thơ Đồ Chiểu. Sự thất bại trước tàu sắt tàu đồng của giặc Pháp là sự thất bại của đất nước ông, của nhân dân ông, của thế hệ trí thức như ông. Nước mất, biết bao giờ mới khôi phục lại được? Chỉ có lòng trung trinh sắt son với nước cho đến khi xương tan thịt nát cũng không phai mờ: 

Trung trinh dốc trọn đạo tôi dân,

Nạn khổ xưa nay biết mấy lần.

Ở Hớn đành lòng phò lợn Hớn,

Oán Tần ra sức đuổi hươu Tần([4]).

Nhìn Nam chạnh tủi nhành hoa ủ,

Ngó Bắc ngùi thương đám bạch vân.

Cái nợ tang bồng than thở phận,

Đành đem dập dã giữa phong trần.

(Cảm hoài, bài 2)

KẾT LUẬN

Phan Văn Trị là gương mặt trí thức nổi bật của nước ta vào những năm tháng thực dân Pháp tấn công nước ta lần thứ nhất. Sự nghiệp thơ ca của ông để lại không nhiều, chỉ non 50 bài thất ngôn bát cú, và có thể có một bài phú. Vậy thôi. Điều đặc biệt là tất cả đều viết bằng tiếng Việt, dù ông học giỏi, đậu Cử nhân từ rất sớm, nhưng không thấy ông có tập thơ chữ Hán nào. Có lẽ ông cũng tương tự như Nguyễn Đình Chiểu, sống giữa nhân dân, viết cho nhân dân, nên ông đã lựa chọ tiếng nói của dân tộc cho dễ lưu truyền, dễ chia sẻ. Phan Văn Trị đi sang thế giới bên kia hơn 100 năm rồi. Ông đã để lại cho hậu thế một bài học sống, sáng tác quý giá. Đó là lòng yêu nước vô bờ bến, là sự gắn bó sinh mệnh của mình đối với sự tồn vong của đất nước. Đó là thái độ sống dứt khoát: đất nước lâm nguy thì vẫn quyết không thỏa hiệp đầu hàng. Đó là chọn cách sống thanh cao, không quỵ lụy trước cường quyền. Bài học sáng tác của ông là dùng sáng tác của mình để phục vụ cuộc đấu tranh của nhân dân, bảo vệ đất nước, chống thái độ phản bội đầu hàng. Dù Phan Văn Trị và thế hệ ông thất bại, nhưng bài học sống, bài học sáng tác của ông vẫn còn là niềm tự hào cho mỗi chúng ta, vẫn thôi thúc chúng ta sống một cuộc sống xứng đáng hơn, đem tài sức của mình phụng sự công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh và trường tồn. 

 (*) Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ đề tài mã số C2019-18b-03

THƯ MỤC THAM KHẢO

Ban chủ nhiệm đề tài nghiên cứu về nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị. (1990). Kỷ yếu hội thảo về Nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị (1830 - 1910) nhân dịp kỷ niệm lần thứ 155 ngày sinh và 75 năm ngày mất, tổ chức vào ngày 31/10/1985 đến ngày 2/11/1985. Cần Thơ

Ban chủ nhiệm hội thảo khoa học về nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị. (1987). Tác phẩm Phan Văn Trị. NXB Tổng hợp Hậu Giang

Ca Văn Thỉnh, Bảo Định Giang (1962). Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. NXB.Văn hóa. Hà Nội 1962. NXB.Văn học tái bản 1977:

Cao Tự Thanh. (1999). Nghiên bút mười năm. NXB. Tổng hợp TP.HCM

Lâm Tấn Phác. (1926). Thơ văn cũ Nam Kỳ. Nam phong tạp chí từ 12/1923 đến tháng 5/1926 

Lê Quang Chiểu. (1903). Quốc âm thi hiệp tuyển. Sài Gòn. Claude & Cie Imprimieurs Éditeurs

Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân. (1986). Phan Văn Trị - cuộc đời và tác phẩm. NXB.TP.HCM; NXB. Trẻ TP.HCM . 2001

Nguyễn Khuê-Cao Tự Thanh. (2011). Văn học Hán Nôm ở Gia Định- Sài Gòn. NXB.Văn hóa-Văn nghệ. TP.HCM. 2011

Nguyễn Liên Phong. (1909). Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca. Cao Tự Thanh. Trương Ngọc Tường chỉnh lý, chú thích và giới thiệu, NXB.Văn hóa-Văn nghệ. TP.HCM. 2014

Nhất Tâm (1956). Phan Văn Trị (1830-1910), phụ Học Lạc-Nhiêu Tâm. Tủ sách “Những mảnh gương” Tân Việt xb. Sài Gòn

Nhiều tác giả. (1887). Tác phẩm Phan Văn Trị. NXB.Tổng hợp Hậu Giang. Hậu Giang

Thái Bạch. (1957). Cuộc bút chiến giữa Phan Văn Trị - Tôn Thọ Tường. NXB. Sống Mới. Sài Gòn

Trương Vĩnh Ký. (1889). Thông loại khóa trình/ Miscellanées. Số 2. tháng 6/1889

Văn nghệ Cần Thơ. (1985). Nghĩ và viết về Phan Văn Trị. NXB Tổng hợp Hậu Giang.

(Nguồn:  “Văn học và Ngôn ngữ trong thế giới đương đại - Bản sắc và Hội nhập”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp Quốc gia, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, NXB.Giáo dục, 2022, tr.137-146)


[1] Vũ môn: Dãy đá nằm chắn ngang thượng lưu sông Trường Giang (Tứ Xuyên, Trung Quốc). Tích “cá vượt vũ môn” nói rằng vào mùa nước lớn, cá đua nhau nhảy qua dãy đá ấy, con nào nhảy khỏi thì hóa rồng.

[2]  Bẵng: Bằng, biến âm cho hợp thanh luật.

[3] Trấp: có văn bản viết là “trắp”, nhìn chung các bản đều không giải thích được từ này, nhiều bản đã chọn giải pháp an toàn là dùng cách nói “Cài trâm sửa áo”, nhưng cách này rất gượng ép, vì áo thường đi với xiêm (áo xiêm), váy (áo váy/ y thường), khăn (áo khăn)… chứ không đi với trâm. Chúng tôi cho rằng “Trấp” chính là biến ấm từ chữ Trất 櫛 (cái lược cài đầu, chải đầu) mà ra (nguyên tắc chuyển đổi -p/-t). Vậy là: Cài trâm sửa lược gài đầu, nghĩa rất thông suốt. 

[4] Hươu Tần: Hán sử có tích: Nhà Tần đánh sổng mất con hươu, hào kiệt trong thiên hạ cùng đuổi bắt, ai là người tài cao nhanh chân thì bắt được. 

Nhà văn Trần Huy Quang sinh ngày 9.11.1943 tại xã Quỳnh Minh, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, đã qua đời 17 giờ 40 chiều 15.12.2022 vì bệnh ung thư, thọ 80 tuổi.

Nhà văn Trần Huy Quang tốt nghiệp khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trong chiến tranh từng là bộ đội pháo binh, phụ trách thanh niên xung phong rồi dạy văn hóa trong quân đội. Sau giải ngũ, ông là phóng viên báo Độc Lập, rồi về làm biên tập viên báo Văn Nghệ, nghỉ hưu năm 2008.

 

Nhà văn Trần Huy Quang

Ảnh tư liệu

Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học VN giai đoạn đổi mới. Các tác phẩm đã xuất bản: Chiếc áo màu lửa (tập truyện ngắn 1970); Sự trắc trở đã qua (truyện ngắn 1984); Ngày mai (tiểu thuyết 1985); Ngọn khói (tiểu thuyết 1986); Người làm chứng (tập truyện ký 1988); Nước mắt đỏ (tiểu thuyết 1989); Mối tình hoang dã (tiểu thuyết 1990); Chị dâu (tiểu thuyết 1994); Khúc hoàn lương (tiểu thuyết 1995); Những cô gái Đồng Lộc (tiểu thuyết 1998); Những chân trời xa thẳm (tiểu thuyết 2008). Nhà văn Trần Huy Quang được trao nhiều giải thưởng văn học và báo chí của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, báo Văn Nghệ, Đài Tiếng nói VN, Hội Nhà văn VN, Hội Nhà báo VN. Ông còn là một nhà báo phóng sự nổi tiếng với bút ký Câu chuyện về ông vua lốp đoạt giải nhất cuộc thi báo Văn Nghệ và Đài Tiếng nói VN tổ chức năm 1986.

Nguồn: https://thanhnien.vn/nha-van-tran-huy-quang-qua-doi-post1532455.html

Cảm hứng này phát triển ngay sau Cách mạng tháng Tám, lớn mạnh qua những chính biến liên tiếp cùng sự đổi thay trong đời sống xã hội ở Nam Bộ những năm sau đó, đạt đến đỉnh cao trong các năm 1948, 1949 và nửa đầu năm 1950. Từ sau lệnh kiểm duyệt 81-SG ngày 19/5/1950, cảm hứng tranh đấu trong văn chương lắng xuống khi các phong trào đấu tranh chính trị, xã hội, văn nghệ bị ruồng bố nhiều hơn, sách báo bị tịch thu, nhà văn bị truy đuổi... Những nhà nghiên cứu văn học miền Nam như Thế Phong (1957), Nguyễn Văn Sâm (1969, 1972) đều xem chặng đường 1945 - 1950 là văn học tranh đấu hoặc văn học kháng chiến trong sự phân biệt với văn học sau 1950 đã không còn mang đặc trưng này nữa. Với ưu thế sản xuất được nhanh và nhiều hơn so với tiểu thuyết và có tính hư cấu thẩm mĩ nhiều hơn, truyện ngắn ở đô thị cũng đã có một mùa bội thu, ghi dấu những năm tháng rực rỡ vàng son của lịch sử và văn chương Nam Bộ.

Truyện ngắn tranh đấu ở đô thị có hai khuynh hướng nổi bật là ngợi ca lòng yêu nước chống ngoại xâm và phản ánh đời sống cùng quẫn, khổ đau, thậm chí trụy lạc của những phận đời ở nông thôn, thành thị. Khuynh hướng thứ nhất thường được viết với cảm hứng lãng mạn, phản ánh những cuộc kháng chiến chống Nhật, chống Pháp thời hiện đại hoặc mượn bối cảnh và nhân vật từ trong lịch sử xa xưa. Dù nói chuyện hiện thời hay chuyện quá khứ, các nhà văn đều miêu tả thế giới của những người đi tranh đấu đẹp đẽ đến phi thường. Có những nhà văn trẻ đã ghi dấu tên tuổi của mình trên văn đàn giai đoạn này với truyện ngắn như Vũ Anh Khanh với các tập truyện Ngũ Tử Tư, Đầm ô rô, Sông máu, Bên kia sông; Lý Văn Sâm với các tập Mây trôi về Bắc, Nắng bên kia làng, Ngoài mưa lạnh; Quốc Ấn với các tập S.O.S, Vỹ tuyến XI; Nguyễn Xuân Mỹ với tập Lấp con sông máu...

Vũ Anh Khanh có sở trường vẽ nên những bức tranh bi tráng về người anh hùng chí lớn thời xưa. Ông dùng lời văn rất đẹp để kể về Ngũ Tử Tư loay hoay giữa trung quân và vị dân (Ngũ Tử Tư), về tiếng đàn của người nghệ sĩ Chế Liễu xứ Chiêm Thành làm động lòng công chúa Huyền Trân tha hương (Cây đàn câm), về một ni cô âm thầm phò trợ quân Tây Sơn và bị binh sĩ nhà Lê hỏa thiêu trong Hồng Liên Tự (Phổ xiếu Hùng Lìn Xì)... Tương tự truyện Ngũ Tử Tư của Vũ Anh Khanh, truyện ngắn Người yêu nước của Nhị Nhân cũng khai thác mâu thuẫn giữa lòng yêu nước và lòng trung thành, với nhân vật Huyền Quang từ bỏ thân tộc nhà Trần, phù tá nhà Hồ vì nhận thấy chỉ có nhà Hồ mới đủ sức lãnh đạo cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Tuy không phải truyện nào cũng bàn trực tiếp đến vấn đề yêu nước nhưng hầu hết truyện ngắn lịch sử đều đặc tả vẻ đẹp của tráng chí, của tinh thần biết hi sinh tình riêng vì hạnh phúc của cộng đồng. Không khí của truyện lịch sử làm thăng hoa vẻ đẹp của thẩm mĩ cổ điển, khiến cái hoa mĩ càng trở nên sang trọng và giàu sức hút với cả độc giả tinh hoa lẫn độc giả bình dân Nam Bộ.

Những người anh hùng thời hiện đại tham gia kháng chiến chống Nhật, chống Pháp cũng được các nhà văn xây dựng bằng nét bút lãng mạn trong nhiều truyện ngắn. Lý Văn Sâm ưa chuộng lối khắc họa nhân vật người đi chiến đấu qua kí ức của người tản cư hoặc ở lại đô thành. Mây trôi về Bắc là tâm sự của một người về thành nghĩ về các đồng đội đã hi sinh ở mặt trận Tân Uyên. Anh nhớ lại giây phút hấp hối của một người nữ chiến sĩ khi chị ngẩng mặt nhìn trời, tưởng tượng những đám mây trên cao sắp sửa đưa hồn mình về đất Bắc xa xôi nơi có mẹ chị đang chờ đợi. Trọng trong Ngàn sau sông Dịch tha thiết lên đường chiến đấu nhưng vì hoàn cảnh phải cùng vợ con đi tản cư. Anh xem đời sống tản cư của mình thật tù túng, hèn mọn, đối lập với cuộc đời của bạn mình là Cương, người đã thực hiện được giấc mộng Kinh Kha mà năm xưa cả hai từng ấp ủ.

Ở khuynh hướng thứ hai, các nhà văn chủ yếu dùng bút pháp hiện thực để khắc họa đời sống. Đối lập với thế giới tranh đấu kháng chiến phần nhiều tồn tại trong tưởng tượng hoặc hồi ức, đời sống đô thị là thứ mà các nhà văn phải trải qua hằng ngày, nên họ có đủ dữ kiện, chi tiết để tạo nên những bức tranh văn chương sống động.

Kiểu nhân vật vì hoàn cảnh mà mắc kẹt lại trong đô thành với nợ áo cơm được khai thác rất nhiều như Nhi trong Cứu lấy quê hương vì mắc bệnh sốt rét mà phải rời bỏ làng Bình Nhâm kháng Pháp, Lâm trong Thèm một ngọn đèn và Lương trong Về thành đều vì gánh nặng thê nhi mà không thể theo đuổi đại nghiệp cứu quốc, Thân trong Lột vỏ là văn sĩ nghèo luôn dằn vặt giữa việc dùng ngòi bút cổ vũ kháng chiến hay bẻ cong nó để kiếm tiền nuôi gia đình. Vũ Anh Khanh khắc họa một Sài Gòn sa đọa, ngập chìm trong tệ nạn cờ bạc, mại dâm… trong các truyện ngắn Sài Gòn ơi!, Hối tắc, Ma Thiên Lãnh để làm bật lên hình ảnh vùng kháng chiến đầy những vẻ đẹp trong lành, thánh thiện. Đối lập với tác phẩm xây dựng kiểu nhân vật tự truyện giúp nhà văn bộc lộ những dằn vặt, khổ sở của mình trước việc chí hướng bị hoàn cảnh trói buộc là những tác phẩm với lối viết mỉa mai nhằm đả kích những thành phần thanh niên hèn nhát, hoặc dửng dưng trước thời cuộc. Lê Hương khái quát chân dung những kẻ ham sống sợ chết trong truyện ngắn Vui sướng gì hay đã hèn nhát lại sĩ diện trong Quả đấm thôi sơn. Trên báo Đời mới, Lê Văn Thử viết truyện ngắn cho chuyên mục “Những mẩu truyện thời đại”, kể về những con người bé nhỏ với số phận thăng trầm trong bức tranh vân cẩu đầy biến động như Lá rụng về cội, Mình tha tôi một phen, Đời con Rỉ, Ông còm-mi báo hiếu... đăng trên báo Đời mới năm 1949.

Các truyện ngắn tranh đấu với hai khuynh hướng kể trên nở rộ ở đô thị giai đoạn 1945 - 1954 vì sự thúc đẩy của hoàn cảnh lịch sử, sự thuận lợi của không gian đô thị và tính tiện dụng của thể loại truyện ngắn. Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến ở Nam Bộ thổi bùng lên lòng yêu nước, tác động mạnh mẽ cả nhà văn và công chúng, tạo nên nhu cầu viết và đọc các sáng tác văn chương hướng về chủ đề này. Nhờ ưu thế ngắn gọn về dung lượng, truyện ngắn rộ hơn thể loại tiểu thuyết viết về cùng chủ đề. Ngành xuất bản, với thuộc tính thương mại của nó, đã tận dụng đặc điểm ngắn gọn này của truyện ngắn, tạo ra cả một dòng sách văn chương tranh đấu dành riêng cho thiếu nhi, thiếu niên. Các nhà xuất bản uy tín thời này đều có các tủ sách như Bạn trẻ, Tuổi trẻ của Nhà xuất bản Nam Việt, Thần đồng của Nhà xuất bản Tân Việt Nam, Tuổi xanh của Nhà xuất bản Sống Chung... với các truyện ngắn như Khói lửa toàn dương, Mười năm nuốt hận của Hoàng Tấn; Thù nhà nợ nước, Cỏ mọn hoa hèn, Đất khách, Dòng nước đỏ sông Hồng của Lý Văn Sâm; Đứa con đất nước, Lửa cháy Hạnh Hoa Thôn của Thiên Hồng; Bữa ăn cuối cùng, Con đường nghĩa vụ của Trúc Khanh; Trong quân y viện, Xin đắp mặt tôi mảnh lụa hồng, Mẹ người tử tù, Săn vàng, Sống mạnh sống hùng của Việt Quang... Thiếu Lăng Quân là tác giả sở hữu nhiều truyện ngắn kiểu này nhất, với Đường về Nam Bộ, Người hiệp sĩ, Anh là trai nước Nam, Ai lên phố Lạng, Ba chiếc dù ở Việt Bắc, Chàng đi theo nước thiếp theo chàng, Đêm nay ngủ nhà ai… Về mặt nội dung, các truyện này chủ yếu kể những câu chuyện thiếu nhi anh dũng, những chàng trai cô gái ra đi vì nghĩa lớn, những số phận chìm nổi trong thời chiến tranh loạn lạc nhưng cũng từ đó nuôi dưỡng lòng căm thù giặc ngoại xâm. Về mặt hình thức, các quyển truyện này khá mỏng, truyện dài nhất cũng chỉ khoảng 30 trang, có truyện chỉ 10 trang, lối viết đơn giản, chú trọng sự việc hơn là phân tích tâm lí nhân vật.

Sang thập niên 50, cảm hứng tranh đấu lắng xuống. Khuynh hướng phản ánh hiện thực tuy vẫn duy trì nhưng phai dần cái quyết liệt của tinh thần cải cách và khát vọng đổi thay, mà thay vào đó gợi lên cảm giác bế tắc đầy đau xót.

Tình trạng khủng hoảng kinh tế dẫn đến tình cảnh bấp bênh của nhiều người, đặc biệt là tầng lớp bình dân ở cả thành thị lẫn nông thôn. Những tác phẩm kể về tầng lớp dưới đáy thường đi kèm với việc khắc họa mâu thuẫn giữa người chủ và người làm công, giữa kẻ giàu và người nghèo. Cảnh đói nghèo không lối thoát được khắc họa qua số phận của đôi vợ chồng vớt củi trên sông đối mặt với hiểm nguy hằng đêm lại còn bị thầy đội ép giá trong Xuồng củi của Thiên Tứ; qua cảnh một gia đình túng quẫn gồm bà mẹ già chăm con gái bệnh tật, cô con gái khác của bà đi khách hằng đêm kiếm tiền, và đứa cháu nhỏ lẻn ra ngoài trộm cắp trong Mái lá của Lưu Nghi; qua câu chuyện của hai anh em phiêu bạt chốn thị thành, người anh trí thức không tìm nổi việc làm đành phải đi khuân vác, đứa em trai chưa thành niên phải đi ở đợ, anh em lâu lâu mới có thể tranh thủ gặp nhau trong truyện Đồng tiền của Trần Phương Như…

Một số nhà văn sử dụng giọng giễu nhại để kể về cảnh sống bệ rạc của người dân thành thị. Trong Cúng cô hồn của Vĩnh Lộc, cặp-rằng Quyệt hay ức hiếp anh em công nhân bỗng lăn ra chết ngay dịp cúng cô hồn, chẳng biết có phải do bị anh em nguyền rủa là cô hồn mà hắn trở thành “cô hồn” thật hay không. Nhóm thanh niên vô công rồi nghề trong Đơ-dèm cúp-bắp của Vũ Xuân Tự chỉ mong được chính quyền bắt đi lính, không phải vì muốn cống hiến cho quốc gia, mà để trốn nợ hút xách, bài bạc đang bủa vây tứ phía.

Trong cuộc sống nặng nề của những người nghèo khổ ở thành thị, số phận người phụ nữ được các nhà văn dành cho khá nhiều trang viết. Những cô gái trong sáng bị cuốn vào đời sống trụy lạc vì nghèo đói, vì ngây thơ, vì bị phụ bạc, hoặc thậm chí vì đua đòi là những nhân vật trung tâm trong các truyện ngắn Bóng tối của Văn Hòa, Mưa xuân của Vĩnh Lộc, Tình trong gió cát của Trần Phương Như, Chân lý của Dương Tử Giang...

Không chỉ hướng ngoại để phản ánh trực tiếp đời sống và tâm lí xã hội đương thời, truyện ngắn trong chặng 1950 - 1954 còn quay vào thế giới tâm hồn với những cảm xúc tinh tế hoặc suy tư triết lí muôn thuở của con người. Đây là điểm ít thấy ở truyện ngắn trong chặng 1945 - 1950 khi phong trào tranh đấu dâng cao. Tính chính trị và hướng ngoại dần giảm xuống, các chủ đề và khuynh hướng viết ngày một đa dạng hơn là biểu hiện của việc văn học quay trở lại dần qũy đạo tự nhiên của nó. Tập truyện ngắn Nhốt gió của Bình Nguyên Lộc là một ví dụ tiêu biểu. Kinh (Bàn tay sáu ngón) có bàn tay sáu ngón, luôn cảm thấy khó chịu vì bị soi mói. Anh ngẫm nghĩ về sự kì quặc, bảo thủ của đầu óc con người khi họ luôn kì thị những thứ khác thường. Nghe bạn khuyên, anh đi phẫu thuật cắt bỏ ngón tay thừa để được sống như người bình thường, và sau đó lại thất vọng vì chính sự bình thường ấy. Trong lúc tình cờ nhìn một đứa trẻ chơi trò nhốt gió, Tạo (Nhốt gió) nhận ra rằng sự cô độc của con người là một định mệnh. Anh nghiệm ra mỗi cá nhân, mỗi thế hệ đều có lối đi riêng của mình.

Không chỉ ở sách in mà trên mặt báo cũng có nhiều truyện ngắn theo khuynh hướng triết lí và trữ tình như vậy. Nổi bật trong nhóm triết lí có Truyện con thằn lằn chọn nghiệp (Mới, 1953) của Hồ Hữu Tường. Thông qua việc sử dụng các hình ảnh Phật giáo, Hồ Hữu Tường gửi gắm tư tưởng canh tân xã hội bằng con đường văn trị, tức là dùng văn hóa để giáo dục và chuyển hóa con người và xã hội thay vì can thiệp bằng chính trị, vốn chỉ có tác động một thời, một giai đoạn, và đôi khi gây ra những hiểu lầm cùng hệ quả kèm theo. Trong hoàn cảnh Nam Bộ bấy giờ, tiếng nói gián tiếp xem nhẹ bạo lực cách mạng và nỗ lực cải cách chính trị mà Hồ Hữu Tường cất lên có phần ngược dòng và lạc lõng, từng bị phê phán không ít. Tuy nhiên, xét ở góc độ phổ quát, cũng khó có thể phủ nhận giá trị của con đường cải cách xã hội bằng văn hóa mà Hồ Hữu Tường đề xuất.

Khuynh hướng truyện ngắn trữ tình có các truyện Chồng con tôi của Duy Lam; Chân lý, Thiên nhiên trả nũa của Dương Tử Giang; Sầu riêng của Linh Bảo; Quằn quại của Thanh Nam; Gió bấc, Bãi cỏ, Có một người đi tự tử của Thụy An Hoàng Dân; Một đêm xa nhà của Nguyễn Thị Vinh… Nhiều truyện đặc sắc trong khuynh hướng này là của các tác giả gốc Bắc như Duy Lam, Linh Bảo, Thanh Nam, Thụy An Hoàng Dân, Nguyễn Thị Vinh… Phân tích tâm lí và suy tư triết lí vốn là sở thích và sở trường của người viết và người đọc miền Bắc, trái ngược với miền Nam ưa chuộng các truyện thiên về tình tiết và hành động. Các truyện này thường lấy trọng tâm là tâm trạng của nhân vật thay vì sự kiện, nhiều truyện gợi nhớ đến văn chương của Thạch Lam trước kia, khi các tác giả chạm bút vào những rung cảm hết sức mong manh và tế vi của con người. Trong truyện ngắn Sầu riêng, Linh Bảo miêu tả tâm trạng khi yêu nhiều hơn là kể chuyện tình yêu. Hoài và Thạch đều có cảm tình với nhau, nhưng cả hai đều kiềm chế vì cảm thấy tình cảm giữa họ không có tương lai. Hoài rất nhớ Thạch nhưng không liên lạc với anh. Truyện miêu tả mọi sắc thái nỗi nhớ của Hoài, và cả cách cô tự vượt qua nỗi nhớ. Cô học cách yêu chỉ để mà yêu thôi. Nỗi sầu trong lòng cô như lớp bùn đã lắng, mặt nước trong veo tinh sạch nhưng không nên chạm vào vì sẽ làm lớp bùn dưới đáy lại sôi lên.

Trong chặng 1950 - 1954, văn xuôi đô thị phục hồi khuynh hướng giải trí vốn rất phổ biến ở Sài Gòn trước 1945, với các loại truyện diễm tình, truyện trinh thám, kiếm hiệp. Tuy nhiên, trong mảng giải trí này truyện ngắn có vẻ không thịnh vượng bằng tiểu thuyết, vì có lẽ độ dài và đặc tính đăng theo kì của tiểu thuyết phù hợp hơn để kể những câu chuyện có vận động lắt léo, kích thích sự mong đợi của độc giả. Truyện ngắn diễm tình thường chỉ mô tả những khoảnh khắc mơ mộng, kể những chuyện biệt li đau xót khá sáo mòn như Bên song cửa, Người viễn khách, Con đò cũ của Dương Hà; Người khách lạ năm xưa của Văn Hòa; Tình trong gió cát của Trần Phương Như... Thiết Can thường xuyên xuất hiện với các truyện ngắn trinh thám trên báo Đời mới như Bàn tay sáu ngón, Con mèo trinh thám, Máy hát giết người… Chỉ trong khuôn khổ truyện ngắn đăng báo, các vụ án thường rất đơn giản, vắn tắt nên không hấp dẫn bằng các tập truyện dài, tiểu thuyết trinh thám của Lê Đằng Phương xuất hiện cùng thời. Tương tự như vậy, các truyện kiếm hiệp cũng phát triển mạnh ở thể loại tiểu thuyết hơn là truyện ngắn. Trong khuynh hướng giải trí này đáng chú ý có tập truyện Cô lâu kỳ biên (1953) của Mộng Trần Lê Chơn Tâm. Tác phẩm kết cấu theo kiểu truyện khung chứa đựng những truyện ngắn độc lập kể những giai thoại tình người duyên ma éo le kì bí. Các truyện con được xâu chuỗi lại qua lời kể của một thanh niên thời hiện đại vì chán nản thời thế mà lang thang vô định, đi lạc vào một lầu cổ ở Hà Tiên, gặp hồn ma của hậu duệ Mạc Thiên Tích và được ông trao lại tập sách ghi chép những chuyện liêu trai mà ông thu thập được trong suốt thời gian mấy thế kỉ ở thế giới bên kia.

Tóm lại, truyện ngắn ở đô thị Nam Bộ giai đoạn 1945 - 1954 đậm đặc tinh thần tranh đấu trong chặng 1945 - 1950 với hai khuynh hướng ngợi ca tinh thần yêu nước chống ngoại xâm và phản ánh đời sống đô thị tù túng nhằm kích thích tráng chí lên đường, sau đó phát triển đa dạng hơn trong chặng 1950 - 1954 với các tác phẩm triết lí, trữ tình và giải trí bên cạnh khuynh hướng phản ánh hiện thực đời sống thành thị, nông thôn vẫn tiếp tục được duy trì.

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội, ngày 9.8.2022

Nhà thơ Thạch Quỳ - tác giả của bài thơ nổi tiếng 'Với con' và bài thơ 'Quạt cho bà ngủ' được đưa vào sách giáo khoa tiểu học - vừa qua đời sáng nay 10-12, hưởng thọ 81 tuổi.

Nhà thơ Thạch Quỳ - Ảnh: website của Hội Nhà văn Việt Nam

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và nhiều nhà văn, nhà thơ cùng quê Nghệ An đã chia sẻ tin buồn về sự ra đi của nhà thơ Thạch Quỳ.

Nói về đồng nghiệp vừa qua đời, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều nhận định Thạch Quỳ "là người tôn trọng thơ ca một cách đúng nghĩa nhất và là nhà thơ đúng nghĩa nhất, bởi ông hiểu bản chất thơ ca, bởi ông coi thơ ca là cuộc sống, chứ không phải là một danh hiệu, bởi những sáng tác thơ ca đầy phong cách của ông".

Nhà thơ Thạch Quỳ sinh ngày 8-8-1941, tên thật là Vương Đình Huấn, trú tại TP Vinh (Nghệ An).

Ông quê gốc làng Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Trước khi làm thơ, ông là giáo viên dạy toán tại các trường phổ thông cấp 3, trường sư phạm tỉnh Nghệ An.

Sau khi học Trường viết văn Nguyễn Du, ông là cán bộ biên tập tạp chí Sông Lam. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Văn học nghệ thuật Nghệ An.

Năm 1988, ông từng được Hội Nhà văn Việt Nam bầu chọn là 1 trong 10 nhà văn tiêu biểu được cử sang Liên Xô học tập theo lời mời của Hội Nhà văn Liên Xô.

Đến nay, nhà thơ Thạch Quỳ đã cho ra mắt 9 tập thơ: Sao và đất (in chung năm 1967); Tảng đá nhành cây (năm 1973); Nguồn gốc cơn mưa (thơ thiếu nhi, năm 1978); Con chim Tà Vặt (năm 1985); Cuối cùng vẫn một mình em (năm 1996); Đêm Giáng sinh (năm 2004); Tuyển thơ Thạch Quỳ (năm 2009); Bức tượng (năm 2010) và Tuyển tập thơ Thạch Quỳ (năm 2018).

Ông là tác giả bài thơ Với con nổi tiếng, được nhiều người yêu thích. Bài thơ được xuất bản lần đầu tiên trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, số đầu tháng 6-1979, báo Nhân Dân in lại cuối năm 1980.

Một bài thơ nổi tiếng khác của ông, bài Quạt cho bà ngủ, rất thân thuộc với nhiều thế hệ người Việt bởi nó được in trong sách giáo khoa tiểu học trong nhiều năm, được nhạc sĩ Minh Trang phổ nhạc thành bài hát cùng tên.

Hai bài thơ nổi tiếng nhất của nhà thơ Thạch Quỳ:

Với con

"Con ơi con thức dậy giữa ngày thường

Nghe chim hót đừng nghe mê mải quá

Qua đường đất đến con đường sỏi đá

Cha e con đến lớp muộn giờ.

Con ơi con nàng Bạch Tuyết trong mơ

Không thể nào yêu con thay mẹ được

Và vì thế, nếu khuy áo con bị đứt

Thì nói lên để mẹ khâu cho.

Và con ơi trên ấy ngân hà

Có thể rồi con sẽ lên đến được

Nhưng đêm nay thì con cần phải học

Bốn phép tính cộng trừ hay đọc một trang thơ.

Con ơi con, nếu thầy giáo dạy con

Có ánh sáng bảy màu trong ánh sáng

Thì con hỡi hãy khêu cho rạng

Ngọn bấc đèn con hãy vặn lên to.

Con ơi con, trái đất thì tròn

Mặt trăng sáng cũng tròn như đĩa mật

Tất cả đấy đều là sự thật

Nhưng cái bánh đa tròn, điều đó thật hơn!

Mẹ hát lời cây lúa để ru con

Cha cày đất để làm nên hạt gạo

Chú bộ đội ngồi trên mâm pháo

Bác công nhân quai búa, quạt lò.

Vì thế nên, lời cha dặn dò

Cũng chưa hẳn đã là điều đúng nhất

Cha mong con lớn lên chân thật

Yêu mọi người như cha đã yêu con".

Quạt cho bà ngủ

Ơi chích chòe ơi

Chim đừng hót nữa

Bà em ốm rồi

Lặng cho bà ngủ

Bàn tay bé nhỏ

Vẫy quạt thật đều

Ngấn nắng thiu thiu

Đậu trên tường trắng

Căn nhà đã vắng

Cốc chén lặng im

Đôi mắt lim dim

Ngủ ngon bà nhé

Hoa xoan, hoa khế

Chín lặng trong vườn

Ba mơ tay cháu

Quạt đầy hương thơm

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-tho-thach-quy-tac-gia-bai-tho-voi-con-quat-cho-ba-ngu-qua-doi-20221210115113246.htm

20220724 2Năm 2015 tại Hội thảo Quốc tế kỷ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn Du tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, TS.Nohira Munehiro đã trình bày bài viết rất công phu “Một giả thiết khác về hành trình đi sứ của Nguyễn Du năm 1813 - 1814”. Nhan đề bài viết rất khiêm tốn, nhưng ý nghĩa của nó rất lớn: Nó chứng minh rằng Nguyễn Du không hề đi qua Hàng Châu trên đường đi sứ từ Bắc Kinh về nước như các nhà nghiên cứu lão thành Việt Nam: Đào Duy Anh, Lê Thước, Trương Chính, Nguyễn Văn Hoàn…  hình dung. Và như vậy cụm bài viết về miếu Nhạc Phi trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du mà chú thích ở Hàng Châu đều sai cả, vì Nguyễn Du đến viếng miếu Nhạc Phi ở Thang Âm, Hà Nam trên đường đi sứ của mình vào tháng 8 năm Quý Dậu (tức tháng 9 năm 1813). Mọi chuyện tưởng đã rõ ràng, nhưng ông Phạm Trọng Chánh vẫn không tin vào chuyện ấy, tiếp tục trình bày trên mạng (Chim Việt cành Nam) thuyết huyễn tưởng là Nguyễn Du đi vân du Trung Quốc trước chuyến đi sứ 1813, trong đó từng cưỡi ngựa đến Hàng Châu. Thuyết ấy vô lý với ai hiểu lịch sử, văn hóa và văn bản Bắc hành tạp lục, nhưng vẫn được nhiều người không có chuyên môn sâu, không có thái độ nghiên cứu nghiêm túc tin vào và truyền bá. Cái di họa của “ngụy học thuật” thật nguy hiểm!

Năm 2019, nhân Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ IV do Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP.HCM tổ chức, PGS.TS. Nohira Munehiro tiếp tục trở lại vấn đề này bằng bài viết “Khảo sát lại lộ trình đi sứ của Nguyễn Du và thứ tự các thơ bài chữ Hán trong Bắc hành tạp lục 北行雑録” để chứng minh các bài trong Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du đã sắp xếp trật tự đúng như lộ trình đi sứ của Nguyễn Du.

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu dưới đây.

Đoàn Lê Giang, PGS.TS.

Chiều 8-12, ông Bùi Quang Vinh - chủ tịch Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật tỉnh An Giang - xác nhận nhà thơ Trịnh Bửu Hoài, nguyên chủ tịch hội, đã qua đời đột ngột nghi do đột quỵ, hưởng thọ 71 tuổi.

20221208

Nhà thơ Trịnh Bửu Hoài nổi tiếng ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã qua đời ở tuổi 71 - Ảnh: Hội VHNT cung cấp

"Anh Trịnh Bửu Hoài không bị bệnh gì nhiều nhưng lúc 10h sáng nay anh ấy bất ngờ bị nôn, có biểu hiện giống đột quỵ. Sau đó gia đình chở anh nhập viện thì anh ấy đã không qua khỏi", ông Vinh kể.

Nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã từ trần lúc 12h50 ngày 8-12 (nhằm ngày 15 tháng mười một âm lịch), hưởng thọ 71 tuổi. Lễ nhập quan vào lúc 17h ngày 8-12. Linh cữu quàn tại nhà số 30 đường số 1, chợ Châu Long, khóm Châu Long 1, phường Vĩnh Mỹ, TP Châu Đốc, tỉnh An Giang. 

Nhà thơ Trịnh Bửu Hoài bắt đầu sự nghiệp từ năm 1966. Đến nay, ông đã sở hữu khoảng 30 đầu sách các thể loại từ văn học, sử học, triết học cho đến văn hóa dân gian. 

Ông được xem là nhà thơ nhiều sách nhất miền Tây Nam Bộ và cũng là cây bút tiêu biểu của Đồng bằng sông Cửu Long. Vốn bản chất một tài tử Nam Bộ chân thành, hào hoa và phóng khoáng, Trịnh Bửu Hoài kết giao bạn bè mọi miền Tổ quốc.

Ngoài những cuốn sách viết về văn hóa dân gian vùng tứ giác Long Xuyên, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài từng có nhiều tiểu thuyết làm mưa làm gió trên thị trường. Những năm đất nước bắt đầu đổi mới, Trịnh Bửu Hoài nghĩ ngay đến một dòng sách trữ tình đáp ứng nhu cầu của độc giả đương thời.

Quá trình sáng tác, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã đạt giải nhất thơ giải Văn chương Thủ Khoa Nghĩa năm 1969, với bài thơ Thư cho anh; giải thưởng Văn học nghệ thuật An Giang 20 năm giải phóng năm 1995 với tiểu thuyết Người xa người và giải thưởng Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam năm 2000, với tập biên khảo Lịch sử miếu Bà Chúa Xứ núi Sam".

Sự ra đi đột ngột của ông ở tuổi 71, để lại nhiều tiếc thương cho đồng nghiệp và bạn bè gần xa.

Bửu Đấu

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 08.12.2022.

Nhà văn Võ Hồng sinh tại làng Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên – một ngôi làng trước chuyên làm đồ gốm, nằm bên bờ sông Phường Lụa trên đường từ cầu Lò Gốm dẫn đến nhà thờ Mằng Lăng và gành Đá Đĩa. Ngày sinh của ông theo giấy khai sinh là 05-5-1921, nhưng theo lời ông kể đúng là ngày 21-01-1923, tức ngày 5 tháng Chạp năm Nhâm Tuất.[1]

20 năm sau truyện ngắn đầu tay Mùa gặt (1939), in trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy với bút hiệu Ngân Sơn, tập truyện đầu tiên Hoài cố nhân (1959) của Võ Hồng được xuất bản. Từ ấy đến nay đã có gần 200 bài viết bàn về sự nghiệp và tác phẩm của ông. Hơn tám thập niên đi vào đời sống, văn chương Võ Hồng đã khắc họa chân dung tinh thần của tác giả như một nhà văn có vị trí vững chắc trên văn đàn nửa cuối thế kỷ XX. Nay là dịp thuận lợi để chúng ta đào sâu suy nghĩ tìm ra những phẩm chất văn chương đặc biệt ở Võ Hồng và góp phần làm một tổng kết về sự nghiệp của ông.

Thiết nghĩ, có nhiểu cách tiếp cận tác phẩm Võ Hồng và mỗi cách đều có ưu thế riêng và đem lại hiệu quả nhất định. Ở đây chúng tôi mạo muội soi chiếu sự nghiệp của ông từ ba góc độ như sau.

20220704

Nhà văn Võ Hồng

Võ Hồng giữa truyền thống và hiện đại

Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định Võ Hồng là nhà văn thuộc khuynh hướng tôn vinh truyền thống văn hóa của dân tộc. Điều này không có gì phải bàn cãi. Nhưng điều quan trọng là truyền thống mà Võ Hồng ngợi ca là truyền thống nào và truyền thồng đó có mâu thuẫn với hiện đại hay không, thậm chí có loại trừ tính hiện đại hay không? Sự quan tâm có phần nghiêng về truyền thống ấy có làm văn chương Võ Hồng lạc lõng trong thời đại ngày nay hay không?

Kể những câu chuyện về quê hương đất nước, Võ Hồng thường phả vào đó hơi thở của mạch sống cần lao và hương vị tình nghĩa nghìn năm của con người Việt Nam. Những trang văn viết về nông thôn của ông thấm đượm không khí văn hóa bình dân, quê kiểng. Tác giả và nhân vật của mình không xa lạ với đạo Nho, nhưng hiếm thấy trong tác phẩm Võ Hồng sự xiển dương truyền thống Khổng giáo, ngoài những câu chuyện về học chữ Nho và cách thi cử thời xưa qua hồi ức của một vài nhân vật.

Có lẽ truyền thống Phật giáo ảnh hưởng đến Võ Hồng nhiều hơn. Một mặt, nhân sinh quan Phật giáo chi phối đời sống những người dân quê miền Nam Trung bộ như một không khí văn hóa bao bọc xóm làng. Mặt khác, Võ Hồng là người có để tâm nghiên cứu đạo Phật và tiếp xúc thân tình với nhiều tu sĩ Phật giáo. Trong tùy bút Tiếng chuông triêu mộ, nhà văn kể về thời gian ông nhận dạy cho Viện Cao đẳng Phật học ở Nha Trang mỗi tuần một buổi vào chiều thứ sáu: “Mỗi tuần một lần như vậy, tôi được gần gũi với thiên nhiên và tâm hồn tôi được buông xả, nhẹ nhàng. Lắm lúc tôi quên mất hiện tại mà trở về hồi nào không hay, cái tâm trạng của một đứa nhỏ mười tuổi, mười hai tuổi, say mê màu xanh của lá, màu vàng của hoa và mùi thơm ngai ngái của nhựa cây. […] Tôi không là Phật tử. Tôi không biết tụng kinh, nhưng tôi lại xao xuyến dạt dào mỗi khi nghe tiếng kinh tiếng mõ. Những lúc đó tôi tự nhiên trút bỏ mọi ảo vọng ở đời mà cúi nhìn xuống thân phận yếu đuối nhỏ mọn của mình…”. Với giọng văn trầm ấm, những thiên truyện viết về ngôi chủa, về không gian sinh hoạt Phật sự hướng người đọc trở về với truyền thống tâm linh lâu đời của dân tộc, như một phần của đời sống tinh thần ở nông thôn Việt Nam.

Nhưng yếu tố truyền thống chủ yếu trong tác phẩm Võ Hồng có lẽ chính là những phong tục tập quán đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân quê. Hàng năm, bạn đọc miền Nam thường chờ đợi những truyện ngắn của ông đăng trên các số báo Xuân của tập san Văn, tạp chí Bách Khoa (Xuất hành năm mớiNgày xuân êm đềmMùa xuân nghe tiếng chim…). Ở đó người đọc gặp gỡ những em bé, cụ già, thanh niên nam nữ đi chợ Tết, chuẩn bị lễ cúng đầu năm, đi tảo mộ để hiệp thông với người thân đã khuất. Những sinh hoạt đó diễn ra nhẹ nhàng, có phần trầm lắng, không rộn ràng, ồn ã như cách đón xuân của người thành thị, nhưng có một sức thu hút của điều thiêng liêng với tâm tình con người.

Hình như về mặt này, tình cảm Võ Hồng có phần thiên vị về phía người nông dân hơn là người thị dân. Ông trân quý những lề thói xưa cũ, tuy không lên tiếng khuyến khích hay quảng bá. Ông chỉ miêu tả một hiện tượng, người đọc có thể không tán đồng, chỉ cần nhìn ngắm hiện tượng đó như một nét đặc biệt của đời sống. Chẳng hạn câu chuyện Năm Nhiều ưa thích cúng quảy, luôn thành kính chăm chút việc chăm lo ngày giỗ như là một ngày hội của tâm hồn mà anh không thể dứt bỏ (Thế giới của Năm Nhiều). Lễ cúng trường cũng nói lên một tập tục có ý nghĩa trong cách ứng xử của con người với học vấn và giáo dục thời trước, như lễ cúng ở gia đình trước khi cho con đến trường, đó là “thủ tục” khai tâm trước khi khai trí.

Nét truyền thống ở người nông dân mà Võ Hồng tỏ ra đồng cảm. sẻ chia và dùng ngòi bút bảo vệ rõ nhất là sự gắn bó với đất đai vĩnh cửu. Đọc Võ Hồng, có thể thấy những đức tính của người nông dân Việt Nam như cần cù, siêng năng, chịu thương chịu khó đều là hệ quả của một phẩm chất chủ đạo và đặc trưng nhất là “tình yêu đất”, như tên một truyện ngắn của ông. Tình yêu đất là tình cảm đã trở thành bổn phận, trách nhiệm và quyền lợi. Người nông dân đấu tranh cho sự tồn tại của mình là đấu tranh cho quyền được yêu đất, và mọi chế độ chính trị muốn đại diện cho nông dân thì phải đáp ứng và bảo vệ cái quyền đó của họ. Bà Năm Xự quyết không bỏ làng không phải vì muốn gắn bó với một thế lực chính trị nào mà chẳng qua vì không muốn từ bỏ mảnh đất Tổ tiên để lại (Bên đập Đồng Cháy). Ham tiếc từng cục đất, lão Túc đã chết vì rắn hổ mang cắn ngay trên miếng đất Gò Đình (Tình yêu đất). Nhà văn muốn ghi giữ những truyền thống tốt đẹp làm nên phong hóa của làng quê, như người nông dân giữ gìn mảnh đất hương hỏa của mình.

Tuy nhiên, thời đại thổi những cơn “gió cuốn” vào đời sống và người nghệ sĩ không thể lãnh đạm trước thực tại cũng như không thể né tránh trước những câu hỏi nhân sinh của thời hiện đại. Thành ra cái truyền thống mà Võ Hồng tôn vinh không phải là truyền thống đóng khung, xơ cứng và chết dí trong khuôn khổ. Điều đó một phần vì tác giả là người được đào tạo, rèn luyện trong môi trường Tây học, phần khác vì chính hoạt động của ông luôn kết nối với đời sống xã hội đang chuyển động để những trang văn hấp thụ hơi thở của thời hiện đại.

Trong thế giới văn xuôi của Võ Hồng, bên cạnh những nhân vật ẩn náu trong truyền thống, đôi khi lý tưởng hóa cuộc sống nông thôn, hờn dỗi với đô thị, xuất hiện những nhân vật đối diện với thời thế một cách điềm tĩnh, có cái nhìn hiện đại trước những biến đổi, thăng trầm của xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX. Từ những trang văn của ông hiện ra không chỉ khung cảnh làng quê với tiếng chim chèo bẻo hay con đường đầy phân trâu mà còn có bức tranh phố thị đang trăn trở tiếp thu lối sống tân tiến phương Tây. Nhà văn trân quý vẻ đẹp của những chiếc áo cánh may bằng vải thô nhuộm hột cau già, những giọt mồ hôi lăn trên đôi má rám nắng của người thôn nữ cũng như vẻ đẹp của cô gái thị thành duyên dáng đi qua phố xá với mùi hương dìu dịu của nước hoa tử linh lan. Nhà văn am hiểu các loại xe máy, ô tô, tủ lạnh chẳng kém các phương tiện làm nông như cái cày, cái bừa, cái nong, cái sàng, cái rựa. Tác phẩm ông đầy những chi tiết cho thấy tác giả tiếp nhận sâu sắc đời sống văn nghệ Âu Mỹ, từ âm nhạc cổ điển của Liszt đến tiểu thuyết hiện đại của Georghiu, tuy ông chưa bước chân ra khỏi đất nước một ngày nào.

Tính hiện đại của văn chương Võ Hồng thể hiện rõ nét qua cách nhìn và cách lý giải những chuyển biến của thời thế. Những tưởng nhà văn suốt ngày giam mình trong căn phòng, khoảnh sân sẽ thành người ngoại cuộc với xã hội. Trái lại, cảm quan nghệ sĩ giúp ngòi bút nhà văn thấu hiểu và nắm bắt những biến thái của đời sống. Tình trạng tham nhũng trong xã hội miền Nam làm biến chất những con người không đứng vững trước lằn ranh mong manh của sự tha hóa. Từ năm 1973, trong truyện ngắn Mong manh một thoáng, Võ Hồng đã tả một người phụ nữ đoan chính quyết từ bỏ mối tình sâu đậm với một viên chức chỉ vì chứng kiến anh ta lạnh lùng nhận lấy những đồng tiền xương máu của một bà cụ nghèo khó lo lót xin tha cho người con bị bắt oan. Câu chuyện có vẻ lý tưởng hóa, nhưng ngày nay đọc lại bỗng giật mình: xã hội bây giờ hình như đã quen sống với những viên chức như vậy và liệu còn bao nhiêu những người phụ nữ nhạy cảm như cô Bạch Huệ? Qua sự miêu tả của Võ Hồng (Những bí mật của anh Đỗ Cúc, Những nỗi khổ vụn vặtĐụng độ), sự sa sút của giáo dục với nạn văn mẫu, xin điểm, học thêm, bạo lực trường thi không phải bây giờ mới có, nhưng thời trước hình như chưa thật phổ biến, nhất là chưa được xem như chuyện bình thường như bây giờ. Là nhà giáo, Võ Hồng nhạy cảm với cái xấu và dự báo sức tàn phá của nó nếu tiếng nói của lương tri xã hội không còn đủ sức kiềm chế.

Trong những truyện ngắn nói trên, khi phản ánh những suy đồi của xã hội, Võ Hồng không cao giọng phê phán hay kết án ai, mà chỉ ôn tồn trình bày một thực trạng và cách ứng xử của người đời trước thực trạng đó. Ông giữ thái độ bình tĩnh: “Cuộc đời thường không tốt quá, cũng không xấu quá như ta tưởng”. Hình như cái thái độ có vẻ “chiết trung” này có thể là bài học về cách sống của thời hiện đại. Trong mọi biến thiên của thời cuộc, con người cố gắng giữ được sự bình an của tâm hồn: “Tâm an, thế giới an”. Trong truyện ngắn Rồi trái cây sẽ chín, tiếng còi tàu mỗi buổi tối gợi lên hình ảnh đoàn tụ của gia đình người lái tàu trong tưởng tượng của một cặp vợ chồng trẻ, đến một ngày kia phơi bày sự thật trần trụi về một gia đình xung đột, bất trắc, khiến đôi vợ chồng này đi đến quyết định dời nhà xa khỏi đường xe lửa để tránh ám ảnh của tiếng còi tàu mà giữ được cuộc sống thăng bằng và bình lặng.

Trong những ngày căng thẳng vì đại dịch Covid-19, đọc lại mấy truyện ngắn của Võ Hồng ta thấy văn chương ông từ nửa thế kỷ trước vẫn đồng hành với bạn đọc ngày nay. Với giọng văn hóm hỉnh, truyện Ảo giác màu xanh viết về tình cảnh “kiệm ước song hành” tác động đến đời sống của người công chức thời trước, loay hoay với đồng lương để duy trì sự tồn tại sao mà giống chúng ta ngày nay, khó khăn, vất vả nhưng rồi mọi sự đâu cũng vào đó trong một niềm hy vọng nhuốm màu ảo vọng. Trong truyện ngắn Hãy đến chậm hơn nữa, tác giả nói về một nhân vật chết trẻ vì mang bệnh nan y vào thời nhân loại chưa tìm ra thuốc chữa: “Anh đã hưởng được gì ở cuộc đời? Nghe một tiếng chim tu hú vào đầu mủa hè, ngửi một mùi thơm của hoa mù u trong buổi chiều, những con chuồn chuồn đảo lộn trên nền trời sau cơn mưa…, những niềm vui đó quá nhỏ so với nỗi khổ đè nặng của anh. Giá cứ thong thả, giá cứ đến chậm chậm một chút để kịp cho nhân loại dọn dẹp bớt những khổ não”. Câu văn đó làm ta nhớ đến hàng vạn nạn nhân xấu số của Covid-19 ở nước ta, đã tử vong vì mắc bệnh khi nhân loại chưa biết bao giờ mới có thể “dọn dẹp bớt những khổ não”.

Chất uy-mua của Võ Hồng luôn ẩn kín trong những trang văn một nụ cười thâm trầm mà lặng lẽ. Truyện ngắn Lá vẫn xanh là một dẫn chứng. Trong khi người cha bị ám ảnh bởi cái tin giả về ngày tận thế, lúc nào cũng lo nghĩ đến cái chết và tưởng rằng mọi người ai cũng đang chấn động như mình, thì mấy đứa con bình thản như không, chỉ bận tâm đến bài học, bài thi. Trong mùa dịch này, có bao nhiêu người mang tâm trạng của người cha trong truyện!

Nói đến mối quan hệ truyền thống - hiện đại trong văn chương Võ Hồng mà chỉ bàn phương diện nội dung là một thiếu sót. Chúng tôi xin dành nói kỹ hơn điều này trong mục thứ ba ở cuối bài.

Võ Hồng giữa chính trị và văn hóa

Võ Hồng trải qua tuổi thanh niên giữa thập niên 40, 50 thế kỷ trước vào giai đoạn lịch sử Việt Nam có nhiều biến động: chiến tranh thế giới lan đến Đông Dương, Nhật đảo chính Pháp, đưa quân vào nước ta rồi bị thua trận; Pháp quay lại, cuộc kháng chiến bùng nổ, chi phối số phận của mọi người dân Việt, trong đó có tầng lớp trí thức.

Là người nhạy cảm và ưu thời mẫn thế, Võ Hồng đã xoay trở trong cơn cuồng phong của lịch sử, để góp phần khiêm tốn của mình vào cuộc cứu nguy cho đất nước và giữ được lương tri của người trí thức. Ngoài những văn bản có tính chất hồi ức như Thơm ngát hương cauNhững ngày Lương Văn ChánhTay cầm viên phấn, trong đó nhà văn kể lại sinh hoạt thời kháng chiến mà ông tham gia ở Phú Yên; trong nhiều tác phẩm có yếu tố tự truyện khác, xuất hiện những nhân vật mang dấu vết cuộc đời của tác giả, qua chặng đường đi học ở Hà Nội dở dang phải về quê, miễn cưỡng hợp tác với chính quyền Trần Trọng Kim, rồi theo tiếng gọi lương tâm, dấn thân vào hoạt động kháng chiến từ Đà Lạt đến Phú Yên.

Hoa bươm bướm và Như cánh chim bay là hai cuốn tiểu thuyết giàu yếu tố chính trị - xã hội của Võ Hồng đều tập trung tái hiện những ngày gian khổ đương đầu với thế lực Nhật - Pháp từ 1945 đến 1954. Luân và Quỳ, hai nhân vật chính đi suốt hành trình đó, là hình tượng hư cấu từ chất liệu đời thực của tác giả và người bạn đời của mình. Họ đã gặp nhau, cảm thông và yêu thương nhau trong cảnh ngộ khó khăn, bối rối của kháng chiến và cùng đi với dân tộc một chặng đưởng bỏng lửa của lịch sử.  

Rời bỏ vị trí của người trí thức đứng bên dòng lịch sử, họ đã chứng kiến những chuyện ấu trĩ trong giai đoạn đầu kháng chiến: chống giặc ngoại xâm thì nâng cao cảnh giác đến mức nghi ngờ người mũi cao là Việt gian; chống giặc đói thì áp dụng phương pháp trồng “khoai lang bồ” chỉ ra dây mà không ra củ; chống giặc dốt thì đóng cổng giăng dây đố chữ, thậm chí đóng chuồng nhốt người mù chữ như nhốt bò. Trong đời riêng họ từng phải đối phó với những thủ đoạn nhỏ nhen của Đạo, người tìm cách ngăn cản mối tình của họ, thậm chí đẩy Luân vào chỗ nguy hiểm có thể dẫn đến cái chết để độc quyền chiếm hữu trái tim của Quỳ.

Vượt lên trên tất cả những điều đó là sự gặp gỡ của lương tri người trí thức với lòng yêu nước dung dị và sự hy sinh vô bờ của đồng bào mình. Những người nghèo không quản gian nan, nguy hiểm xông ra tuyến đầu. Những người giàu đứt ruột mà chấp nhận đập phá nhà cửa theo chính sách tiêu thổ kháng chiến. Những người giáo viên tâm huyết dạy bình dân học vụ kiên trì đến lớp với phương tiện nghèo nàn, học trò chểnh mảng. Sự trong sáng đó hóa giải những nghi ngại, băn khoăn và mở ra lòng tin về một chính trị của lương tri.

Dấn thân vào hoạt động xã hội, nhân vật Luân phân vân trước chọn lựa giữa hai lĩnh vực: công tác tuyên truyền hay bình dân học vụ. Anh nhận thấy ở lĩnh vực thứ nhất, “những lời tuyên bố cứ phải cải chính liên tục. Sự thật hôm nay không chắc sẽ còn là sự thật ngày mai. Những tờ báo còn nằm trơ đó, trơ trẽn với những bài nhận định chỉ sáng suốt có một thời gian ngắn”. Đó là chính trị nhất thời, chính trị của từng giai đoạn. Kinh nghiệm và sự nhạy cảm hướng anh đến với chính trị lâu bền, chính trị của lương tri, chính trị của văn hóa. Ý nghĩ của Luân vào giữa những năm 1940 vẫn còn có ý nghĩa thời sự với ngày nay: “Dân mà dốt thì đừng mong có chế độ dân chủ thật sự, có công bằng, có tiến bộ. Mà chỉ là một bầy cừu ngoan ngoãn. Hy vọng mười năm sau, 15 năm sau, 20 năm sau, nhờ đọc được sách mà họ khai phóng được trí óc, hấp thụ được tư tưởng, mở rộng được nhãn giới”. Tư tưởng Phan Châu Trinh ắt hẳn đã được hấp thụ trong con người “quân tử cỡ nhỏ” đó.

Khi Luân nhậm chức Ty trưởng Ty Bình dân học vụ, tuy vẫn là công tác văn hóa - giáo dục, dù muốn dù không, anh cũng phải đương đầu với guồng máy quyền lực và ứng xử với quy luật của chính trị chứ không phải quy luật của văn hóa thuần túy. Hệ quả là anh bị điều qua làm hiệu trưởng một trường trung học, có lẽ là công việc phù hợp nhất với tính cách “không làm hại ai, tốt với mọi người, không dám tàn bạo, không dám làm điều ác”, như lời một người bạn nhận xét về anh.

Sở Phối hợp Nghệ thuật của Bộ Thông tin Việt Nam Cộng Hòa lúc đầu ngăn trở việc xuất bản tiểu thuyết Như cánh chim bay, nhưng rồi họ cũng tháo gỡ việc này vì nhận ra rằng đây không phải là tác phẩm “thiên Cộng” mà là “thiên kháng chiến”, cuộc kháng chiến “đả thực bài phong” mà họ không thể phủ nhận. Hơn nữa, vấn đề ám ảnh của tác phẩm này là sự trăn trở chọn lựa của con người trước vận mệnh dân tộc chứ không phải là chọn con đường chính trị quyền lực nào,

Cũng như nhân vật Luân, ngoài đời tác giả Võ Hồng cũng chuyển hướng sang lĩnh vực giáo dục từ năm 1946 và bền bỉ với vinh nhục của nghề giáo suốt ba giai đoạn lịch sử, cho đến ngày về hưu năm 1982. Kinh nghiệm và sự lịch lãm ít nhiều giúp ông có tâm thế điềm tĩnh và cách ứng xử linh hoạt trong xã hội miền Nam sau 1954, lúc mà văn hóa cũng không khỏi bị chính trị chi phối, tuy có phần tinh vi, tế nhị hơn, để giữ được sự yên ổn trong lãnh địa yêu thích của mình là văn chương.

Nhận lời tham gia Hội đồng Văn hóa Giáo dục của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, Võ Hồng luôn giữ tư thế của một nhà trí thức độc lập. Theo lời kể của Mang Viên Long, mỗi lần đi họp ở Sài Gòn, ông đều nói với mọi người là đi thăm con. Có thể cắt nghĩa điều này bằng tính khiêm tốn, không thích phô trương của ông. Có thể ông nhận ra rằng đây chẳng qua là một thiết chế tư vấn không có thực quyền, một thứ cây kiểng trang trí. Cũng có thể ông không muốn gợi lên sự đố kỵ của một ai đó vốn tự hào mình là người phục vụ hết lòng cho chế độ lại không được mời ngồi vào chỗ của một nhà văn ngợi ca kháng chiến và phê phán ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa ngoại lai như ông. Tinh thần Phật giáo giúp Võ Hồng hiểu rằng khi mình tạo điều kiện cho lòng đố kỵ của một người nào đó trỗi dậy thì chính mình cũng có lỗi.

Xuất bản ở miền Nam những năm 1957-1975, tạp chí Bách Khoa - lúc đầu có tên Bách Khoa Thời Đại - là tờ báo thu hút sự cộng tác của những cây bút thuộc các khuynh hướng chính trị, xã hội, nghệ thuật khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Trong giới viết văn có ba ông họ Võ/ Vũ người miền Trung cùng gửi gắm tác phẩm trên mặt báo này: Vũ Hạnh (tên thật là Nguyễn Đức Dũng) gốc Quảng Nam, Võ Phiến (tên thật là Đoàn Thế Nhơn) gốc Bình Định và Võ Hồng gốc Phú Yên. Trong khi Vũ Hạnh là cây bút phản kháng có đẳng cấp, Võ Phiến là nhà văn tài năng có ý nguyện vun bồi cho chế độ, thì Võ Hồng đứng ở một vị trí trung hòa, không bị cột chặt vào một phe phái chính trị nào, tự tạo dựng cho mình một không gian của nhà văn hóa thuần thành. Ông chỉ trích ảnh hưởng của lối sống suy đồi nhưng không cộng tác với những tờ báo khuynh tả, đối lập, cũng không cắt đứt sợi dây tinh thần liên lạc với những biến động xã hội.

Quan hệ giữa Vũ Hạnh và Võ Hồng không có gì đặc biệt, còn giữa Võ Phiến và Võ Hồng thì hơi nghịch lý. Võ Hồng không tiếc lời khen ngợi văn chương Võ Phiến, hoan nghênh sách giáo khoa đưa tác phẩm Võ Phiến vào chương trình trung học. Có lần ông còn ra đề bài cho học sinh phân tích, bình luận tác phẩm Võ Phiến rồi chọn những bài hay nhất gửi tặng tác giả. Võ Hồng nói: “Tôi có cảm tưởng ông Võ Phiến lúc nào cũng trăn trở, nghe ngóng, đuổi bắt những cảm xúc, cảm nghĩ tế vi, thoáng qua. Thiên nhiên, xã hội, con người, tất cả được nhìn qua mắt ông, bị phân chất”.[2]

Trái lại, Võ Phiến thì chê bai Võ Hồng, chê cả quan niệm văn học lẫn nghệ thuật viết văn: “Võ Hồng quả được an thân. Chế độ này qua chế độ kia, thế cuộc bao phen đổi thay, ông vẫn an, vẫn nhàn, vẫn khỏe. Vẫn viết lách để răn đời. Răn toàn điều lành. Nguyễn Tuân từng nói đến những con người vô thưởng vô phạt, rất lành, lành như vị hoài sơn trong thang thuốc bắc. Là người như ông Võ chăng? Cái lành thường là cái nhạt. Có phải vì vậy mà ít được chú ý?”[3]. Mượn lời người khác để chê một bạn văn cùng hoàn cảnh cầm bút với mình là “vô thưởng vô phạt”, có lẽ trong trường văn trận bút không phải chỉ một mình Võ Phiến.

Tuy nhiên, sau cuộc đời lặng lẽ, trầm mặc trong cảnh ngộ cô đơn trải qua hai chế độ, có lẽ cũng không dễ đoán định con người Võ Hồng có thật sự an thân, an nhàn hay không; không dễ cắt nghĩa tại sao ông chấp nhận dừng chân một chỗ, trụ lại trong tín ngưỡng nghệ thuật của mình, giam mình trong thế giới đó để “hoài cố nhân”.

Từ 1975 cho đến cuối đời, Võ Hồng tiếp tục im lặng ẩn mình trong thế giới của riêng ông, nhưng ông vẫn lắng nghe, hiểu biết thời thế, chứ không chôn mình trong dĩ vãng. Ông nhẫn nại (chữ ông hay dùng) đọc lại những văn bản cũ, cẩn trọng đến độ tỉ mỉ sửa chữa những lỗi kỹ thuật, khi bằng bút chì, khi bằng bút mực. Đồng thời ông vẫn nuôi cảm hứng sáng tác về những đề tài thông thuộc, nhất là về môi trường giáo dục. Có lần trả lời tạp chí Cánh Én, một tờ báo có khuynh hướng cấp tiến xuất bản ở Nha Trang trong thời đầu Đổi Mới, Võ Hồng phàn nàn: “Văn chương tròn trịa lý tưởng! Không dám có những suy nghĩ gai góc, không cho có những cảm xúc mới lạ, độc đáo… mà chỉ được cảm xúc thông thường, bình thường, tầm thường, bằng phẳng, công thức, gần như đã vạch sẵn. Văn chương được bào chế như những món ăn quá lành mạnh, bởi đã được sát trùng quá kỹ lưỡng. […] Mà xã hội đòi hỏi người cầm bút phải nhìn thấy những vấn đề, phát biểu những ý nghĩ, nêu lên những băn khoăn để người đọc cùng cảm xúc, cùng suy nghĩ. Có vậy xã hội mới tiến lên được. Chớ nếu cứ tròn trịa như bánh xe thì xã hội cứ thế mà lăn tới an toàn, hà tất còn cần đến văn chương làm gì?”. Ông còn nói: “Hỏi: Văn chương có phản ảnh thực tại không thì chưa đủ. Phải hỏi thêm: Và phản ảnh thực tại mà có văn chương không? […]. Văn chương không phải là cái xe để chỉ chở tư tưởng chính trị, không phải chỉ được nuôi dưỡng bằng tư tưởng chính trị mà đủ”[4].

Vậy là người và văn Võ Hồng đâu có an thân và lạc thời, ông ẩn nhẫn mà không bàng quan với xã hội.

Võ Hồng giữa đạo đức và nghệ thuật

Ông Võ Bình Định trách ông Võ Phú Yên viết lách để răn đời không phải không có yếu tố hợp lý. Những lời rao giảng đạo đức trong văn chương thường gây dị ứng, thậm chí phản tác dụng. Võ Hồng có khi đưa ra những lời khuyên trực diện quá đậm làm giảm đi vẻ đẹp tự nhiên như hơi thở của cuộc đời. Trong một truyện ngắn cảm động như Đôi bạn vong niên, giá như tác giả lược bỏ gần ba trang kín những dòng chữ khuyên răn của ông cụ ghi trong sổ tay cô gái lên đường đi học xa thì nghệ thuật nhuần nhị hơn và bài học tình người sẽ được tiếp nhận thấm thía hơn. Phải chăng đó là sự méo mó nghề nghiệp của một nhà văn đã “sa lầy” vào nghề giáo suốt 30 năm?!

Thật ra Võ Hồng đâu có bao giờ phủ nhận rằng ông làm văn học cũng là làm giáo dục và ông đâu có đối lập nghệ thuật với đạo lý. Ngòi bút của ông không ngưng theo đuổi những câu chuyện mang lại sự “thanh lọc tâm hồn” cho độc giả thiếu nhi và ta chỉ có thể nhận ra giá trị của tác phẩm từ góc độ của tình thương yêu: Áo em cài hoa trắngTrận đòn hòa giảiVùng trời thơ ấuVẫy tay ngậm ngùiThương mái trường xưa. Thiết nghĩ, với tài năng hóa thân vào những nhân vật trẻ em của tác giả, những tác phẩm này vẫn có thể tìm được sự đồng cảm của bạn đọc thiếu nhi ngày nay.

 Ai đã từng sống ở miền Nam những năm 1965 – 1975 mà nói đạo đức không có nguy cơ suy đồi là không thành thật. Chính Võ Phiến ghi nhận: “chiến tranh tạo ra tình trạng rối ren hỗn loạn ở nhiều nơi, tình trạng thuận lợi cho sự hoành hành nhũng lạm của các cấp hành chánh, quân sự: nào hối lộ, buôn lậu, nào lính ma, lính kiểng, chợ đen chợ đỏ v.v…”; “Nếp sống của đám quân nhân Mỹ xa nhà và dư dật, lại làm phát triển những tổ chức ăn chơi: phòng trà ca nhạc, đĩ điếm, gái nhảy…, làm lan tràn nạn hút xách, cao-bồi v.v…”.[5] Nhưng điều quan trọng là xã hội và con người miền Nam, với sự trợ giúp của sức mạnh văn hóa, văn học, nghệ thuật, đã nhìn thẳng và đứng vững trước nguy cơ suy đồi đó.

 Những thiên truyện hay có yếu tố xã hội của Võ Hồng thường là những truyện không phân biệt ranh giới giàu nghèo và không theo một hệ quy chiếu đạo đức cứng nhắc. Thoạt nhìn, truyện Dấu chân sa mạc tưởng như viết để phê phán cô Ba Hường và nói lên quy luật nhân quả ở đời. Thật ra tác giả chỉ miêu tả một cuộc đời, một số phận mà không nhằm kết án ai hay đả kích điều gì. Cô Ba Hường vừa là nạn nhân của hoàn cảnh, vừa là nạn nhân của chính số phận mình, số phận của một người giàu hưởng tài sản không phải do bàn tay mình làm ra. Cô đáng thương hơn là đáng trách. Đối chứng với số phận Ba Hường là cuộc đời anh Tộc trong Niềm tin chưa mất, một lương tri của người cần lao được số phận mỉm cười như đền bù cho những thua thiệt trong đời: “Tâm hồn Tộc như cái phòng rộng trống trơn, không có xó kẹt, không có bóng tối. Tộc làm những điều mình nói và có thể nói cả những điều mình làm. Có thể nói cả những điều mình nghĩ nữa. Trong một xã hội nhiễm độc mà dối trá đã thành điển lệ, mà thù hằn đã thành khí giới phổ thông, quả tình nhân cách của Tộc vươn lên như một chồi cây mạnh giúp tôi tin cậy cuộc đời”.

Khi người Mỹ đổ quân vào miền Nam thì ngòi bút Võ Hồng trở nên mất bình tĩnh. Ông trở lại lối viết phân biệt chính - tà và ngòi bút đôi khi trở nên cay nghiệt với cái xấu, cái ác. Nỗi bức xúc của ông tràn ra đến ba cuốn tiểu thuyết: Nhánh rong phiêu bạtGió cuốnThiên đường ở trên cao. Thúy, nhân vật chính của Nhánh rong phiêu bạt, là nạn nhân của cuộc chiến huynh đệ tương tàn, bị bom đạn cướp mất những người thân yêu, cửa nhà tan nát, lang thang trên đời và trở thành nạn nhân của môi trường xã hội khắc nghiệt. Người tốt bụng thì nghèo, không có điều kiện cứu giúp cô; người giàu thì chua ngoa, kiêu kỳ, đanh đá, tìm cách vắt kiệt sức lao động của cô. Như nhánh rong trên giòng nước lũ, Thúy đã giữ được thiên lương của một đứa bé có giáo dục và được hưởng quả phúc từ cha mẹ. Cuốn truyện dài này nhiều chỗ phóng đại về cái xấu của người đời, với một đoạn kết có hậu lộ rõ sự sắp đặt của bàn tay tác giả.

Gió cuốn tái hiện những thay đổi của xã hội miền Nam khi hứng chịu nếp sống Mỹ tràn đến. Một người chồng vì sức cảm dỗ của đồng tiền đã vô hình trung đẩy vợ vào vòng tay những viên chức Mỹ. Sự kháng cự của người đàn bà ngày một yếu ớt và trở nên buông xuôi trước cơn gió cuốn. Sáng tác trước 1975 nhưng đến 1978 mới được xuất bản, Thiên đường ở trên cao, qua số phận Thérèse Băng Trinh, là tiếng kêu cứu gần như tuyệt vọng trước sự tàn phá của ma túy đối với sự sống và tinh thần của thế hệ trẻ, mà hậu quả ngày càng thảm khốc cho đến bây giờ.

Khách quan mà nói, tiểu thuyết Võ Hồng, dù viết về hiện thực kháng chiến hay về hiện thực xã hội miền Nam đều có phần dàn trải, thiên về miêu tả sự kiện hơn là khắc họa tính cách. Hình như ngòi bút của ông không sở trường với những cốt truyện có mâu thuẫn, xung đột nặng nề. Khi thể hiện những tình huống gay cấn, văn Võ Hồng không còn giữ được vẻ mềm mại, uyển chuyển vốn có. Ông để cho hình ảnh của những đợt sóng triều xã hội che khuất những trạng thái diễn biến tâm lý con người vốn là điều mà ông thành công đặc biệt trong truyện ngắn. Ngòi bút ông linh hoạt và tỉ mỉ khi miêu tả bức tranh sinh hoạt và chi tiết đời sống, nhưng điều này cơ bản lại không tạo nên chất tiểu thuyết cho tác phẩm. Từ 1974, Đỗ Quý Toàn đã nhận xét, hơi khắt khe, về Như cánh chim bay: “Võ Hồng thành công với tư cách một người viết ký sự thời 45, nhiều đoạn ký sự ngắn, Nhưng viết tiểu thuyết thì ông đã không thành công”. Dù Võ Hồng không phải là là ngòi bút tiểu thuyết ký sự hay tiểu thuyết tư liệu như Nguyễn Vỹ trong Tuấn, chàng trai nước Việt, người đọc vẫn có thể đòi hỏi ở ông sự đằm chín hơn trong tác phẩm. Hình như ông cũng tự ý thức điều này, nên thường ghi thể loại là truyện dài, chứ không phải tiểu thuyết. Ông giải thích với Mang Viên Long: “Ông Đỗ Quý Toàn trên báo Đời có nêu những khuyết điểm của Như cánh chim bay, những khuyết điểm tôi công nhận bởi tôi đã biết trước. tôi đã ‘dọn mình’ trước. Tôi phải chịu ‘bó tay’ để bộ truyện của tôi được người đọc tin là ‘có thiệt’. Vì nó dính dáng tới nhiều những sự kiện lịch sử gần đây, mà các sự kiện đó đều bị hai bên nói mâu thuẫn nhau hết nên tôi phải giữ thái độ trung thực, mà muốn trung thực thì câu chuyện cũng đừng éo le thái quá, giả tạo thái quá. Đó, phải tự nguyện ‘bó tay’ là như vậy”.[6]

Quả là Võ Hồng có phần nào dễ dãi khi xác định tính cấu trúc của thể loại. Ông đã từng trích đoạn từ các truyện dài Hoa bươm bướmGió cuốn để đăng tạp chí với tư cách như một truyện ngắn, khiến người đọc có thể hụt hẫng. Truyện dài Nhánh rong phiêu bạt, tuy đã kết thúc ở ấn tượng “ở hiền gặp lành” cuối chương 14, tác giả còn viết thêm chương 15 để nói đến hậu vận tốt đẹp của nhân vật chính. Đáng tiếc, trong cả bốn lần xuất bản do NXB Lá Bối (1970), Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa (1979), NXB Đồng Nai (1997) và NXB Văn Học (2009) chương này đều bị đưa ra khỏi văn bản. In lại chương này có thể cho thấy phần nào quan niệm nhân sinh lẫn quan niệm nghệ thuật của Võ Hồng.

Khi nói đến phẩm hạnh của văn chương Võ Hồng, tất nhiên chúng tôi không chỉ muốn nói đến nhân cách của nhà văn hay giá trị giáo dục trong tác phẩm của ông dù điều này chắc chắn có ảnh hưởng đến chất lượng của tác phẩm. Những phút chói sáng trong trang văn không tách rời với những phút chói sáng trong tâm hồn. Nói đến phẩm hạnh của văn chương là nói đến sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần soi chiếu vào văn bản như ánh sáng chiếu vào pha lê, là nói đến nghệ thuật của ký ức được truyền đạt qua ngôn từ và hình tượng. Nghệ thuật nói lên phẩm hạnh của nhà văn. Thậm chí, nghệ thuật cũng chính là phẩm hạnh, bởi đạo đức của nghề văn chủ yếu được tìm thấy trong chất lượng nghệ thuật và tài nghệ thuyết phục người đọc. Cần phải đọc hết không chỉ các tiểu thuyết mà tất cả truyện ngắn Võ Hồng mới nhận ra được phẩm hạnh văn chương của ông.

Trong bài viết đặc sắc “Đọc Võ Hồng: truyện tình của giới trung lưu”, in trên tập san Văn số đặc biệt về tác giả này, Cao Huy Khanh nhận xét “truyện tình Võ Hồng chính là một thứ nhạc êm dịu trong nỗ lực tiếp nối những khúc tình ca lãng mạn có điều độ của một thời văn chương đã qua”. Nhà phê bình giải thích: “Tình yêu của giới trung lưu, lãng mạn một cách có chừng mực, say đắm một cách có điều độ, niềm hạnh phúc lẫn nỗi đau khổ được điều chỉnh cho ngang tầm mức trung bình làm sao vừa bằng với sức chịu đựng trong nếp tâm lý chung của người công chức, tất cả những điều đó dường như đều có thể tìm thấy trong tiểu thuyết của Võ Hồng, nhà văn của giới trung lưu”[7]. Có thể nói đó là một phát hiện của Cao Huy Khanh.

Tuy nhiên, nghĩ cho kỹ, độc giả văn học nói chung ở Sài Gòn thời ấy, chứ không riêng gì độc giả của Võ Hồng, chủ yếu vẫn là giới trung lưu. Người thợ, người làm ruộng không đọc đã đành, mà giới thượng lưu e rằng cũng không mấy người yêu thích văn chương. Vậy mà văn học thời đó vẫn bày cho giới trung lưu rất nhiều món ăn tinh thần và được tiêu thụ, đâu riêng gì món “tình ca lãng mạn có điều độ”. Có “những tình nhân chậm chạp và quá sức hiền lành”, những “nhân vật nam nhưng lại tỏ ra ít có nam tính” của Võ Hồng thì cũng có những nhân vật nam mà nam tính bùng dậy trong những giây phút mãnh liệt và cuồng nhiệt của Võ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, Thảo Trường. Trong thời đại cách mạng giải phóng tính dục mà tả người tình nhân “chỉ có cái hôn đầu mũi vào má như hôn trẻ con” (Khoảng mát), “một cái chạm tay bên ngoài mà ấm nóng cả đời” (Lá vẫn xanh), ân hận về cái ý nghĩ cộc cằn rằng “người nữ ngon như một cái bánh” (Con suối mùa xuân) thì quả là đi lùi thời đại!

Trước khi viết văn bằng sự tưởng tượng, người ta viết văn bằng sự từng trải; tưởng tượng mà không qua từng trải thì dễ thành khiên cưỡng, sống sượng. Võ Hồng chấp nhận chịu tiếng là người không từng trải trong tình trường hơn là người viết văn sống sượng. Vả chăng, xét theo quan điểm phân tâm học, biết đâu lối viết “sạch sẽ” quá đáng đó lại không ẩn chứa những niềm khát khao ẩn ức tìm cách được thăng hoa.

Đi theo lối riêng, Võ Hồng lại là một người dân chủ trong cảm thụ nghệ thuật. Không những ông đề cao Võ Phiến, một phong cách văn chương rất khác biệt với ông, mà ông còn biểu dương Túy Hồng, người phụ nữ viết tiểu thuyết hiện sinh rất xa lạ với cá tính sáng tạo của ông: “Ngôn ngữ được cô sử dụng sống động như những sinh vật. Nhiều câu nói ‘thật’ đến nỗi, ‘sống’ đến nỗi mình có cảm tưởng như mình vừa nghe nhân vật thốt ra câu đó, âm thanh như còn vang lên đó, khiến mình đôi lúc bàng hoàng. Đọc cô Túy Hồng mình không có cảm tưởng phải chịu đựng một người đang làm văn chương, mà mình đang quằn quại xót xa, đang thổn thức theo tác giả”[8].

Có lẽ cũng nên cân nhắc khi nhận định rằng văn chương Võ Hồng là sự nối dài văn học lãng mạn thời kỷ 1930-1945, với hàm ý rằng nhà văn sáng tác ở những năm 1960 bằng tâm thế và kỹ thuật thời tiền chiến. Qua những phát biểu trực tiếp cũng như toát lên từ tình thế và hành động của nhân vật, không hề thấy ở Võ Hồng cái tâm thế của người làm cách mạng xã hội để thay cũ đổi mới như Tự Lực Văn đoàn. Ông cũng không có ý định làm cải cách văn chương. Ông in cuốn sách đầu tay gần như cùng lúc với nỗ lực phục hồi Tự Lực Văn đoàn, nhưng thất bại, của Nhất Linh. Không ai để lại cho ông một chỗ trống, bởi đơn giản những gì ông viết về kháng chiến và xã hội chưa ai trải nghiệm trước ông.

Ngay cả trong những “truyện tình thất tình” của Võ Hồng, nếu so với tác phẩm của Khái Hưng, Thạch Lam… sẽ thấy một khoảng cách nhất định. Cao Huy Khanh tinh tế khi nói lên cái tâm thế sáng tác của Võ Hồng: “hầu hết truyện của Võ Hồng đều được đặt trên một một căn bản hồi tưởng nòng cốt, đều có một nội dung hoài niệm minh nhiên. Chính trong cái kinh nghiệm hồi tưởng về chiến tranh đó chừng như người ta có thể đoán thấy được cái nét tâm lý cầu an của con người; mệt mỏi, chán chê, sợ sệt, kinh tởm, đó là nét tâm lý chung của những người vừa thoát chết qua một thời thế hỗn loạn cùng cực, của những kẻ được may mắn sống sót sau một cuộc chiến tàn khốc”[9]. Hẳn nhiên đó không phải là tâm thế của những nhà văn thời 1930 - 1945.

Vậy thì cuối cùng Võ Hồng vẫn là Võ Hồng. Không thể đặt ông vào cái khuôn loại hình lãng mạn hay hiện thực. Người ta không thể bắt ông Võ này phải giống ông Võ kia, cũng như không nên lấy cái đấu của ông Võ kia đong ông Võ này. Đó thực sự là sự đa dạng của văn học miền Nam. Võ Phiến có vẻ thú vị khi nói rằng có đến ba tuyển tập truyện ngắn miền Nam đã không chọn in tác phẩm của Võ Hồng. Thì đã sao, điều đó chỉ đáng tiếc cho các tuyển tập đó và cho độc giả hơn là cho Võ Hồng. Đâu phải vì đó mà có thể kết luận rằng Võ Hồng không có truyện hay. Cũng như bây giờ có những tuyển tập truyện ngắn Việt Nam sau 1954 mà không thấy tên Võ Phiến, thì ta đâu có thể nghĩ giản đơn rằng Võ Phiến không phải là nhà văn viết truyện đặc sắc.

Hơn nữa, chọn mỗi nhà văn một truyện ngắn hay là việc làm khó khăn và tế nhị, phụ thuộc vào thị hiếu thay đổi từng lúc của người tuyển chọn và sở thích của nhà xuất bản, độc giả, thị trường. Trong truyện ngắn của Võ Hồng nên chọn truyện nào cho một tuyển tập, điều đó không đơn giản. Trong một lá thư gửi người viết bài này năm 1986, Võ Hồng nói ông thích nhất truyện Nhẹ hơn cơn gió thoảng. Võ Phiến, năm 1999, chọn Trầm mặc cây rừng (Văn học miền Nam - Truyện, cuốn 3, NXB Văn Nghệ). Trần Hữu Tá, năm 2000, chọn hai truyện Nhẹ hơn cơn gió thoảng và Chuyến về Tuy Hòa (Về một chặng đường văn học, NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh). Hội Văn Nghệ Phú Yên, năm 2004, chọn Tình yêu đất (Tuyển tập văn học Phú Yên thế kỷ XX, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ Thuật Phú Yên xuất bản). Trần Hoài Thư, năm 2009, chọn Mong manh một thoáng (Văn miền Nam, NXB Thư Ấn Quán). Người viết bài này, năm 1986, chọn Bên đập Đồng Cháy (Mùa xuân chim én bay về, NXB Cửu Long). Còn nếu bây giờ cho tôi chọn lại thì xin chọn truyện Đi con đường khác. Cũng một truyện tình thất tình, trong không gian và khoảnh khắc nhạy cảm chốn thiền môn, không éo le bi kịch nhưng đọng lại một nỗi buồn tê tái, mà tôi nghĩ không ai có thể viết ám ảnh được như Võ Hồng.

Tóm lại, trân quý truyền thống mà không bàng quan với hiện đại, không tách rời chính trị nhưng lấy văn hóa làm chọn lựa căn bản, coi trọng đạo đức nhưng vẫn giữ tư chất nghệ thuật: đó là thế đứng của Võ Hồng trong một giai đoạn phức tạp, bi tráng của lịch sử đất nước và lịch sử văn học dân tộc.

TP. Hồ Chí Minh, tháng Hai, 2022

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Tạp chí Nghiên Cứu Văn Học, Viện Văn Học, Hà Nội, số 6, tháng 6/2022, tr. 21 – 32.


[1] Xem Nguyễn Thị Thu Trang (2003): Võ Hồng – nhà văn và tác phẩm, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Phú Yên, tr. 11. Theo bài Nguyễn Nam Anh phỏng vấn (1972): “Nhà văn Võ Hồng”, Tâp san Văn, Sài Gòn, số 209, ngày 01-9-1972, “Võ Hồng sinh ngày 05 tháng Chạp năm Nhâm Tuất (02-12-1922)”. Nếu âm lịch là 05 tháng Chạp năm Nhâm Tuất thì dương lịch là 21- 01-19 23.

[2] Võ Hồng (1971): “Tôi cảm tạ văn chương”, Tuần báo Tìm Hiểu, Sài Gòn, số 7 tháng 10 - 1971.

[3] Võ Phiến (1999): Văn học miền Nam – Truyện, cuốn 3, NXB Văn Nghệ, California, tr. 1718.

[4] Xem Tạp chí Cánh Én, Hội Văn Nghệ Phú Khánh, số tháng 11 – 1988.

[5] Võ Phiến (2000): Văn học miền Nam – Tổng quan, NXB Văn Nghệ, California, 258 – 259.

[6] Theo Mang Viên Long (1974): “Võ Hồng, những lần gặp gỡ”, Giai phẩm Văn, Sài Gòn, số đặc biệt Nhà văn Võ Hồng, ngày 14 - 2 - 1974, tr. 73.

[7] Cao Huy Khanh (1974): “Đọc Võ Hồng: truyện tình của giới trung lưu”, Giai phẩm Văn, Sài Gòn, số đặc biệt Nhà văn Võ Hồng, ngày 14 - 2 - 1974, tr. 31. 35.

[8] Võ Hồng (1971): “Tôi cảm tạ văn chương”, Bđd.

[9] Cao Huy Khanh (1974), Bđd, tr. 33.

1.

Nhà thơ Đông Trình, bút hiệu khác: Hồng Chi, Trần Hồng Giao, tên thật Nguyễn Đình Trọng, là một trong những nhà thơ tiêu biểu thuộc khuynh hướng phản kháng xã hội và tìm về dân tộc ở miền Nam Việt Nam thời kỳ 1954-1975.

Đông Trình sinh năm 1942 tại Quảng Bình, hiện sống tại Đà Nẵng. Thời trẻ ông học Trường Trung học Trần Quý Cáp (Hội An), rồi vào học Đại học Sư phạm và Đại học Văn khoa Huế năm 1963; tốt nghiệp năm 1968, đi dạy học ở Đà Nẵng. Những năm chiến tranh, ông tham gia phong trào sinh viên và giáo chức chống Mỹ, đòi hòa bình và thống nhất. Sau 1975, ông làm trưởng ban điều hành trường Trung học Phan Châu Trinh, rồi chuyển sang công tác ở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.

Đông Trình có 16 cuốn sách được xuất bản. Về thơ, có Khi mùa mưa bắt đầu (1967), Lót ổ cho đại bác (1968), Rừng dậy men mùa (1972), Tên gọi mới của hạnh phúc (1983), Từ chiếc tao đời mẹ ru (1986), Lấm tấm hạt đau (1990), Rừng và hoa (1993), Mất và tìm (1996). Riêng thơ thiếu nhi, có Giữa thực và mơ (2008), Những chiếc xe màu lửa (1992), Nếm mật (1995). Về tản văn, có Trà dư tửu hậu (1995), Khéo dư nước mắt (1998). Về tiểu luận – khảo cứu, có Giữa vòng tay thân hữu (1974), Ngoài vô tận tìm kẻ xa lòng (1995), Vườn đời lá vẫn xanh cây (1996). Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Văn học và Nghệ thuật TP. Đà Nẵng.

2.

Đông Trình làm thơ từ thời là học sinh ở Quảng Nam và sinh viên ở Huế. Sau khi hai tác phẩm Khi mùa mưa bắt đầu (1967), Lót ổ cho đại bác (1968) được ấn hành và phổ biến trong giới sinh viên Huế, Đông Trình thực sự được bạn đọc miền Nam chú ý với tập thơ Rừng dậy men mùa (1972). Tròn nửa thế kỷ trước, cầm tập thơ mỏng 80 trang mua được ở Hiệu sách Đức Mẹ trong khuôn viên nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế trên đường Kỳ Đồng (Quận 3, Sài Gòn) vài tháng trước khi Hiệp định Paris được ký kết, tôi nhận ra một sự hiện diện rất thú vị của những gương mặt và khuynh hướng văn nghệ đa dạng ở miền Nam.

Rừng dậy men mùa là tác phẩm có một số phận khá đặc biệt. Trước đó nhiều bài thơ trong tập đã được công bố trên các tạp chí ViệtVăn, Bách KhoaĐối Diện, nhưng khi tập hợp làm thủ tục xuất bản thì gặp trở ngại. Với giấy phép xuất bản số 164 của Ủy ban Kiểm duyệt Vùng I chiến thuật cấp ngày 15/9/1972, như một thủ thuật khôn ngoan của những người làm xuất bản thời đó, ấn phẩm này là một trong những trường hợp hiếm hoi của làng xuất bản miền Nam Việt Nam: được cấp phép ở miền Trung, đem vào Sài Gòn in bìa một nơi, in ruột một nơi, in phụ bản ở một nơi khác và phát hành bất hợp pháp (Xem Đông Trình: Rừng và hoa, Nxb Đà Nẵng, 1993, tr.147).

Đầu những năm 1970 thơ Đông Trình xuất hiện khá thường xuyên trên Bách Khoa và Đối Diện là hai tờ báo rất khác nhau, nếu không muốn nói là trái ngược nhau, về quan điểm xã hội và quan niệm nghệ thuật. Tạp chí Bách Khoa, tờ báo kiên trì lập trường của chủ nghĩa quốc gia, nhưng dung hợp nhiều khuynh hướng và phong cách nghệ thuật, đã ưu ái đăng những bài thơ phản chiến, kêu gọi hòa bình của Đông Trình. Trong một lá thư gửi tác giả, Lê Ngộ Châu, chủ bút Bách Khoa, cho biết trong tình hình báo chí “đang lâm đại nạn”, “không biết Bách Khoa có còn sống để đăng thơ anh được lâu nữa không, nhưng sẽ cố gắng đi cho kỳ được Tiếng đàn bầu rồi sau sẽ hay” (Xem Đông Trình: Rừng và hoa, tr.148). Điều may mắn là Bách Khoa vẫn tiếp tục ra được đến số cuối cùng, ngày 19/4/1975, mới “hoàn thành sự nghiệp”.

Còn Đối Diện, tạp chí khuynh tả quyết liệt, mỗi khi đăng thơ Đông Trình thì liền được Đài Phát thanh Giải phóng và Đài Tiếng nói Việt Nam ở Hà Nội phổ biến. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan, người trợ thủ đắc lực của Linh mục Chân Tín, chủ nhiệm tạp chí Đối Diện, đã hợp tác với giám đốc Nguyễn Liên của nhà xuất bản Trí Đăng để ấn hành Rừng dậy men mùa, nhưng không ghi tên Trí Đăng mà ghi Đối Diện. Đây lại là một thủ thuật nữa, vì Đối Diện được chính quyền cấp phép như một nguyệt san chứ không phải như một nhà xuất bản, chưa kể giấy phép đó không còn hiệu lực sau sắc luật 007 năm 1972 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa với những biện pháp kiểm soát ngặt nghèo đối với báo chí.

Những chi tiết thú vị trên ấn phẩm này chưa dừng ở đó. Ngoài tranh bìa ngợi ca hòa bình của Đỗ Toàn, cuốn sách còn in bốn ca khúc của Tôn Thất Lan và Trần Đình Quân phổ thơ Đông Trình. Đó là hai nhạc sĩ trong Phong trào Du ca Việt Nam, một hiện tượng văn nghệ mà ngày nay việc đánh giá vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều. Nói gì thì nói, thơ đó và nhạc đó làm sao hòa kết được nếu không cùng chung một tình tự quê hương và một niềm hy vọng.

Tôi trình bày sự ra đời của Rừng dậy men mùa không phải để lấy yếu tố bối cảnh biện minh cho thông điệp mà chỉ để nhấn mạnh rằng trong dòng thơ của thế hệ trẻ phản kháng ở miền Nam thời chiến, đây là một trong những tập thơ tiêu biểu và có lẽ là tập thơ có sức truyền cảm nhất trong sự nghiệp sáng tác gần 60 năm của tác giả.

20221127 2

Thơ Đông Trình là thơ nhập cuộc, thơ đấu tranh, điều này thì không cần bàn cãi. Nhưng những bài thơ ông viết giai đoạn đầu chưa thật nhiều xác tín, chưa thật nhiều hăng hái là những bài thơ còn đọng lại sâu sắc nhất. Ở đây chưa có giọng nói cả quyết mà vẫn còn chất mơ hồ, phân vân, hoài nghi:

Ta đã ngồi chờ bao nhiêu năm?

Nhìn cảnh đao binh ruột tím gan bầm

Sống giữa quê hương làm người đất trích,

Tự gõ mà ca một khúc lưu vong.

Ta sẽ còn chờ bao nhiêu lâu?

Ngày đã tàn phai, nguyệt xế ngang đầu.

Đọc bài cổ thi vui bên chén rượu,

Tự thương cho mình nát cuộc bể dâu.

Bài thơ này có nhan đề là Đêm nghe pháo kích dậy đọc cổ thi. Hãy tưởng tượng một người trẻ chưa tới 30 tuổi lần giở những trang thơ cổ để tìm những tâm hồn đồng điệu thời quá vãng và ký thác nỗi niềm tâm sự trong một đêm chiến tranh âm vang tiếng súng. Thơ đó là những câu hỏi không cần trả lời, khác với những câu hỏi xác tín câu trả lời ít năm sau đó.

Có thể nói thơ buổi đầu của Đông Trình được nuôi dưỡng trong bầu khí cổ điển với những “Kinh Kha”, “Dịch Thủy”, “tâm y cựu”, “hạo khí ca”. Không lạ gì, so với thơ tự do, Đông Trình làm thơ tám chữ và thơ lục bát, nhất là lục bát tình yêu, ý nhị và hàm súc hơn:

Em về tắt hết giùm tôi

Ngọn trong hiu hắt, ngọn ngoài tiêu sơ

Ngọn ma quái, ngọn dật dờ,

Hiên im vắng đợi, cổng ngơ ngác nhìn.

(Em gái hồi cư)

Ngỡ tình đã cuối cơn say,

Nhưng viên độc tố mới xoay nửa vòng.

Cây mềm lá đỏ mắt chong,

Biển xa con nước lưng giòng đứng phơi.

(Tình về)

Thật vậy, Đông Trình không mấy chuộng thể thơ tự do như một số nhà thơ cùng thế hệ (Ngô Kha, Lê Văn Ngăn, Thái Ngọc San, Nguyễn Quốc Thái…). Trong mấy bài thơ tự do của ông (Về một ngôi trường ở Quảng PhướcVới bạn bè ở miền núiNgười con gái bên kia cầu Sông VệVô cùng linh thiêng như nghe theo tiếng gọi), hình ảnh và nhịp điệu trong những câu thơ đều đều, bằng phẳng không tôn lên được tứ thơ và nét chủ âm. Chính những bài thơ tám chữ, thế mạnh của Thơ Mới vừa dẫn truyền, vừa gián cách với thế hệ những năm 1960, lại được Đông Trình tiếp thu nhuần nhuyễn. Nhưng ông không hướng nó đến những chủ đề vĩnh cửu như cái chết, tình yêu, hạnh phúc mà là những chủ đề thời sự - thời sự trong cái vĩnh cửu bao trùm là lẽ tồn vong của dân tộc, đất nước.

Bách Khoa và Đối Diện không phải là những tờ báo thuần túy văn chương; mỗi tờ báo thường chọn thơ phù hợp với quan điểm xã hội của ban biên tập. Về phía mình, Đông Trình cũng biết cách “chọn mặt gửi vàng”. Những bài ôn hòa ông gửi cho Bách Khoa, những bài quyết liệt thì gửi Đối Diện. Cũng có yếu tố thời cuộc là từ 1973, Bách Khoa trở thành “giai phẩm”, còn chịu ràng buộc của chế độ kiểm duyệt; chứ Đối Diện thì trở thành tờ báo “bất hợp pháp”, ngoài “vòng phấn trắng”, nghĩa là không còn chịu sự cương tỏa, câu thúc của Sở Phối hợp Nghệ thuật - tên gọi mới của Sở Kiểm duyệt – thuộc Bộ Thông tin Việt Nam Cộng hòa nữa.

Quy luật tiếp nhận nghệ thuật có những bí ẩn khó giải thích của nó. Là độc giả của Đông Trình và có liên lạc thư từ với ông từ ttrước 1975 (Xem Đông Trình: Rừng và hoa, tr.148; Mất và tìm, Nxb Đà Nẵng, 1996, tr.141), bây giờ đây sự phấn khích trong tôi thời trẻ với những bài thơ mang chất sử thi đăng trên Đối Diện như Giọt lệ mừngHoa đã hướng dươngMùa thu trên đường vềVì những người chết không nhắm mắt… đã không còn như cũ nữa. Ở đó, thỉnh thoảng người đọc sẽ vấp phải những câu thơ hô hào nồng nhiệt như Chiến thắng về ta rất dĩ nhiên/ Như nhân tâm phải thắng bạo quyền (Giọt lệ mừng); Vì có em biểu tượng tuổi thanh niên/ Biết nở đời mình thành đóa hoa cách mạng. (Hoa đã hướng dương); Đường ta đi dù còn nhiều gian khổ/ Sức mạnh nhân dân là chân lý sáng ngời (Mùa thu trên đường về). Rất nhiều lần những hình ảnh của ngày mai hiện về và vẫy gọi trong thơ Đông Trình cũng như các nhà thơ phản kháng những năm tháng đó, nhưng trong quầng sáng mờ ảo của niềm khát vọng có lẽ không mấy ai hình dung được cụ thể cái ngày mai đó sẽ như thế nào khi nó thành thực tế.

Bài thơ Hoa máu còn hồng trước ngôi nhà cũ thật hay khi phản chiếu trong ngôn từ màu bông giấy trước trụ sở Tổng hội Sinh viên Huế trên đường Trương Định. Nhưng sau những lời thơ tinh tế, tác giả lại cài đặt những câu khẩu hiệu:

Những ngày gặp nhau trong ngôi nhà cũ

Hoa giấy tháng tư rụng lá trên đầu

Hoa làm chứng cho những lời tâm sự

Cờ đấu tranh ta chuẩn bị phất cao.

 […]

Ôi những bước chân đã làm nên lịch sử

Những bước chân đi rúng động bạo quyền

Giữa lòng nhân dân ta mồi ngọn lửa

Quyết soi đường theo Cách mạng đi lên.

Trong khi đó, những bài thơ Đông Trình công bố trên Bách Khoa lại đằm sâu hơn xét về tinh thần dân tộc và nghệ thuật thi ca truyền thống, nên có sức âm vang lâu dài hơn. Theo thiển ý của chúng tôi, ba bài thơ cảm động nhất của Đông Trình giai đoạn này là Nhạc đờiTiếng đàn bầuTrong vườn bắp đều gắn liền với hình ảnh người mẹ và đều đăng trên Bách Khoa:

Tuổi thơ tôi dù rất nghèo hạnh phúc

Âm thanh đời đã nuôi lớn bài ca

Trong ánh nắng chiều, dưới bóng tre đưa

Lời thiên nhiên cũng mềm như tiếng mẹ.

Những chú dế mèn hòa âm rất khẽ

Khiến con nhện buồn chùng cả đường tơ

Tôi nằm trong nôi mắt khép rất hờ

Mẹ vỗ bàn tay đều như nhịp phách…

      (Nhạc đời)

Mẹ nhìn rất xa về những cánh đồng

Thấp thoáng trong tre khói ôm mái rạ

Có tiếng chim chiều gọi nhau về tổ

Vọng giữa bầu trời bàng bạc thủy ngân

Và cụm hương tàn trên mồ mả cha ông…

      (Tiếng đàn bầu)

Khi vườn nhà bắp mùa đang hái

Cha tôi từ xa có gởi thư về

Sáng ngày mai trong khăn gói người đi

Mẹ rưng rưng gởi theo từng trái bắp.

Và đêm ấy giữa núi rừng xuôi ngược

Có người ngồi quanh lửa ấm reo vui

Nghe nổ trong than từng hạt rất bùi

Có lòng mẹ tôi trong ngôn ngữ bắp…

      (Trong vườn bắp)

Đó là tình tự dân tộc mà cũng là tình tự cá nhân, là chuyện đời chung mà cũng là chuyện đời riêng, là tiếng vọng từ quá khứ mà cũng là tiếng ngân vang của hiện tại. Thành ra nếu Đối Diện tạo cơ hội phô bày con người xã hội bộc trực của Đông Trình, thì Bách Khoa lại giúp chuyển tải con người nghệ sĩ kín đáo của ông, vì đó đều là hai phương diện gắn kết trong người và thơ Đông Trình.

Chính nhờ cả hai phương diện đó, nhất là phương diện thứ nhất, mà Đông Trình đã hòa nhập với sinh hoạt xã hội và sinh hoạt văn học sau 1975 nhanh chóng. Ông đã công bố những sáng tác mới khá sớm, tuy bảy năm sau mới in Tên gọi mới của hạnh phúc (1982), tác phẩm đưa ông vào Hội Nhà văn năm 1985 sau ít nhiều chật vật. Hình như không có một gián đoạn nào đáng kể trong hành trình sáng tác giao thời của Đông Trình, tuy ông phải cố gắng thích nghi với thơ ca hiện thực về đề tài đất đai và sản xuất. Không phải ngẫu nhiên mà ông đưa vào những trang đầu tập thơ này phần “Hoa đã hướng dương”, như một ẩn dụ về con đường nghệ thuật đã được định hướng của ông!

Phải chờ đến sau 1986, Đông Trình mới có những tỏ lộ mới về tâm tư khi ông nói đến nỗi đau, sự cô đơn của thân phận con người và lẽ được mất trong cuộc đời. Tập Lấm tấm hạt đau (1990) xót thương “những ngôi nhà tốc mái”, “những đời người trống trải’, “những tàu thuyền chưa kịp trục vớt” và “những đứa trẻ đói ăn” lang thang sau cơn bão (Lộ ra sau cơn bão). Ông gặp lại những bà mẹ già bơ vơ sau chiến tranh đã bỏ nhà dưỡng lão mà đi: Có mẹ thẫn thờ ngồi ngoài trường học/ Vào mỗi chiều hôm như ngóng đợi ai về […] Có mẹ dật dờ men theo lũy tre/ Mắt nhìn ngu ngơ đếm cành đếm lá […] Có mẹ lang thang ra phía bờ sông/ Ngày nào cũng chỉ ngồi nhìn dòng nước chả (Mẹ và lửa). Nhận xét về tác giả Lấm tấm hạt đau, nhà thơ Vân Long viết: “Là một người làm thơ có tâm với những vấn đề xã hội, anh nói về nỗi đau một cách điềm đạm nhưng không kém phần sâu sắc” (Xem Đông Trình; Mất và tìm, Nxb Đà Nẵng, 1996, tr.143).

Đông Trình trở nên trầm tư và hàm súc hơn trong tập Mất và tìm (1996). Sau nỗi đau của tha nhân, giờ là lúc nhà thơ trải nghiệm nỗi đau của chính mình:

Tôi đi tìm chỗ cho tôi

Một góc khuất một góc ngồi dễ quên

Góc câm góc nín góc yên

Cho tôi mở nỗi đau riêng trang mình

Góc tắt góc ngấm góc chìm

Chỉ còn tiếng đập trái tim bồi hồi.  (Trả)

Sau những trăn trở và dằn vặt, Đông Trình lại trở về con người ôn nhu của mình, điều đó giúp ông hòa thuận với xã hội hơn những nhà thơ phản tỉnh cùng thế hệ, và nuôi dưỡng một cảm hứng bền bỉ để viết cho thiếu nhi trong ba tập thơ (Những chiếc xe màu lửaNếm mậtGiữa thực và mơ) mà tôi chưa có điều kiện đọc kỹ và cũng do khuôn khổ của bài viết này nên chưa thể đề cập. Thiết nghĩ, trong điều kiện văn liệu dùng cho sách giáo khoa bậc tiểu học rất khan hiếm hiện nay, có lẽ những nhà biên soạn sách sẽ tìm được những tác phẩm giàu ý nghĩa giáo dục trong thơ Đông Trình.

3.

Trong bài tùy bút Giò phong lan của Kazik, Đông Trình kể lại chuyến đi thăm thánh địa Mỹ Sơn cùng với Chế Lan Viên và Trần Độ vào tháng 4 - 1985. Gặp kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997), người Ba Lan, tên gọi thân mật là Kazik, đang đem hết nhiệt tâm trùng tu các tháp Chăm, Trần Độ giới thiệu Chế Lan Viên: “Nhà thơ này đã từng đi ra khỏi những cái tháp Chăm đổ nát và bây giờ, sau chiến tranh, ông ta muốn đến đây” (Xem Đông Trình: Khéo dư nước mắt, Nxb Văn Học, 1998, tr.95).

Có thể hiểu “tháp Chăm” như một ẩn dụ về đền đài nghệ thuật, về quê hương sáng tác mà mỗi nhà thơ tạo dựng cho riêng mình. “Rừng dậy men mùa” là quê hương nghệ thuật của Đông Trình. Đó là chất men phản kháng, đồng thời là chất men kết nối và hòa hợp, của một mùa đã xa từng dậy lên trong tâm thức tuổi trẻ miền Nam những ngày bỏng lửa. Nay nhân dịp tác giả tròn 80 tuổi, ta cùng ông đi trở lại cánh rừng ấy, miền quê ấy. Dù vẫn biết đó là men của một thời không lặp lại, ta hãy cùng ngồi với nhà thơ dưới cây cao bóng cả, nghe hơi thở của rừng thơm gỗ quý còn sót lại sau những tàn phai, nghe mùi men còn vương trên đất mẹ qua những bài thơ của ông được lưu giữ trong ký ức.

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Văn nghệ số 46/2022

Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi, một ngày thăm lại vườn văn của Võ Hồng, tôi tưởng như mình đang lần theo một hành trình đọc. Cái cô gái tuổi mười lăm, sau khi đọc những Nhánh rong phiêu bạt, Con suối mùa xuân, sung sướng ngắm nhìn chân dung hiền hòa của nhà văn trên bìa tạp chí Văn năm 1974, và người đàn bà tuổi sáu mươi bảy thơ thẩn giở những trang giấy sách úa vàng, bùi ngùi nhớ về hình ảnh một ông già đội mũ len ngồi trên hiên nhà nói cười hiu hắt.

20220601

Tôi đã đọc Võ Hồng xưa như một người đọc tự do, mảnh vải tinh khôi thấm hồn nhiên câu chữ. Tôi đang đọc Võ Hồng nay như một người đọc thả mình trong dòng nghĩ, ở đó có cả những quan sát và trải nghiệm cá nhân, cũng như những cầu viện không tránh khỏi của người đi qua trường lớp. Và tôi hình dung Võ Hồng ngồi lặng lẽ lắng nghe tôi nói huyên thuyên mà nheo mắt cười vừa khích lệ, vừa chế giễu.

Võ Hồng là người tìm thấy hạnh phúc trong hoạt động chuyên môn: viết văn và dạy học. Trong bất hạnh của cuộc đời cô lẻ, ông đã được đền bù. Bằng trái tim yêu thương, luôn muốn được tâm tình, chia sẻ, Võ Hồng viết và nói như một con tằm nhả tơ, những kén tơ óng ánh vầng sáng ấm.

Dù tự thấy cuộc đời của mình “vui ít buồn nhiều”, nhưng một cái nhìn lạc quan về nghề viết như Võ Hồng có lẽ là khá hiếm: “Ông nhà văn, ông được ưu đãi nhiều quá. Ông được nói chuyện dịu dàng với người đọc vào một giờ yên tĩnh nhất, trong một khung cảnh êm đềm nhất. Người đó đem trọn tâm hồn ra để nghe ông và ông được chọn nói những điều mà ông cho là thâm thúy”. Nghĩ như vậy, rõ ràng Võ Hồng đã luôn vừa mang tâm thế người đọc vừa tâm thế người viết trong khi đến với văn chương.

Nửa thế kỷ trở lại với ngôi vườn cũ, hương xưa phảng phất, kỷ niệm tràn về, cảm tạ mối thân quen đầy tin cậy đã qua, tôi của hôm nay vẫn tự hỏi: ngoài những âm vọng của quá khứ, còn có điều gì khác trong tôi, như những khám phá mới mẻ, hay là những lý giải kỹ càng về sức hút của trang viết Võ Hồng?

Đọc Võ Hồng xưa, trong tôi có hai lần chấn động. Một là bài thơ Vết thương không lành in trên tạp chí Bách Khoa năm 1962(1). Hai là lời bộc bạch của nhà văn trong lần trả lời phỏng vấn trên tạp chí Văn: “Ước vọng của tôi là có phương tiện đi lang thang khắp các miền quê hương đất nước, từ cánh đồng phù sa sông rạch lên tới vùng sơn cước rừng núi âm u, ngược xuống bãi biển sóng gầm… vai mang máy ảnh, máy ghi âm và túi giắt sổ tay, bút chì bút máy.

Tôi sẽ tìm gặp những ông nông dân già, những ông chài cá lưới tôm già, những ông thợ rừng, những ông thợ đóng cối xay… Tôi sẽ nghe họ kể chuyện làm ăn, những kinh nghiệm làm nghề, những lo âu và hy vọng. Tôi sẽ ghi tiếng nói của họ vào máy ghi âm, nét mặt của họ vào máy ảnh.

Tôi sẽ biên chép, sẽ bổ sung thêm chi tiết… và sau đó sắp đặt lại lời lẽ bố cục cho gọn, cho rõ, cho dễ hiểu. Khi được in ra một loạt những cuốn như Hồi ký của một người thợ rừng, Cuộc đời của một ngư phủ ở Tiên Châu, Phút nói thật của một nông dân miền Hóc Lá… thì ông tưởng tượng xem, độc giả các thế hệ sau sẽ yêu quê hương thiết tha đến chừng mực nào”(2).

Từ ấn tượng xa xưa, tôi nghĩ rằng, Võ Hồng đã chọn đi theo hai tiếng gọi lớn mà đối với ông là sâu sắc nhất: tiếng gọi của quê hương và tiếng gọi của tình yêu.

Võ Hồng đã dựng lại bức tranh con người và sinh hoạt của Tuy Hòa và miền Trung nói chung trong tiếng rì rầm của lịch sử Việt Nam. Có bao nhiêu tác phẩm đã nói đến thời tranh chấp Pháp-Nhật và những cuộc tản cư tao tác ở khúc ruột miền Trung như Hoa bươm bướm?

Về xã hội, cảm thức về tao loạn và biến thiên lịch sử trong văn chương Võ Hồng rất đậm. Ông đau đớn về những phận người trôi giạt, ông đau đáu về những điều biến mất trong cơn gió bụi. Dĩ vãng sống lại, mạnh mẽ hơn bao giờ hết qua truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ của Võ Hồng.

Ông muốn kháng cự lại thời gian và thời cuộc bằng đôi mắt chứng nhân và quyền năng chữ nghĩa, vĩnh cửu hóa những điều đã diễn ra trong đời sống của những con người vô danh chất phác, và ông cũng lên tiếng phê phán những xiêu lạc của những con người thị dân trước cơn gió lốc của cuộc sống duy lợi.

Về tự nhiên, trang viết Võ Hồng tràn đầy tinh thần sinh thái(3). Ông quan sát và chiêm nghiệm chúng bằng một nhãn quan trung dung mang triết lý phương Đông(4) có ít nhiều dung hợp với tinh thần duy mỹ của văn hóa Pháp.

Tình yêu trong văn chương Võ Hồng bảng lảng sắc màu platonique, đôi khi có vẻ lạc loài trước xu hướng truyện tình táo bạo của miền Nam thời 1954-1975. Nhưng rõ ràng những tình huống gặp gỡ, quyến luyến của các nhân vật trong truyện của Võ Hồng luôn khởi đi từ một kiếm tìm tri âm. Cái tương giao tinh thần ấy mạnh hơn tất cả. Và họ luôn biết giữ gìn nhau, trao nhau những gì đẹp nhất trong đời, dù lắm khi đau đớn vì dang dở, lìa xa.

Trong suốt hành trình viết văn của mình, Võ Hồng ít khi làm nên sự kiện, nhưng ngay từ khởi điểm, ông đã tìm ra nguồn mạch của riêng mình, đã chảy nhẹ nhàng bền bỉ qua hơn 60 năm, hồn hậu trong ước vọng bày tỏ; thương yêu, trân trọng trong tìm kiếm tương giao.

Đời văn của Võ Hồng nằm trọn trong thời kỳ khói lửa kinh hoàng của đất nước, nhưng có một miền Nam Việt Nam cố gắng duy trì cái nhịp đập tự nhiên đặc thù cho các hoạt động tinh thần. Đời văn Võ Hồng cũng đi qua những cheo leo của số phận, nhưng ông đã tìm ra một nơi chốn để náu mình, an định. Với Võ Hồng, viết văn là một cách thế tồn tại thiết yếu, cả về tinh thần và vật chất.

Tâm thế sáng tạo ấy gắn liền với cốt cách của một trí thức giao hòa trong mình hai nền văn hóa Đông – Tây, với cảm hứng của một người cầm bút luôn giữ được sự cân bằng giữa người nghệ sĩ và nhà giáo dục.

Võ Hồng là người yêu cái đẹp tự nhiên. Ông muốn trang viết của mình lưu vào ký ức chúng ta những cảnh trạng bùi ngùi lam lũ và dạt trôi của đời sống đồng bào, những khuôn mặt người dân quê chất phác một thời. Ông cũng muốn qua chữ nghĩa, phả vào tâm hồn chúng ta cái hương sắc ngọt ngào bảng lảng của những duyên tình phong nhụy.

Tưởng tượng trong tác phẩm Võ Hồng chỉ là chút men, quan sát và trải nghiệm mới là chất bột. Người đọc có thể nhận ra xuyên qua rất nhiều tác phẩm của ông, từ tiểu thuyết cho đến truyện ngắn và đặc biệt là thơ, một nhân vật quen thuộc, mang nhiều đường nét của tác giả. Và có những trải nghiệm được thi hóa, theo nguyên tắc bù trừ.

Ai cũng biết, là đôi khi cái ta tưởng tượng đẹp đẽ và làm ta xúc động hơn là cái ta có trong đời thực. Những gặp gỡ và chuyện trò của các nhân vật trí thức trong trang viết của Võ Hồng cho thấy đã từng có những trí tuệ thông minh, những tâm hồn tinh tế và những phong cách thanh lịch một thời.

Nhẹ nhàng và khiêm cung, cái tôi nhà văn ấy chưa bao giờ vắng mặt trên trang viết của mình. Cái tôi ấy hồi tưởng, vực dậy những ký ức thời thơ dại (Hoài cố nhân, Ngày xưa, Thế giới của Năm Nhiều…), những tháng năm vào đời nhiều xáo trộn lịch sử (Hoa bươm bướm). Quá khứ sống lại, rõ rành sự kiện, nhân dáng, tâm cảm, số phận.

Cái tôi ấy cũng không ngừng lắng nghe cái từng ngày chạm vào mình, trong một vài không gian nhất định (gia đình, nhà trường, Nha Trang), với một nhịp sinh hoạt khá đều đặn, bảng lảng những tương giao dang dở, thảng hoặc, tiếng dội của cơn bão thời đại ùa vào, dường như âm vang đục hơn, bởi cái tổ kén kia vốn nhẹ nhàng óng ả.

Bước ra khỏi vùng tĩnh, vẫn hé lộ cái vọng động của tâm trong luồng gió cuốn, hay là gió lay tấm màn the làm lộ ít nhiều cái khắt khe của một nhà duy mỹ lâu ngày không lặn sâu dưới đáy cuộc đời? (Nhánh rong phiêu bạt, Gió cuốn).

Nghĩ về Võ Hồng, tôi luôn nhớ đến Nguyễn Hiến Lê. Hình như hai người rất gần nhau về quan niệm nghệ thuật và cách thế sống. Họ là những nhà văn có căn cốt văn hóa vững chãi, có lối hành xử nhất quán, luôn khiêm cung(5) và đầy lòng tự trọng. Họ là những trí thức luôn biết cách thu xếp để giữ cho mình cái trong trẻo thuần khiết của văn hóa, giữa một không gian xã hội đầy biến động và áp lực của Việt Nam.

Nguyễn Thị Thanh Xuân

Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn, ngày 29.5.2022.

———-

(1) Vết thương không lành. Tôi tưởng đã quên rồi/ Mười năm hơn cách trở/ Nay gặp nàng xa thôi/ Sao nghe lòng nức nở. Có cái gì rơi rụng/ Có cái gì nghẹn ngào/ Hồn tuy không nổi sóng/ Mà dường như xôn xao. Má hồng tươi ngày xưa/ Ánh mắt vui thuở nọ/ Lời âu yếm trên môi/ Xác pháo rơi trước ngõ. Êm đềm và chua xót/ Kỷ niệm dồn dập về/ Nước mắt ai nhỏ giọt/ Ngày nào khuyên “Quên đi”. Thì ra vết thương nhỏ/ Tưởng đã lành từ lâu/ Nay chạm thử máu nhỏ/-Không, không lành bao giờ! (In lại trong Thời gian mây bay, Nxb Đồng Nai, 1966, tr.31).

(2),(4) Nguyễn Nam Anh phỏng vấn Nhà văn Võ Hồng. Văn 209, 1-9-1972.

(3) “Sau khi mệt mỏi với xã hội con người, ta tìm sự hồn nhiên cạnh những con vật. Rồi sự im mát cạnh những cây lá. Rồi sự vắng lặng trong chính tâm hồn mình”. (Trầm tư, Sđd, tr.66). “Này con, hãy học theo thái độ của dòng sông: gặp trở ngại khó khăn thì đi vòng để tránh. Chớ không đi lui” (Trầm tư, Sđd, tr.70). Bên cạnh phát biểu này, còn có thể nhìn thấy ngay trên nhan đề các tác phẩm của Võ Hồng.

(5) “Tôi yêu biết bao cây mãng cầu đứng cạnh cửa sổ. Dáng đứng manh mảnh, cành nghiêng mềm nõn, màu lá xanh nhạt, sắc hoa nhũn nhặn. Nó lặng im đứng đó, không rực rỡ, không cạnh tranh hương sắc. Tôi cứ tưởng nó là tôi” (Trầm tư, Sđd, tr.10).

 

 

Thông tin truy cập

60969796
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
1094
11034
60969796

Thành viên trực tuyến

Đang có 174 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website