Học môn Thơ Đường, tôi nghĩ ngoài việc biết sơ bộ thành tựu nền thơ ca đồ sộ nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc, cũng phải thuộc vài bài thơ Đường luật, yêu thích vài tác giả, hiểu về thi pháp, bố cục niêm luật của một bài thơ Đường luật ra sao, rồi tập tành dịch vài đoạn thơ của các nhà thơ nổi tiếng thời Đường.
Song việc học Hán Nôm, dù là học môn Thơ Đường cũng cần vận dụng để tập dịch thơ của tiền nhân nước mình, giới thiệu với bạn đọc. Vì vậy, trong khi thầy trò Hán Nôm vừa học vừa dạy, lần giở những bản sách cũ, thấy có quyển Hiếu cổ đường thi tập 孝古堂詩集của Miên Ký 綿寄, hoàng tử thứ 75 của vua Minh Mạng, một nhà thơ thuộc hoàng tộc ít người biết đến, mới đem đưa cho sinh viên tập đọc và tập dịch. Trước thì tạo thêm cơ hội cho các bạn sinh viên trau dồi khả năng đọc chữ Hán viết tay với dịch thơ Đường luật, sau thì có thêm chút niềm vui trong học tập, nhưng những kết quả đầu tiên của các bạn khiến tôi vui mừng, bèn không ngại khó khăn, cùng các bạn Hán Nôm khoá 2016-2020 của Khoa Văn học chia nhau phiên dịch, đồng thời hiệu chỉnh giúp các bạn những chỗ còn vụng.
Trước khi bản dịch Hiếu cổ đường thi tập được tập hơp thành sách, chúng tôi xin trích giới thiệu và đăng trên trang web của Khoa Văn học như một lời động viên chân thành nhất đối với các bạn sinh viên Hán Nôm của Khoa. Độc giả có thể chưa hài lòng chỗ này chỗ nọ trong bản dịch thơ, nhưng tôi cùng các bạn Hán Nôm làm công việc này cũng là theo tinh thần “hiếu cổ” của người xưa, chứ không có ý gì khác.
Xin trân trọng giới thiệu.
-----*-----
Phần trích dịch Hiếu cổ đường thi tập 孝古堂詩集của Miên Ký 綿寄
(Lê Quang Trường chủ biên, hiệu chỉnh
Nguyễn Tường Vi, Ngô Thị Thanh Phương dịch)
讀弔義民陣死文
國語遺編手自開,
勤王敵愾最憐才。
揭竿斬木千夫聚,
飛炮橫舟萬里來。
青海煩冤多鬼哭,
沙埸征戰幾人回。
李華吊古无窮悢,
風颯邊聲浙浙哀。
Độc Điếu nghĩa dân trận tử văn
Quốc ngữ di biên thủ tự khai,
Cần Vương địch khái tối liên tài.
Yết can trảm mộc thiên phu tụ,
Phi pháo hoành chu vạn lí lai.
Thanh hải phiền oan đa quỷ khốc,
Sa trường chinh chiến kỉ nhân hồi.
Lý Hoa điếu cổ vô cùng hận,
Phong táp biên thanh chiết chiết ai.
Đọc bài Văn điếu nghĩa dân chết trận
Tự tay mở đọc bài văn quốc ngữ còn lại,
Tấm lòng giúp vua chống giặc, thật đáng mến tài.
Dựng cờ khởi nghĩa, nghìn người quy tụ,
Đạn pháo đánh thuyền từ muôn dặm kéo đến.
Bao nhiều hồn oan than khóc nơi Thanh Hải,[1]
Mấy ai được trở về sau chiến chinh ở sa trường.[2]
Nỗi oán hận vô cùng khác nào bài Điếu cổ của Lý Hoa,[3]
Nghe gió thổi nơi biên địa còn vang tiếng buồn thảm thiết.
Lần đọc bài văn quốc ngữ đây,
Cần Vương chống giặc, nghĩ thương tài.
Dựng cờ khởi nghĩa muôn người đến,
Pháo nổ phi thuyền vạn dặm mây.
Chiến địa oan hồn vang tiếng khóc,
Sa trường chinh chiến luống còn ai?
Áng văn điếu cổ vô cùng hận,
Gió thổi điệu buồn thảm thiết thay!
(Tường Vi – Thanh Phương dịch)
夜泛五絕
其一
小雨連江送晚凉,
閒来獨往自徜徉。
青簾白舫知何處,
水遶蘆花月滿塘。
Dạ phiếm ngũ tuyệt
Kỳ nhất
Tiểu vũ liên giang tống vãn lương,
Nhàn lai độc vãng tự thang dương.
Thanh liêm bạch phảng tri hà xứ,
Thuỷ nhiễu lô hoa nguyệt mãn đường.
Mưa phùn khắp dòng sông đưa hơi mát trong chiều,
Lúc rảnh một mình tự tại thong dong.
Chiếc thuyền trắng thả rèm xanh biết đi về đâu,
Con sông chảy quanh bờ hoa lau, trăng sáng khắp đê.
Mưa nhỏ liền sông đưa gió mát,
Một mình tự tại thong dong bước.
Rèm xanh thuyền trắng biết về đâu?
Trăng sáng trên đê hương cỏ ngát.
(Ngô Thị Thanh Phương dịch)
其二
鶴渚鳧汀不覺窮,
白沙翠竹水連空。
一江風月无人管,
半属吟翁半醉翁。
Kỳ nhị
Hạc chử cưu đinh bất giác cùng,
Bạch sa thúy trúc thủy liên không.
Nhất giang phong nguyệt vô nhân quản,
Bán thuộc ngâm ông bán túy ông.
Bãi hạc bến le không thấy được điểm cuối cùng,
Cát trắng, trúc xanh, sông tiếp nối chảy đến chân trời.
Cảnh trăng gió trên sông không ai thèm quản,
Một nửa thuộc về nhà thơ, một nửa của khách say.
Bến hạc bãi le trải chẳng cùng,
Trúc xanh cát trắng lẫn bầu không.
Đầy sông trăng gió không người quản,
Nửa để thi ông, nửa túy ông.
(Nguyễn Tường Vi dịch)
其三
何人箫鼓泛中流,
莫是追凉共夜遊。
隔水棹歌聲未歇,
輕舟已到鳳凰樓。
Kỳ tam
Hà nhân tiêu cổ phiếm trung lưu,
Mạc thị truy lương cộng dạ du.
Cách thủy trạo ca thanh vị yết,
Khinh chu dĩ đáo Phụng Hoàng lâu.
Giữa dòng sông ai người đánh trống thổi tiêu?
Có lẽ là người đi hóng mát cùng chơi trong đêm.
Tiếng hò khoan bên dòng sông vẫn còn vang chưa dứt,
Con thuyền nhỏ đã lướt đến lầu Phụng Hoàng.
Sáo trống ngân vang lướt giữa dòng,
Ai người hóng mát suốt đêm trong.
Bên sông văng vẳng hò chưa dứt,
Lầu Phụng thuyền lan cập bến xong.
(Nguyễn Tường Vi dịch)
其四
相逢一笑共招邀,
沁水園中景最饒。
江上朱樓樓上月,
䌓絃急管可憐宵。
Kỳ tứ
Tương phùng nhất tiếu cộng chiêu yêu,
Thấm Thuỷ viên trung cảnh tối nhiêu.
Giang thượng chu lâu lâu thượng nguyệt,
Phồn huyền cấp quản khả liên tiêu.
Gặp nhau cùng cười cùng mời nhau,
Giữa vườn Thấm Thuỷ cảnh đẹp rất nhiều.
Lầu tía trên sông, trăng trên lầu,
Tiếng đàn tiếng sáo rộn ràng vui suốt đêm.
Gặp nhau cười nói chắp tay chào,
Thấm Thuỷ trong vườn đẹp biết bao.
Gác tía trên sông, trăng ngập gác,
Sáo đàn rộn rã vọng đêm thâu.
(Ngô Thị Thanh Phương dịch)
Tay nắm miệng cười lúc gặp nhau,
Trong vườn Thấm Thuỷ cảnh tươi màu.
Lầu son trên bến trăng soi bóng,
Đàn sáo thâu đêm vẳng khắp lầu.
(Lê Quang Trường dịch)
其五
小宴追凉酒數杯,
芰荷十萬送香來。
莫令白露沾人袂,
泛泛輕舟載月回。
Kỳ ngũ
Tiểu yến truy lương tửu sổ bôi,
Kị hà thập vạn tống hương lai.
Mạc linh bạch lộ triêm nhân duệ,
Phiếm phiếm khinh chu tải nguyệt hồi.
Bày tiệc nhỏ cùng hóng mát, uống vài chén rượu,
Sen nõn thoang thoảng đưa hương đến.
Đừng cho sương trắng làm ướt tay áo người,
Thuyền nhỏ bồng bềnh chở ánh trăng về.
Tiệc bày hóng mát rượu vài li,
Sen nõn đưa hương ngát tối hè.
Sương trắng thôi làm tay áo ướt,
Thuyền về, chở cả ánh trăng đi.
(Lê Quang Trường - Nguyễn Tường Vi dịch)
[1] Lấy ý thơ Binh xa hành của Đỗ Phủ, trong đó có câu: 君不見青海頭,古來白骨無人收。新鬼煩冤舊鬼哭,天陰雨濕聲啾啾。
[2] Lấy ý từ câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” trong bài thơ Lương Châu từ của Vương Hàn.
[3] Bài Điếu cổ của Lý Hoa: