Khi chị không còn ai nữa thì ai cũng nhắc đến chị. Thật ra những thế hệ sau này chẳng biết chị - người phụ nữ sống quạnh quẽ với lời nguyền trên doi cát như một vòng cung nhô ra biển quê tôi. Còn biển thì vẫn vậy. Vẫn thì thầm. Chỉ có một điều thay đổi: trên doi cát đước mọc dày hơn, lan rộng hơn, bước sát tới bờ nước. “Trong tiếng thì thầm của biển có tiếng trở mình của lá”. Đó là nói theo cách hoàn toàn tưởng tượng do câu chuyện của “ông lão người yêu” gợi dậy.
Tất cả đều khó tin. Và chẳng ai tin, trừ cô bạn người thành phố của tôi khi cô vừa thổn thức vừa nhắc lại: “Đó. Trong tiếng thì thầm của biển có cả tiếng trở mình của lá. Anh không nghe thấy sao?”. Quì xuống bờ cát ướt và nhìn vào đôi mắt đầy nước mắt của cô, tôi tin. Biển rộng dạt dào một đời khổ ải và hạnh phúc.
Lời hát của những chiếc lá:
Khi chúng tôi soi mình trong màu vàng óng của chiều tà, ấy là lúc đôi mắt của nàng thiếu nữ rực lên niềm u uất. Với tất cả nỗi đam mê, chúng tôi chờ đợi những ngón tay thon thả khẽ chạm vào. Và vĩnh biệt bạn bè. Cứ thế mỗi ngày một người trong chúng tôi trở thành thông điệp của tình yêu.
Mặc cho đêm cứ sâu hun hút. Mặt cho gió cứ gào rú. Mặc cho bóng tối cứ lật lọng. Mặc cho những đốm sáng hư ảo bay nhảy cứ đe dọa cõi sống. Chúng tôi vẫn lăn mình trên sóng, xuôi theo con nước, hát bài ca của những ngôi sao. Nhấp nhánh. Nhấp nhánh đôi mắt của người yêu rực rỡ trong đêm trường chờ đợi. Nhấp nhánh. Nhấp nhánh. Đôi mắt trần gian tình ái.
Chuyện ông lão người yêu:
Người đàn ông đội màu hoàng hôn bãng lãng, lần ra tảng đá sát bờ sông. Anh ngồi, hai tay buông xuôi và im lặng. Chỉ có đôi mắt lên tiếng hỏi con nước lớn loang loáng những sợi nắng cuối ngày, rồi nhập nhòa bóng đêm, rồi đậm đặc màu khuya khoắt. Những ngôi sao nhấp nhánh, rồi những ngôi sao lặn đi. Trăng khuyết rồi trăng tròn, rồi trăng lại khuyết. Gió lồng lộng rồi gió lặng lờ. Mưa xối xả rồi mưa nhẹ hẫng, mưa dứt hạt rồi lại xối xả.
Đã hai mươi năm như thế. Tưởng anh đã ngã gục. Nhưng rồi anh vẫn vậy: chờ đợi chiếc lá - một chiếc lá duy nhất của lời nguyền.
Người bạn anh, ở phía bên kia, đã bỏ cuộc. Còn anh, trong trái tim nhức nhối của mình, anh nghe tiếng thì thầm của biển lẫn trong tiếng trở mình của lá. Điều ấy giữ anh ngồi lại, lặng yên và chờ đợi.
Trong những đêm dài như thế, anh nhớ lại câu chuyện đời mình cùng hai người bạn anh, một nam một nữ. Họ (cả ba) đã có những ngày trôi nổi giữa mênh mông biển để đi tìm vùng đất sống. Cái đói và cái khát. Cái nắng cháy lửa và cái rét run sương đêm... không chia lìa nổi họ. Nhưng khi con thuyền bị đánh bạt vào doi cát, họ dần theo bờ nước, tìm được vùng đất định cư và cõi sống hiện lên thì giữa họ lại bắt đầu một rạn nứt. Ấy là do cái nhìn của người bạn gái- cái nhìn vời vợi cháy bỏng lửa tình. Họ sững sờ phát hiện điều quá đỗi kinh hoàng mà những ngày bị cái chết đe dọa họ không hề nghĩ đến: sự thổn thức của trái tim, sự thổn thức của các tế bào đang căng ra trong họ. Và thế là cuộc huyết chiến xảy ra giữa hai người con trai mà cho đến bây giờ anh vẫn nghĩ như một trò đùa nghiệt ngã.
Dưới ánh trăng, khi anh nhìn thấy đôi mắt người bạn trai của anh rực lên như hai đốm lửa, anh cũng trợn trừng. Cả hai tiến lại đối mặt nhau, từng bước một. Bất ngờ người bạn anh hét lên, lao tới, quật ngã anh bằng một đòn hiểm hóc. Anh lăn tròn trên cát, bật dậy cùng với gọng kiềm của đôi chân quật ngã bạn mình.
Phải có một kẻ chiến thắng. Và kẻ ấy trở thành người yêu của người bạn gái. Vĩnh viễn. Cuộc sống sẽ trở lại bình thường theo nghĩa một người chịu hiu quạnh. Nhưng khi cả hai mửa máu ra, cùng sắp sửa một đòn trí mạng thì người thiếu nữ xuất hiện.
Tóc xổ tung, bàng bạc màu trăng, chị đứng giữa hai người bạn và bật khóc. Đôi mắt vẫn chát bỏng lửa tình nhưng đã mang nỗi đau đớn tột cùng. Và chị ra đi, đi lần theo con nước, trở về doi cát với lời nguyền: Mỗi chiều chị sẽ hái một chiếc lá thả trôi theo con nước. Kẻ nào trong hai người bạn trai vớt được chiếc lá có dấu tay của chị, kẻ ấy thành chồng.
Bắt đầu những ngày chờ đợi. Lời hát của những chiếc lá vọng về trong gió. Anh nghe được và người bạn trai của anh cũng nghe được. Anh ở bờ bên này và người bạn trai của anh ở bờ bên kia. Cả hai chờ đợi. Và chờ đợi.
Người bạn trai của anh đã bỏ cuộc sau một năm chờ đợi và biệt tích. Còn anh vẫn đội màu hoàng hôn bãng lãng, lần ra tảng đá sát bờ sông. Anh ngồi, hai tay buông xuôi và im lặng. Chỉ có đôi mắt lên tiếng hỏi con nước lớn loang loáng những sợi nắng cuối ngày, rồi nhập nhòa bóng đêm, rồi đậm đặc màu khuya khoắt. Những ngôi sao nhấp nhánh, rồi những ngôi sao lặn đi. Trăng khuyết rồi trăng tròn, rồi trăng lại khuyết. Gió lồng lộng rồi gió lặng lờ. Mưa xối xả rồi mưa nhẹ hẫng, mưa dứt hạt rồi lại xối xả.
Đã hai mươi năm rồi như thế. Không có chiếc lá nào ghé lại bờ anh. Lời nguyền vẫn còn rành rành trong lời thì thầm của biển.
Buổi sáng ngày đầu tiên của năm thứ hai mươi mốt, anh sợ ngã quỵ, đành lần theo bờ nước tìm về doi cát. Thì ra chị đã chết. Xác chị vẫn còn nguyên vẹn, nằm nghiêng trên đồi cát, với tay về phía biển giữa lớp lớp những chiếc lá đã úa vàng, sực lên mùi hương thiếu nữ.
Khi anh đưa tay vuốt đôi mắt thì chị tan ra, tan ra chảy dần về phía biển, cả một vùng biển ngát hương. Anh chợt nghe giọng thì thầm của biển lẫn trong tiếng trở mình của lá.
Phải mười năm sau, khi đã năm mươi, anh mới kết duyên với một người phụ nữ lạc loài nơi vùng đất một mình anh quanh quẩn.
Đó là các vị tiên hiền của quê tôi.
Câu chuyện ấy còn lại tới bây giờ. Tất cả đều khó tin. Và chẳng ai tin. Những lớp người trước vẫn kể lại cho lớp người sau như thế và đã có thêm bao nhiêu điều thêu dệt. Còn biển vẫn vậy. Vẫn thì thầm. Chỉ có một điều thay đổi: trên doi cát đước mọc dày hơn, lan rộng hơn, bước sát tới bờ nước.
Một điều ngạc nhiên là cô bạn người thành phố của tôi tin. Cô đã quỳ xuống hôn bờ cát ẩm khi chúng tôi cùng cô đến doi cát, rẻo đất cuối cùng của vùng biển quê tôi. Và cô đã tiết lộ một điều bí mật. Cô là người thuộc đời thứ ba mươi của ông tổ chính là người con trai đã bỏ cuộc ấy. Chính người con trai ấy đã vớt được chiếc lá thông điệp của tình yêu. Nhưng khi ông vớt được thì trong ông lại trào lên một niềm đau đớn của tình bạn. Và ông bỏ đi như một hy sinh. Ông tiếp tục đi xuôi theo dòng nước với niềm hy vọng hai người bạn ông rồi sẽ gặp nhau, còn ông sẽ tìm ra vùng đất mới. Cuối cùng ông gặp được dòng người đi theo đường bộ. Ông ở lại với họ.
Cô bạn tôi là người duy nhất đọc được lời trăn trối đi tìm doi cát trên một tảng đá khắc bằng con chữ nòng nọc vùi sâu dưới lớp đất của ngôi mộ tổ tiên.
Tất cả chúng tôi trong đoàn tham quan gồm những người ở hai vùng đất đứng lặng im giữa khi cô bạn tôi vừa thổn thức vừa nhắc lại: “Đó. Trong tiếng thì thầm của biển có cả tiếng trở mình của lá. Anh không nghe thấy sao?”.
Lời của doi cát:
Một năm sau, một mình tôi trở lại và tình cờ nghe được lời doi cát:
Họ sống trong bi kịch của số phận. Toàn bộ nỗi bất hạnh là họ đã chôn cứng cuộc đời mình trên vùng đất hẻo lánh, quạnh quẽ và bấp bênh sóng nước.
Lẽ ra họ phải đi và về trên một quần thể đất đai rộng lớn để có được cơ may khai phá những con đường.
Ta cầu nguyện cho hạnh phúc của họ.
Khi nghe lời ấy, tôi chợt thức tỉnh.
Đào Ngọc Chương, sinh năm 1953 tại Quảng Nam. Tiến sĩ Ngữ văn. Giảng viên chính. Giảng dạy tại Khoa Ngữ văn và Báo chí từ năm 1992 đến năm 2007. Hiện công tác tại Ban Thanh tra Đào tạo Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.