29032024Fri
Last updateWed, 27 Mar 2024 8pm

Đào Duy Anh – Học giả uyên thâm, nhà giáo đáng kính

Trần Hữu Tá(*)

TÓM TẮT

Học giả, nhà giáo Đào Duy Anh đã có những cống hiến đặc biệt xuất sắc cho văn hóa dân tộc. Trong suốt 60 năm cầm bút, ông để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị. Đường đời lúc có thuận, lúc nghịch, khi bình yên khi sóng gió nhưng thầy vẫn luôn giữ được phong cách sống an nhiên tự tại, thực hiện bằng được kế hoạch học tập và nghiên cứu của mình. Ông chính là một trong những tấm gương cho thế hệ chúng tôi về ý chí, tinh thần phấn đấu lặng lẽ và quyết liệt để hoàn thiện nhân cách cũng như tài năng.

          

            Năm 1956, khi mới đặt chân vào giảng đường đại học, anh chị em sinh viên khoa Văn chúng tôi – cả Sư phạm và Tổng hợp cùng lên lớp chung – may mắn được học một số buổi về Lịch sử cổ đại Việt Nam do thầy Đào Duy Anh lên lớp. Bị cuốn hút bởi nội dung uyên bác và cách giảng dạy điềm đạm, cẩn trọng của thầy, một vài người chúng tôi hễ có dịp là tranh thủ lén dự nghe các buổi giảng khác của thầy cho sinh viên khoa Sử. Gần 60 năm đã qua đi, chúng tôi vẫn nhớ mãi thầy, cũng như không thể quên được những người cha tinh thần của mình: các giáo sư Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Trương Tửu, Nguyễn Lương Ngọc, Trần Văn Giàu… Những học giả khả kính này luôn luôn là gương sáng cho thế hệ chúng tôi về ý chí, tinh thần phấn đấu lặng lẽ và quyết liệt để hoàn thiện nhân cách cũng như tài năng.

           Có người bảo quê thầy ở Thanh Hóa, hóa ra không phải. Gần thầy mới được biết nguyên quán của thầy là Hà Đông, làng Khúc Thủy, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay thuộc Hà Nội). Do nghèo, và muốn đổi đời nên gia đình chuyển vào Thanh Hóa từ đời ông nội. Dù gia cảnh không khấm khá hơn bao nhiêu nhưng ông bà thân sinh của thầy vẫn hết sức tằn tiện để có tiền cho con ăn học. Sáu năm học chữ Hán, 11 tuổi mới vào trường tiểu học, nhưng 19 tuổi thầy đã tốt nghiệp trường Quốc học Huế.

            Sống trong hoàn cảnh nô lệ, như mọi thanh niên trí thức chân chính khác, Đào Duy Anh hăng hái tham gia các phong trào yêu nước chống Pháp. Thầy gần gũi, học hỏi cụ Phan Bội Châu. Thầy cộng tác mật thiết với cụ Huỳnh Thúc Kháng – Chủ nhiệm báo Tiếng Dân – và được cụ giao làm Thư ký tòa soạn. Hai mươi ba tuổi (1927) thầy tham gia thành lập đảng Tân Việt – một tổ chức cách mạng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, là “nhóm chính trị tự do cấp tiến”, “chỉ muốn đấu tranh giải phóng Việt Nam, theo chủ nghĩa gì, sau sẽ hay” (xem Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch). Trong ban thường vụ của tổ chức này có nhà cách mạng sau này rất nổi tiếng: ông Phan Đăng Lưu. Đào Duy Anh được cử làm Tổng bí thư của Tân Việt cách mạng đảng.

            Louis Marty, quan chức thực dân khét tiếng tàn ác của Pháp đã ra tay đàn áp tổ chức chính trị này. Thầy cùng người vợ chưa cưới – bà Trần Như Mân – bị bắt giam trong hơn một năm. Cuối năm 1930 hai người cùng được phóng thích với cái án treo ba năm tù. Từ đấy, trong không khí khủng bố ngột ngạt của chính quyền thuộc địa, Đào Duy Anh chuyển hẳn sang hoạt động văn hóa với một tâm niệm: góp phần nâng cao dân trí. Xuất phát từ động cơ cao đẹp ấy, thầy đã lấy bút hiệu là Vệ Thạch. Như thầy đã tâm sự “Tôi xem biển học là mênh mông bát ngát, nên nguyện làm con chim Tinh Vệ, suốt đời ngậm đá lấp biển Đông, sẽ cố gắng cắp từng hòn sỏi mà mong góp phần vào công việc lấp bể học mênh mông bát ngát ấy” (Nhớ nghĩ chiều hôm, tr.33, Nxb Trẻ, 2000). Thế nhưng, sau Cách mạng tháng Tám 1945, trong không khí sôi nổi chung của cả nước, Đào Duy Anh tích cực nhập cuộc. Thầy nhận danh hiệu Giáo sư Đại học văn khoa (1945) và tham gia Ban vận động Đại hội văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (1946).

           Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, thầy hoạt động tại chi hội văn nghệ Liên khu IV (bao gồm các tỉnh Bắc Trung Bộ: Thanh Hóa – Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình). Mấy năm sau (1950) thầy ra Việt Bắc, công tác trong Bộ Giáo dục, phụ trách Ban Sử Địa trong Vụ Văn học Nghệ thuật của Bộ. Năm 1953, thầy trở lại với bục giảng, là giáo sư Sử học của lớp Dự bị đại học ở Thanh Hóa

            Tính đến lúc qua đời (1.IV.1988), trong hơn 60 năm, Đào Duy Anh say sưa, miệt mài lao động học thuật và đóng góp xuất sắc trong nhiều lĩnh vực văn hóa dân tộc, trong đó nổi trội hơn cả là các bộ môn Từ điển, Lịch sử và Dịch thuật.

           Cho đến nay, nói đến lĩnh vực từ điển – loại sách công cụ quan trọng hàng đầu - học giới vẫn phải trân trọng ghi công nhà từ điển học Đào Duy Anh. Ông đã biên soạn xong bộ Hán Việt từ điển (bốn vạn từ) lúc mới 27 tuổi, chỉ trong hơn một năm (in 1932). Bộ Pháp Việt từ điển qui mô đồ sộ hơn mà cũng chỉ sau gần 3 năm đã hoàn thành (in 1936). Đây là những cơ sở đầu tiên, rất cần thiết cho việc xây dựng hệ thống thuật ngữ chuẩn mực mà lúc đó trong đời sống văn hóa của xã hội ta còn rất thiếu. Bốn mươi năm sau, thầy lại cho công bố một bộ từ điển độc đáo, chuyên dụng: Từ điển Truyện Kiều (1974). Xin nói đến một kỷ niệm riêng về bộ Hán Việt từ điển. Bản in lần đầu (tập thượng, do nhà in báo Tiếng Dân ấn hành, tập hạ do nhà in Lê Văn Tân phụ trách) ra đời năm 1932. Còn nhớ, lúc học trung học đệ nhất cấp ở trường Nguyễn Trãi Hà Nội (1949-1953), hai thầy dạy Hán Văn của chúng tôi – cụ tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác và cụ cử nhân Trần Lê Nhân – khuyến khích học trò tìm mua bộ sách của cụ Đào. Nhưng kiếm đâu ra bộ sách quí hiếm ấy! Phải đến đầu năm 1952, anh em chúng tôi mới mừng rỡ chắt chiu từng đồng để mua cho được công trình này do nhà xuất bản Minh Tân (7, rue Guénégaud – Paris) tái bản. Đã hơn năm mươi năm trôi qua, giới Hán học cho ra đời một số bộ Từ điển Hán Việt khác, thế nhưng bộ sách 1198 trang, in gộp cả hai tập thượng hạ, bìa cứng bọc da màu mận chín đã trở thành ông thầy đáng kính, đáng yêu không một ngày xa cách của tôi. Vì giá trị khoa học đáng tin cậy của nó. Vì sự biên soạn công phu nghiêm cẩn của học giả Đào Duy Anh. Vì công sức hiệu đính kỹ lưỡng của hai vị nho học, hai nhà khoa bảng nổi tiếng – giải nguyên Phan Bội Châu và giải nguyên Lâm Mậu. Tôi tin bộ sách công cụ này sẽ tiếp tục là người bạn đường thông thái, người thầy đáng tin cậy cho bất cứ ai muốn nắm vững ngôn ngữ dân tộc, hiểu và vận dụng thành thạo chính xác nó trong giao tiếp xã hội, trong nói và viết, từ những bài làm thuở học trò đến những công trình qui mô, cao cấp.

            Khi cùng các học giả Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Hoài Thanh… nhận nhiệm vụ Giáo sư Đại học văn khoa tại Hà Nội (1946), thầy chuyên tâm nhiều hơn đến lĩnh vực lịch sử. Thực ra, trước đó Đào Duy Anh đã có những công trình nghiên cứu đặc sắc về lĩnh vực này. Đó là Việt Nam văn hóa sử cương (1938), Trung Hoa sử cương (1944) nhưng chỉ từ đây thầy mới dành nhiều thời gian, công sức vào chính sử. Ba công trình quan trọng nhất của thầy: bộ Cổ sử Việt Nam, 1955, tám chương, non bốn trăm trang), bộ Lịch sử Việt Nam (1957, 56 chương, hơn chín trăm trang) và bộ Đất nước Việt Nam qua các đời (1964, 15 chương, hơn năm trăm trang). Những công trình này không chỉ được giới trí thức trong nước hoan nghênh mà nhiều học giả thế giới cũng đánh giá cao. Viện Đông phương học (thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô) và Viện Khoa học Trung Quốc đã cho dịch và xuất bản rất sớm.

            Một lĩnh vực khác, thầy cũng đã có những đóng góp thầm lặng nhưng rất có ý nghĩa: dịch thuật và hiệu đính. Chỉ tính trong sáu năm, từ đầu năm 1958 đến lúc về hưu (1964), khi thôi chức Chủ nhiệm khoa Sử ở Đại học Tổng hợp Hà Nội vì có liên quan vào vụ Nhân văn Giai phẩm và chuyển về công tác ở Viện Sử học, thầy đã tham gia dịch và chịu trách nhiệm hiệu đính những bản dịch do các cụ nho học đã thực hiện. Đó là hàng loạt những tài liệu sử học rất quí của người xưa: Lam Sơn thực lục (của Nguyễn Trãi), Lịch triều hiến chương loại chí (của Phan Huy Chú), Phủ biên tạp lục (của Lê Qúi Đôn), Hổ trướng khu cơ (Đào Duy Từ), Gia Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức) v.v…tất cả trên dưới mười ngàn trang in. Trong hồi ký của mình, thầy “rất vui lòng đã có dịp phục vụ công việc nghiên cứu sử học một cách thiết thực như thế, ở trong không khí lặng lẽ của công việc âm thầm, xa hẳn cảnh náo nhiệt của các cuộc thảo luận bút chiến” (Sđd, tr.145), dù với thầy “đó chỉ là công việc tay trái”.

            Có lẽ cũng không cần nói thêm dài dòng về các công trình khác của thầy thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học xã hội. Chẳng hạn về triết học như Khổng Giáo phê bình tiểu luận (1943); về ngôn ngữ như Chữ Nôm, nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến (1975); về văn học như Khảo luận về Truyện Kiều (1958). Và tác phẩm cuối cùng, cuốn hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm (khởi thảo 1980, xuất bản 1988) của thầy khiến nhiều thế hệ người đọc xúc động về giọng kể từ tốn điềm đạm cũng như về thái độ trung thực, đúng đắn, bình tĩnh. Chúng ta hiểu được những chặng đường đời nhiều sóng gió cũng như con đường học thuật khá gai góc nhưng cực kỳ hấp dẫn của thầy, mới rõ vì sao thầy có được những cống hiến đặc biệt xuất sắc cho văn hóa dân tộc như đã kể trên. Trước hết, đó là vì cái chí, vì động cơ trong sáng cao đẹp mà thầy sớm xác lập từ thuở thanh niên và kiên trì theo đuổi trong suốt hơn 60 năm cầm bút. Vì vậy đường đời lúc có thuận, lúc nghịch, khi bình yên khi sóng gió nhưng thầy vẫn luôn giữ được phong cách sống an nhiên tự tại, thực hiện bằng được kế hoạch học tập và nghiên cứu của mình.

            Sau nữa, thầy đã nêu gương sáng về tinh thần, thái độ lao động học thuật. Không nơi nào nghe nói có sách quí mà thầy không tìm đến. Không có địa danh nào liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu mà thầy không gắng khảo sát thực địa bằng được, dù phải đạp hàng trăm cây số bằng chiếc xe cũ trên những con đường tiêu thổ kháng chiến thời chống Pháp. Vì vậy dịch Phủ biên tạp lục, thầy có tới 8 bản chép tay, kể cả bản của thư viện Bảo Đại ở Huế, bản của Viện Viễn Đông bác cổ (Hà Nội) và bản của kho sách dòng họ Cao Xuân (Nghệ An). Có dịp đến Quảng Ngãi, thầy đến những nơi có liên quan đến “chàng Lía”. Vào Hội An, thầy xác minh bằng được hai địa điểm ngoại thương quan trọng ở Đàng Trong là Phố Lở và Hội An, với tình hình buôn bán của người Trung Quốc ở đấy thời xưa. Đúng như Giáo sư Nguyễn Huệ Chi nhận xét “Trên phương diện nào kiến giải của ông cũng chi li thấu đáo, đi đến tận ngọn ngành sự việc, và luôn luôn lấy thực chứng làm nền tảng”(Từ điển văn học bộ mới, tr 378)

           Trong một đêm khó ngủ của tuổi 84, Đào Duy Anh đã nhớ lại hai câu thơ tâm sự của Nguyễn Du “Bất tri tam bách…” và thầy đã cảm hứng, bộc bạch tâm sự bản thân: “Ông hỏi đời sau ai khóc mình?/ Mà nay bốn bể lại lừng danh/ Cho hay hết thảy đều mây nổi/ Còn với non sông một chút tình”.

            Tình của thầy đối với lịch sử dân tộc và với văn hóa dân tộc, chúng ta ai cũng trân trọng. Và những trước tác vô giá của thầy chắc chắn không phải là phù – vân – mây – nổi. Chúng sẽ có chỗ đứng xứng đáng trong kho tàng học thuật của nước nhà. Thầy hết sức xứng đáng với Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 năm 2000. Lẽ ra thầy được trao tặng đợt 1 mới thật hợp lẽ. Thầy cũng xứng đáng với sự đánh giá của Từ điển bách khoa Larousse (Pháp, 1968), “Đào Duy Anh là một tên tuổi lớn trong các nhà bách khoa toàn thư hiện đại”.

Nguồn: Tạp chí Văn hóa & Du lịch, số 26 (80), tháng 11.2015

 


(*)PGS.TS., Chủ tịch Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh.