Nhật Chiêu(*)
Ánh sáng lạ nhất trong thơ ca tiền bán thế kỷ hai mươi ở bán đảo Triều Tiên là HAN YONG-UN (1879-1944) và ở bán đảo Đông Dương là HÀN MẶC TỬ (1912-1940).
Thơ ca của họ vừa sâu thẳm những tố chất truyền thống Đông Á vừa dậy lên những làn sóng mới bất ngờ đến kinh ngạc.
Thoạt nhìn, Han Yong-un (Hàn Long Vân) và Hàn Mặc Tử là hai nhà thơ rất khác biệt ngoài yếu tố vừa kể trên.
Song, khi đặt thơ họ bên nhau thì trong ánh sáng tương chiếu, ta sẽ khám phá ra những điệu thơ rất đồng.
Sự đồng điệu lớn nhất của họ thể hiện ở “niềm im lặng” trong thơ.
Thơ của họ là một thứ ngôn ngữ đang tìm kiếm niềm im lặng.
Phong trào Thơ Mới của hai xứ (Hàn và Việt) có nhiều tài năng. Đương thời họ nổi bật hơn hai nhà thơ họ Hàn mà ta đang đối chiếu.
Nhưng rồi ta biết, bây giờ và tương lai, hai cái bóng của Hàn Long Vân và Hàn Mặc Tử ngày càng lớn dậy trong nền thơ ca Đông Á.
Niềm im lặng trong thơ họ tỏa sáng. Đó là niềm im lặng tạo nên ý nghĩa (a kind of silence of signification) nói theo Roland Barthes.
* * *
Han Yong-un là một thiền sư, một chiến sĩ, học giả, nhà văn, nhà tiên tri, nhưng trước tiên và trên hết, ông là một nhà thơ.
Ông qui y năm 1905 với pháp hiệu là Manhae (Vạn Hải).
Hàn là một trong 33 chí sĩ lãnh đạo phong trào độc lập của Hàn Quốc năm 1919 chống ách đô hộ của Nhật.
Ông viết nhiều tiểu luận về Phật giáo và sáng tác với nhiều thể văn khác nhau.
Kiệt tác của Hàn Long Vân là tập thơ Niềm im lặng của Tình yêu (Nim ui chimmuk, 1926), niềm tự hào của thơ mới Hàn Quốc, gồm 90 bài thơ xuôi (thơ tự do).
Khác hẳn Hàn Long Vân, nhà thơ Hàn Mặc Tử có một cuộc đời ngắn ngủi và bệnh tật.
Hoạt động chủ yếu của Tử là viết báo và làm thơ, ngoại trừ thời gian ngắn có quan hệ với chí sĩ Phan Bội Châu ở Bến Ngự (vì thế mà bị Pháp xóa tên khỏi danh sách du học).
Tử vướng phải bệnh phong từ năm 24 tuổi. Bốn năm sau, ông vào nhà thương phong Quy Hòa. Dù vậy, Tử có cuộc đời tình ái thuộc vào loại nổi tiếng nhất trong thơ ca Việt Nam.
Nhưng đối với đời, Tử là Người Thơ, chỉ thế mà thôi. Như lời Chế Lan Viên, “cho dù Hàn Mặc Tử có cuộc đời bệnh tật, cuộc đời tình duyên, cuộc đời cách mạng ly kỳ dữ dội gấp trăm lần, nhưng ba hòn núi cao ấy chụm lại không đẻ ra được một cái cây, một bóng mát thơ nào, ba hòn núi ấy không đẻ ra được con chuột nhắt thơ nào thì việc gì ở đây ta phải dông dài. May thay Tử là một đỉnh cao, lòa chói trong văn học của thế kỷ, thậm chí qua các thế kỷ” (Hàn Mặc Tử, anh là ai?).
Tài thơ ấy bộc lộ qua các thi phẩm nổi tiếng Gái quê, Chơi giữa mùa trăng, Đau thương, Xuân như ý.
Tại sao Hàn Long Vân gọi tập thơ của mình là Niềm im lặng của Tình yêu (Nim ui chimmuk)? Chữ NIM (Tình yêu) mà nhà thơ dùng ở đây là một đại từ đa nghĩa, nhiều chiều, ta sẽ bàn sau.
Trước tiên, là “niềm im lặng” (chimmuk: trầm mặc).
Trước mọi tiếng ồn, âm thanh tất nhiên là im lặng. Phật được gọi là MUNI, người im lặng.
Theo dịch giả Francisca Cho, niềm im lặng ở đây có thể được diễn giải như sau:
“Niềm im lặng tìm kiếm một bờ cõi nghệ thuật xuyên lịch sử để nói với tất cả những ai đang ước vọng. Manhae từng dùng tất cả thể loại văn chương có sẵn, kể cả chính luận và tiểu thuyết từng kỳ. Tuy nhiên, chính là thơ ca của niềm im lặng khởi từ nguồn triết lý Phật giáo dung hợp với tình thế lịch sử riêng biệt của mình mà nâng lên thành cuộc trầm mặc trong động lực phổ quát của ước ao. Niềm im lặng vận hành xuyên qua lịch sử cá nhân để tự vượt mình mà đến với sự thấu thị tôn giáo và thẩm mỹ”[1]
Hàn Mặc Tử cũng thường nói về người thơ như một “người nín lặng”. Trong bài tựa Thơ Điên năm 1938, ông viết:
“Người thơ chính là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo.
Trên đầu người là biển cả vô biên và vô lượng… Người nín lặng để mà nghe tiếng trăng reo vang vang như tiếng châu báu vỡ lở”.
Người thơ im lặng đến mức Tử phải tự hỏi:
“Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ?”
(Cuối thu)
Và nếu như Hàn Long Vân khởi đi từ nguồn triết lý Phật giáo dung hợp với tình thế lịch sử của mình thì điều đó cũng không xa trường hợp Hàn Mặc Tử.
Trong bài tản văn Chiêm bao với sự thực, Tử viết:
“Và tôi sẽ ký thuyết minh một cách rất nhà Phật là sắc cũng như không, chết cũng như sống, gần cũng như xa và hư cũng như thực…”.
Tất nhiên, tư tưởng Thiền của Hàn Long Vân và tư tưởng tôn giáo của Hàn Mặc Tử có nhiều điều khác biệt.
Thiền của Long Vân kết hợp với tinh thần dân chủ và tự do hiện đại.
Tư tưởng tôn giáo của Tử là phối sắc của Phật, Đạo và Chúa.
Tất cả điều đó lọc qua thần trí cá nhân của hai nhà thơ, tạo nên thơ ca của niềm im lặng.
Niềm im lặng ấy trong văn chương là một cái gì rất cũ mà cũng rất mới. Thơ Vương Duy đời Đường, thơ văn Lý Trần ở Việt Nam…
Văn chương đương đại cũng đi đến niềm im lặng ấy theo cách thế của mình. Chẳng thế mà Gerard Genette khi nói về Những niềm im lặng của Flaubert đã quả quyết rằng:
“Ngôn ngữ chỉ tự mình trở nên văn chương phải trả giá bằng cách tự mình chết đi, vì nó phải đánh mất ý nghĩa của nó để đạt tới niềm im lặng của tác phẩm nghệ thuật. Hơn nữa, cuộc đảo hoán này, cuộc xoay chuyển ngôn ngữ thành niềm im lặng này đối với chúng ta hôm nay, là yếu tính của văn chương”[2]
Nhưng im lặng cũng như chân không trong văn chương không phải là sự bất động, cái chết hay sự trống rỗng.
Đây là một niềm im lặng mà Han Yong-un gợi nên:
Lá ngô đồng bay lặng lờ qua không gian lặng gió – đó là dấu chân ai?
Tương tự thế, đây là câu thơ của Tử:
Ai đi lẳng lặng trên làn nước…
Không nói không rằng nín cả hơi!
Niềm im lặng mà cả hai tạo nên là cả một thế giới huyền bí.
“Dấu chân ai” của Long Vân và “ai đi” của Tử vừa có vừa không, vừa hư vừa thực. Ai ở đây không chỉ là sáng tạo của nhà thơ mà còn là phải nhận được hồi đáp sáng tạo của người đọc.
Nói theo Jeon Bo Sam, viện trưởng viện nghiên cứu tư tưởng Han Yong-un, thì:
“Niềm im lặng ở đây không đơn giản là thiếu vắng tiếng động, mà đó là một tiếng kêu mới, vang ngân đến tận đôi tai của chúng ta”[3]
Tiếng kêu mới (un nouveau cri)! Phải rồi, đó là tân thanh của Nguyễn Du. Tiếng kêu mới của mọi nhà thơ xứng danh thi sĩ. Nhà thơ, đó là người biết tạo nên khúc tân thanh từ những niềm im lặng của con người.
Niềm im lặng ở đây là một nghịch lý. Niềm im lặng là cái ẩn giấu trong ngôn ngữ, là cái không nói ra. Và khi ta cảm nhận được niềm im lặng ấy rồi thì ta cũng sẽ tìm thấy một thứ ngôn ngữ ẩn giấu trong đó. Cái ẩn giấu là cái vô hình. Ngôn ngữ dừng lại trong im lặng để cái vô hình ấy lan dần. Từ đó mà niềm im lặng cất lên tiếng hát.
Thơ ca như vậy biến nhà thơ và người đọc trở thành kẻ chiêm nghiệm và trầm mặc.
Chúng ta có thể tìm kiếm niềm im lặng ấy qua những ngấn tích sau đây trong thơ Han Yong-un là Hàn Mặc Tử:
- Niềm im lặng của Nim và Ai
Thơ Han Yong-un là cuộc trò chuyện bất tận với Nim. Đó là Nim bên trong tâm hồn ông. Nên cuộc trò chuyện ấy biến thành cuộc độc thoại nội tâm.
Hàn Mặc Tử cũng thường trò chuyện với một đối tượng trữ tình là Ai. Ai đó là người yêu dấu, là một hồn linh huyền bí mà cũng có thể là một cái tôi khác của nhà thơ.
- Niềm im lặng của Trăng và Thơ
Đây là niềm im lặng của thiên nhiên và cái đẹp. Hình ảnh thiên nhiên vừa phù du vừa vĩnh cửu, vừa bình yên vừa biến ảo luôn luôn được biểu hiện trong ngôn ngữ của hai nhà thơ. Và bản thân thơ ca, người thơ, bản thân cái đẹp cũng trở thành tiêu điểm trong cuộc hành trình của họ.
- Tình yêu của niềm im lặng
Niềm im lặng sâu thẳm nhất là cái chết. Đối với hai nhà thơ tâm linh này, cái chết không đối lập với đời sống. Hơn nữa, trong cái chết và im lặng có đời sống và tình yêu.
1. NIỀM IM LẶNG CỦA NIM VÀ AI
Tập thơ Niềm im lặng của Nim xuất hiện vào những năm 20 thế kỷ trước đáp ứng đòi hỏi của một thực tại đang cần một tiếng thơ mới ở Hàn Quốc.
Tuy phong trào Thơ Mới đã được thiết lập từ năm 1908 với bài Từ biển cả đến trẻ thơ của Choe Namson, nhưng cả Choe cũng như các thi sĩ Chu Yohan, Kim Ok và Kim Sowol, dù sáng tạo nhiều bài thơ được mọi người yêu thích, cái trữ tình của họ vẫn thiếu chiều sâu tư tưởng, thiếu một triết lý giúp nó kết nối mộng và thực.
Với Niềm im lặng của Nim, Han Yong-un đã giải thoát cho dòng thơ đương đại đang có nguy cơ tắc nghẽn bằng một thứ thơ tự do mới lạ, vừa trữ tình vừa tâm linh, vừa thực tại vừa huyền bí, mà chẳng cần mô phỏng các trào lưu văn học phương Tây.
Tất nhiên, không phải tác phẩm của họ không chịu ảnh hưởng từ bên ngoài. Bản dịch Gitanjali (Thơ Dâng) của R. Tagore phổ biến ở Hàn Quốc vào năm 1923 cũng như nhiều tập thơ khác của thi hào Ấn Độ đã gây cảm hứng nồng nhiệt; đó là thơ soi chiếu thực tại huyền bí bằng giọng điệu của tình yêu. Trong Niềm im lặng của Nim có thể nghe thấy dư vang của Gitanjali và Người giữ vườn.
Ở Ấn Độ, Tagore là một thánh sư (Gurudeva), còn ở Hàn Quốc, Han Yong-un là một cao tăng, một thiền sư.
Tập thơ Niềm im lặng của Nim với chín mươi bài thơ được soạn ra như để làm mới lại khái niệm Nim, một đại từ có ý nghĩa rất đặc biệt và biến hóa trong tiếng Hàn.
Trong thơ tình, Nim là người yêu, bạn tình. Trong thơ đạo lý, Nim là minh chủ, là nhà vua. Trong thơ tôn giáo, Nim là Phật, Chúa, Vĩnh cửu.
Có thể nói NIM vừa là chủ thể vừa là đối tượng trong tình yêu, là chính bản thân tình yêu. Do đó, đất nước, cuộc đời, cái linh thiêng… đều có thể gọi là Nim. Tùy trường hợp, có thể dịch Nim sang tiếng Việt là ngài, người, ai, anh, em…
Với Hàn, “đó là một điều ta ước vọng’.
Vậy thì Nim là du khách, ta là con thuyền:
Ta là con thuyền
Em là du khách
Em bước lên ta bàn chân bùn lấm
Ta ôm em mà thầm lặng băng sông
Khi ta ôm em, dù sâu hay cạn
Dù nước kia chảy xiết thế nào
Ta vẫn không ngừng vượt sóng.
Khi em không đến, ta chờ từ bóng tối đến hừng đông,
Trong gió rét và trong mưa tuyết
Sang sông rồi, em ra đi không quay nhìn từ biệt
Chẳng hề chi, bởi ta biết sớm muộn gì em cũng đến
Ngày mỗi ngày ta đợi, thân thế hẳn già hơn
Ta là con thuyền
Em là du khách
(Bài 14)
Đó là một người khách huyền bí. Gần cũng như xa. Có mặt cũng như vắng mặt. Người khách của niềm im lặng. Ta là kẻ đưa đón, kẻ chờ đợi. Ta sẽ già. Còn người khách thì vĩnh cửu.
Người đọc có quyền nhìn thấy người khách như mình muốn, như bạn tình, như lịch sử, như lý tưởng, như thần linh…
Và có thể đọc bài thơ như một độc thoại nội tâm.
Vậy thì, Nim là của ta nhưng Nim cũng thuộc về mọi người. Trong bài Ngộ nhận, Nim lại là một vầng trăng non đang lượn lờ trên cành cây cao. Và khi ta năn nỉ Nim hãy xuống đi cho thì nàng nói:
Nào phải em không muốn xuống đâu,
Nhưng em là Nim của mọi người, anh ạ
Phải đâu muốn từ chối lời anh mời gọi ngát thơm hơi…
(Bài 26)
Sau đó, vầng trăng non im lặng nhìn ta qua cửa sổ. Và trái tim ta run lên khiếp sợ.
Cuối bài Niềm im lặng của một người tình là một điệu buồn:
Tình ta đi rồi nhưng ta đâu muốn
Bài tình ca ta hát phong kín niềm im lặng của tình yêu
(Bài 1)
Từ đại từ NIM của Hàn Long Vân đến với đại từ AI của Hàn Mặc Tử dường như là một con đường của im lặng và đau thương.
Bắt đầu bằng một “ai” đầy quyền lực của tình yêu:
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
(Những giọt lệ)
Kẻ mà có thể đày đọa tôi, ném tôi xuống “dưới trời sâu” chỉ có thể là nữ chúa của cõi tình.
Và đây là ai như một nghệ sĩ thượng thặng, sáng tạo từ lụa trời, chim bay, mây, lệ đến cô liêu, thu vàng, sao lạ… mà chờ đợi một tri kỷ là người thơ.
Lụa trời ai dệt với ai căng
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn…
…
Thu héo nấc thành những tiếng khô
Một vì sao lạ mọc phương mô?
Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ?
Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ?
(Cuối thu)
Niềm im lặng của mùa thu vừa được sáng tạo với bãi cô liêu, với buồn phơn phớt, với vắng trơ vơ, với cây mảnh khảnh được thể hiện qua “những tiếng khô”, những âm thanh khô, những điệu hát khô.
Rồi “ai” chính là hồn để tôi dắt đi chơi, dẫn hồn đi suốt đêm. Hai chúng tôi cùng im lặng, cùng gào thét. Gọi là chúng tôi nhưng nào biết ai là ai.
Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết,
Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi
Môi đầy hương tôi không dám ngậm cười,
Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng…
…
Hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức.
…
Hồn là ai? Là ai? Tôi không hay,
Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay,
Hồn mệt lả mà tôi thì chết giấc.
(Hồn là ai?)
Ta muốn níu hồn ai đương hiển hiện
Trong lòng và đang tắm máu sông ta.
Ta muốn vớt ai ra ngoài sóng điện,
Để nhìn em sắc mặt với làn da.
(Biển hồn ta)
Đó chỉ là một ảo giác? Không đâu, đó là một thứ “ai” chỉ có trong thơ Hàn Mặc Tử. Cái ai của đau thương tuyệt đỉnh. Làm sao vớt được cái đau thương? Với Tử, toàn bộ thực tại là đau thương.
Đến mức không còn ai hay ta nữa. Chỉ còn lại cái đau thương. Lẳng lặng, ngậm miệng, nín hơi.
Ai đi lẳng lặng trên làn nước,
Với lại ai ngồi khít cạnh tôi?
Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng,
Không nói không rằng nín cả hơi!
Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng
Một vũng cô liêu cũ vạn đời
(Cô liêu)
Chỉ còn lại im lặng một vũng cô liêu. Không còn ai nữa. Người thơ như chưa từng ra đời. Ngôn ngữ trở về với im lặng, với trinh bạch, với cái chết.
Để chỉ còn lại âm thanh của linh hồn:
Tiếng rú hồn tôi xô vỡ sóng
Rung tầng không khí, bạt vi lô.
(Cô liêu)
Cũng trong đêm cô liêu, nhà thơ Han Yong-un cảm thấy:
Trên trời không có trăng
Dưới đất thì lặng gió
Cõi người ta im lặng
Cả tôi cũng vô hồn.
Vũ trụ là cái chết?
Đời là giấc ngủ ư?
…
Vũ trụ là cái chết?
Đời là nước mắt ư?
Nếu đời là nước mắt
Sự chết là tình yêu hay sao?
(Bài 6)
Cái đau thương của Hàn Mặc Tử và niềm im lặng của Han Yong-un gặp nhau trong đêm cô liêu.
2. NIỀM IM LẶNG CỦA TRĂNG VÀ THƠ
Trăng là ánh sáng, là hào quang của thơ Hàn Mặc Tử. Trong một đêm xuân đầy trăng, nhà thơ cảm thấy thiên nhiên “giàu sang hơn Thượng Đế”:
Trời hôm nay bình an như nguyệt bạch
Đường trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay…
…
Ta chấp tay ta lạy quì hoàn hảo
Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian
Để vừa dâng, vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế.
(Đêm xuân cầu nguyện)
Trăng là ngôi vị tối thượng trong thơ Tử. đó không còn là thơ nói về trăng. Đó là thơ viết thẳng lên trăng. Đó là ngôn từ hóa trăng:
Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng…
(Đêm xuân cầu nguyện)
Dù thơ Hàn Long Vân không có nhiều trăng nhưng ông cũng hình dung trăng như là Nim của mọi người, một Chúa Tình. Ở đây, trăng chính là tình yêu:
Xuống đi em, ta sợ
Sao em cứ lượn lờ trên cành cao đó?
…
Vầng trăng non trên cành liễu cười nhẹ đáp:
“Nào phải em không muốn xuống đâu,
Nhưng em là Nim của mọi người, anh ạ…
(Bài 26)
Cũng có khi, Han Yong-un hình dung trăng như một người tình nam nhi:
Vầng trăng chiếu sáng, em nhớ anh quá.
…
Năm trước, em thấy mặt anh như trăng:
Và đêm nay trăng hóa thành mặt anh đấy.
Bởi mặt anh là trăng, mặt em cũng thế…
(Bài 58)
Rất giống tứ thơ của Tử:
Không gian đầy đặc toàn trăng cả:
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng
(Huyền ảo)
Người trăng ăn vận toàn trăng cả
(Say trăng)
Bỗng đêm nay, trước cửa bóng trăng quỳ,
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu…
…
Em, hãy nhập hồn em trong bóng nguyệt.
(Hãy nhập hồn em)
Trong tâm trí cô liêu của Hàn Mặc Tử có ba ngôi tối thượng, đó là
TRĂNG – THƠ – TÌNH
(ĐAU THƯƠNG)
Trong đau thương, ông sống với tam vị nhất thể đó, với ba nguồn mạch đó.
Đo từ ngọn cỏ tới cung trăng,
Những sợi hào quang vạn thước vàng.
Bắt! Bắt! Thơ bay trong gió loạn
Để xem tình tứ nặng bao cân.
…
Tôi ước ao là tôi ước ao,
Tình tôi vô lượng sẽ dâng cao
Như bông trăng nở, bông trăng nở
Những cánh bông thơ trắng ngạt ngào.
(Ước ao)
Dường như trong thơ Han Yong-un, theo tôi thì tam vị nhất thể nếu muốn có thể hình dung như sau:
NGÃ – TÌNH YÊU – VŨ TRỤ
( NIM )
Han Yong-un từng viết:
“Niềm tin Phật giáo là một niềm tin vào ngã. Đó là một ngã thấu nhập vô số ngã khác, sự vật khác. Nói rõ hơn, mỗi người đều có khả năng cá thể hóa vũ trụ đồng thời vũ trụ hóa cá thể”[4]
Chính vì thế mà thơ ca Han Yong-un vừa chan chứa tính siêu nghiệm tôn giáo vừa nóng ấm tính cụ thể lịch sử.
Cuộc đời, tôn giáo và thơ ca của Hàn Mặc Tử cũng vậy, được bọc trong một thứ ánh sáng rất lạ nhưng sống động niềm đau thương nhân thế rất thật:
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm,
Cho trăng ngập trăng dồn lên tới ngực…
(Hồn là ai?)
Han Yong-un cũng thể hiện rất thực một linh hồn đau thương:
Linh hồn tội nghiệp cháy trong lửa cuồng
Tìm thế giới mới trong niềm tuyệt vọng đóng băng
Ôi bông hoa sa mạc
Ôi trăng đầy của đêm không trăng
Gương mặt tình yêu của tôi ơi!
(Bài 33)
Cả hai nhà thơ dắt linh hồn đến đối diện với cái chết, với một ánh-trăng-không-trăng, với niềm im lặng, với THƠ.
Theo Han Yong-un:
Hiện hữu của Tình yêu, cả đôi mắt và tâm hồn của Nim cũng không biết nổi…
Bí ẩn của Tình yêu thì chỉ có …giấc ngủ của Nim và mơ tưởng của thi nhân mới biết được mà thôi
(Bài 29)
Hàn Mặc Tử:
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu…
(Thánh nữ đồng trinh Maria)
Thơ ca của Yong-un và Tử có thể nói là một thứ thơ ca tự ý thức, một thứ thơ ca tự qui chiếu. Thơ và Người Thơ nhiều lần trở thành đề tài, trở thành hình tượng trong thơ ca của họ. thơ tự soi gương, tự phản ánh như châu ngọc trong lưới trời Đế Thích.
Hàn Mặc Tử viết:
Thuở ấy càn khôn mới dựng nên,
Mùa thơ chưa gặt tốt tươi lên,
Người thơ phong vận như thơ ấy
Nào đã ra đời ngọc biết tên.
(Xuân đầu tiên)
Còn HanYong-un:
Ánh tà dương như bàn tay ngọc đang mơn trớn lòng trời vô tận
Như gót sen vàng dạo biển vô biên, đó là bài thơ ai?
(Bài 3)
Thơ hay người thơ ở đây không chỉ là ngôn ngữ mà còn là im lặng. Hơn nữa, đó còn là hiện tượng của sáng tạo, hiện tượng của khởi nguyên, hiện tượng của vô tận.
Thơ của họ đầy những trầm tư mặc tưởng về bản thân hiện tượng thơ ca.
Đó là thơ của thơ.
3. TÌNH YÊU CỦA NIỀM IM LẶNG
Tình yêu của niềm im lặng là tình yêu của vô biên và vĩnh cửu. Đó cũng là tình yêu của cái chết, điều mà Han Yong-un diễn đạt rất tinh tế như sau:
Hãy đến đây trong cánh tay em, bờ ngực em dịu mềm chờ đón.
Nếu ai đuổi bắt anh, hãy tựa đầu vào ngực em.
Dù dịu dàng như nước, nó là gươm vàng và khiên thép chở che anh
Dù ngực em có tơi bời dưới vó ngựa như hoa, mái đầu anh cũng không rơi khỏi nó…
Hãy đến đây, vào tận cái chết của em, cái chết chờ anh đến
Nếu ai đuổi bắt anh, hãy lánh đằng sau cái chết của em
Trong cái chết, hư không và vạn năng là một.
Tình yêu của cái chết là vô biên vĩnh cửu.
…
Kẻ đuổi bắt nào có thể bắt được anh.
Đến đi. Đến lúc rồi đấy. Đến đi anh!
(Bài 85)
Vào tận cái chết của cô gái cũng là một tứ thơ của Hàn Mặc Tử nhưng không phải là trốn lánh một kẻ đuổi bắt nào, mà “cốt để dò xem tình ý lạ”:
Xác cô thơm quá, thơm hơn ngọc,
Cả một mùa xuân đã hiện hình.
Thinh sắc cơ hồ lưu luyến mãi,
Chết rồi, xiêm áo trắng như tinh.
Có tôi đây hồn phách tôi đây,
Tôi nhập vào trong xác thịt này
Cốt để dò xem tình ý lạ
Trong lòng bí mật ả thơ ngây
(Cô gái đồng trinh)
Và nhà thơ khám phá được điều gì? “Té ra nàng sắp sửa yêu ta”. Bí mật của cái chết ấy là có một tình yêu sắp sửa. Khi Nàng ngủ, Nàng chết thì như Nim của Han Yong-un, đó là lúc bí ẩn của tình yêu mới thể hiện. Cả một mùa xuân đã hiện hình!
Càng đọc càng hai nhà thơ họ Hàn, càng thấy ánh sáng kỳ lạ của họ tương chiếu, một điều đáng kinh ngạc!
Tình yêu của niềm im lặng cũng có thể là tình yêu cách xa hàng thế giới, tình yêu của mộng, một tứ thơ rất quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử và Han Yong-un.
Hàn Mặc Tử viết:
Anh đứng cách xa hàng thế giới,
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
(Lưu luyến)
Ôi muôn năm! Giấc mộng đã đời chưa?
Lúc ấy sóng triều rên rỉ chưa bưa,
Cứ nhắm mắt, cứ yêu nhau như chết.
(Đôi ta)
Một mai kia ở bên khe nước ngọc,
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
(Duyên kỳ ngộ)
Với Han Yong-un, tình yêu của niềm im lặng thể hiện bằng nghịch lý, những nghịch lý tựa công án Thiền:
Giọng nói em là “im lặng” chứ?
Khi em ngừng hát, tôi nghe giai điệu sáng trong hơn
Giọng em là “lặng im”.
Gương mặt em là “bóng tối” phải không?
Khi tôi nhắm mắt tôi lại, gương mặt em tôi thấy sáng ngời hơn!
Gương mặt em là “bóng tối”.
Cái bóng của em là “ánh sáng” ư?
Sau khi trăng lặn rồi, bóng em chiếu vào khung cửa tối.
Bóng của em là ánh sáng, em ơi!
(Bài 63)
Chỉ trong niềm im lặng, tình yêu mới có thể hiện lên như giai điệu không giai điệu và ánh sáng không ánh sáng. Niềm im lặng là một phương tiện thiện xảo để tâm truyền tâm.
Niềm nghịch lý ấy cũng phảng phất trong thơ Hàn Mặc Tử:
Càng xa nhau càng thấy được gần nhau
(Đánh lừa)
Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí
Và trong tay nắm một nạm hào quang…
(Thánh nữ đồng trinh Maria)
Niềm nghịch lý ấy gắn với thân thế của ông, chứng bệnh của ông đến nỗi ông từng gọi tập “Đau Thương” của mình là “Thơ Điên”.
Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại, rồ dại!
Ta đi thuyền trên mặt nước lòng ta.
Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại, rồ dại!
Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta!
(Biển hồn ta)
Đêm nay ta khạc hồn ra khỏi miệng
Để cho hồn đỡ bớt nỗi bi thương
(Hồn lìa khỏi xác)
Hàn Mặc Tử trải nghiệm đau thương bằng cả hồn lẫn xác, bằng cả điên lẫn tỉnh, bằng cả mơ lẫn thực. Thơ được phóng xuất ra từ đấy, được phóng xuất ra như thế. Trong ngôn ngữ và cả trong im lặng.
Nguồn thơ đó băng ra từ tiếng kêu thống thiết và lâm lụy của đời mà vẫn đầy yêu thương.
Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế.
(Thánh nữ đồng trinh Maria)
Thơ ca Han Yong-un biến niềm im lặng thành một ngôn ngữ mới, thành bóng tối, thành ánh sáng, thành tình yêu, thành cái đẹp.
Thế giới của hai nhà thơ tạo dựng bằng truyền thống tâm linh phương Đông lẫn phương Tây, bằng phương tiện thiện xảo và hình thức tự do của văn chương hiện đại, bằng tình yêu vũ trụ tương lai.
CHÚ THÍCH
Tất cả thơ Han Yong-un trích dẫn trong bài viết đều do người viết chuyển ngữ sang tiếng Việt dựa vào các bản Anh dịch và Pháp dịch sau đây:
- Le Silence de Nim, bản dịch của Kim Hyeon-ju và Pierre Mesini, Editions Autres Temps, Seoul, 1996.
- Meditations of the lover, bản dịch của Younghill Kang và Frances Keely, Yonsei University Press, Seoul, 1970.
- Love’s silence and other Poems, bản dịch của Jaihiun Kim và Ronald B. Hatch.
- Everything yearned for, bản dịch của Francisca Cho, Wisdom Publications, USA, 2005.
- The silences of love, bản dịch của Sammy E. Solberg, The University Press of Hawaii, 1978.
Ngoài năm bản dịch Anh, Pháp trên, chúng tôi có tham khảo hai bản Việt dịch:
- Tìm hiểu tập thơ Niềm im lặng của tình yêu của Bùi Phan Anh Thư, trường Đại học Dân lập ngoại ngữ -tin học TP. HCM, 2002 (GV hướng dẫn: Phan Nhật Chiêu. Đây là công trình nghiên cứu và dịch đầy đủ tập Niềm im lặng của tình yêu đầu tiên ở Việt Nam)
- Sự im lặng của tình yêu, bản dịch của Lê Đăng Hoan, NXB Văn học, Hà Nội, 2006. Dịch giả chuyển ngữ 80 bài, để lại 10 bài không dịch.
[1] Francisca Cho (dịch và giới thiệu), Everything yearned for: Manhae’s poems of love and longing, Wisdom Publications, USA, 2005, trang 131, 132.
[2] Gerard Genette, Les Silences de Flaubert. Dẫn theo bản Anh dịch Madame Bovary, Bantam classic, 2005. Trang 473.
[3] Jeon Bo Sam (giới thiệu), Le silence de Nim, Editions Autres Temps, 1996, trang 20.
[4] Nae ka mitnun Pulgyo (Những niềm tin Phật giáo của tôi), dẫn theo Francisca Cho (như chú thích 1, trang 123)