Những nhà văn nổi tiếng của Colombia là Simon Bolívar, Camilo Torres, Antonio Narino, Francisco de Paula Satander, José Eusebio Caro, José Asuncíon Silva, Guillermo Valencia. Ở thế kỷ 20, Colombia có nhà văn Tomás Carrasquilla viết về người dân miền núi Antioquia, José Estuacio Riviera viết về rừng rậm ở Amazon. Nhà văn Colombia nổi tiếng thế giới là Gabriel Garcia Marquez. Tiểu thuyết „Trăm năm cô đơn“ viết bằng tiếng Tây Ban Nha của Marquez là tiểu thuyết được nhiều người đọc nhất kể từ sau Đại chiến thế giới thứ hai.
Gabriel Garcia Marquez (sinh năm 1928) có 16 anh em. Ông là con cả của bưu tá làng Arakataka, tỉnh Colombia. Học xong trường dòng năm 1943, Marquez vào học trường Sipakuira ở ngoại ô thủ đô Bogota của Colombia. Tiếp theo ông học luật ở Đại học Colombia. Tác phẩm đầu tay của Marquez là truyện vừa „Người từ chối thứ ba“ (1947). Năm 1954, Marquez là phóng viên hải ngoại của tạp chí “Người quan sát“ ở Rom, Paris, Barcelona, Caracas, New York. Ông đăng 14 bài về việc tàu chiến Colombia chở hàng lậu. Ông trở thành “ngôi sao“ phóng sự. Tạp chí bị đóng cửa, ông thất nghiệp. Năm 1958, sau mười mấy năm chờ đợi, Marquez kết hôn với Mercedes Barcha Pardo- người mà ông đã yêu khi nàng mới 13 tuổi. Năm 1961, Marquez chuyển đến Mexico. Năm 1967 ông sang Tây Ban Nha, hiện nay ông đang sống ở Mexico City. Những tác phẩm khác của Marquez là truyện vừa „Ngài đại tá chờ thư“ ( El colonel no tiene quien le escriba, 1958); tiểu thuyết „Mùa thu của trưởng lão“ (El otono del patriarca, 1975); tiểu thuyết „Ký sự về cái chết được báo trước“ (Cronica of a death foretold, 1982); tiểu thuyết „Tình yêu thời thổ tả“ (El amor en los tiempos de colera, 1985); tiểu thuyết „Tướng quân giữa mê hồn trận“ (El general en su laberinto, 1989); tiểu thuyết „Tình yêu và lũ quỷ khác“ (Of love and other demons,1994) tự truyện „ Sống để kể lại“ (Vivir para contarla, 2003.
Hình tượng châu Mỹ Latinh
Khi bố mẹ chuyển từ làng Arakataka lên thành phố , cậu bé Garcia ở với bà ngoại, cậu được bà ngoại kể cho nghe vô vàn truyện cổ dân gian, truyền thuyết. Cậu còn được ông ngoại (đại tá về hưu) kể về tuổi trẻ chinh chiến của ông. Hình như những cái đó ăn sâu trong tâm khảm con người nhà văn Marquez. Chúng xuất hiện như những ngôi sao dẫn đường cho Marquez tìm về lịch sử dân tộc mình. Chúng thôi thúc nhà văn trong sáng tác tiểu thuyết „Trăm năm cô đơn“. Tiểu thuyết ám chỉ nỗi cô đơn của người da đỏ bản xứ ngay trên quê hương trong thời thực dân Tây Ban Nha. Vào một ngày tháng 1 năm 1965, Marquez nói với vợ:
- Anh đã tìm được giọng điệu rồi! Anh sẽ kể lại câu chuyện này với gương mặt khô cứng như gỗ của bà ngoại khi kể cho anh nghe những câu chuyện kỳ lạ.
Sau mười tám tháng miệt mài, Marquez hoàn thành tiểu thuyết „Trăm năm cô đơn“ (Gien anos de soledad, in năm 1967). Tác phẩm kể về các thế hệ của dòng họ Buendia trong ngôi làng hẻo lánh Macondo. Jose Arcadio Buendia cùng vợ là Ursala chạy trốn từ nơi khác tới Macondo. Buendo say mê nghiên cứu áp dụng những thành tựu của nền văn minh hiện đại. Khi Macondo phát triển thì cũng là lúc ngôi làng này bị lôi cuốn vào những biến động kinh tế, chính trị, nội chiến, sự xâm nhập của các công ty độc quyền Bắc Mỹ cùng những tội ác của chủ nghĩa đế quốc đối với thổ dân châu Mỹ. Trong bối cảnh ấy, mỗi người trong dòng họ Buendo rơi vào những cảnh đời khác nhau. Khi về già Jose Arcadio Buendia trở nên điên dại bị trói vào gốc cây sồi cho đến chết.Bà vợ Ursala khi về già thì bị mù và lẩm cẩm. Bà chết sau trận mưa kéo dài 11 tháng 2 ngày ở tuổi 115. Các thành viên khác trong gia đình cũng chết dần chết mòn: Con trai cả Jose Arcadio chết vì một phát đạn , con trai thứ hai Aureliano tự sát mà không chết. Cô em Amaranta chết khi vẫn còn trinh nguyên. Arcadio là con trai của Jose Arcadio chống lại chính phủ nên bị hành hình. Ba con của Arcadio là Jose Arcadio II, Aureliano II và Remedios –la-belle xinh đẹp. Aureliano II lấy Fernanda sinh ra Armaranta Ursula. Loạn luân xảy ra, khi Ursula yêu cháu trai mình và sinh ra một đứa con có đuôi mà giờ đây „nó chỉ là một bộ da phồng khô cứng mà loài kiến khắp nơi trên trái đất đã kéo tới... khiêng về tổ“. Cái đuôi kia báo hiệu sự tuyệt diệt của dòng họ Buendia. Đúng như lời tiên tri trên những tấm da thuộc viết bằng tiếng Pali của ông già Melquiades:sau 100 năm ngôi làng Macondo cùng những người trong dòng họ Buendia biến mất sau một cơn giông bão..
Tiểu thuyết kể về làng Macondo huyền thoại là biểu tượng của châu Mỹ La Tinh, lịch sử ngôi làng cùng dòng họ Buendia là biểu tượng cho lịch sử châu Mỹ Latinh. Trong tiểu thuyết có sự pha trộn giữa các yếu tố hiện thực và hoang đường. Làng Macondo chính là ngôi làng Arakataka -quê hương của Marquez. Nhân vật, sự việc trong tiểu thuyết cũng là người thật việc thật: cụ già bán sách cổ người Cantalunha chính là ông già Melquiades, Gabrien chính là tác giả, Anvaro chính là nhà văn Anvaro Cepeda Samudio.v.v. Ngôi làng tưởng tượng Macondo do Marquez hư cấu, sau 100 năm ngôi làng xưa nay là thành phố Macondo cùng dân và dòng họ Buendia „bị gió cuốn đi và bị xoá sạch khỏi ký ức của con người“. Lối viết này được các nhà lý luận văn học gọi là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magical realism).
Sách xuất bản năm 1967 và bán hết trong vòng một tuần, việc đó đã gây ra “chấn động văn học“. Về cuốn tiểu thuyết, Neruda nói:
- Có thể đây là phát hiện vĩ đại nhất bằng tiếng Tây Ban Nha kể từ thời Don Kijote (của đại văn hào Tây Ban Nha Cervantes).
Chủ tịch Fidel Castro của Cuba nhận xét người bạn thân của mình:
- Sự nghiệp văn chương của Marquez là bằng chứng xác thực nhất của tình người và lòng đa cảm. Các tác phẩm của ông mang đậm bản sắc châu Mỹ Latinh, toát lên sự giản dị của tâm hồn, lòng trung kiên và tình yêu vô bờ của ông đối với mảnh đất này (Colombia).
15 năm sau - năm 1982, Marquez nhận giải thưởng Nobel văn học vì tưởng tượng và hiện thực hòa vào nhau trong tiểu thuyết của Marquez , phản ánh cuộc sống và những xung đột của cả châu lục Mỹ Latinh.
LỜI BÌNH: Tây Ban Nha dùng chiến tranh chinh phục bốn nước Colombia, Ecuador, Venezuela, Panama trong thời gian 1508 tới 1525. Bệnh dịch, công cuộc khai thác và chính cuộc chinh phục này đã đưa lại một thảm họa về nhân chủng làm giảm sút số lượng người bản xứ. Từ đầu những giai đoạn Chinh phục và Thuộc địa, đã có nhiều phong trào phản kháng chống lại ách cai trị Tây Ban Nha, đa số chúng đều bị đàn áp. Sau mấy trăm năm là thuộc địa Tây Ban Nha, thế kỉ 19 đánh dấu một giai đoạn đầy biến động của lịch sử. Bốn nước này luôn ở trong tình trạng bất ổn: khủng hoảng chính trị và chế độ độc tài quân sự. Nửa đầu thế kỉ 20, các tướng lĩnh quân đội vẫn kiểm soát nền chính trị, thời gian cầm quyền của các vị tổng thống hợp hiến thường rất ngắn ngủi. Câu chuyện trong tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” đồng thời cũng là câu chuyện chung của cả Châu Mỹ Latinh. Với tư cách là kẻ chinh phục, Tây Ban Nha đo người da đỏ bản địa “bằng những thước đo dành riêng cho họ Sự diễn dịch cái hiện thực mà chúng tôi sống bằng những mô hình không phải của chúng tôi chỉ khiến chúng tôi trở nên xa lạ hơn, kém tự do tự tại hơn, và cô đơn hơn bao giờ hết“ (ltrích diễn từ của Marquez trong lễ nhận giải Nobel văn học). Người da đỏ trở nên cô đơn ngay chính trên mảnh đất quê hương mà tổ tiên để lại. Họ cô đơn không phải một ngày, mà là hàng ba trăm năm.Và ngày nay vẫn sống cô đơn trong xã hội Colombia hiện đại.
Người Colombia ngày nay xuất thân từ ba nhóm chủng tộc: người Indian bản xứ, người gốc Phi, người Tây Ban Nha.. Theo thống kê năm 1989, trong 31 triệu 200.000 người của nước Colombia thì 58% là người lai giữa Indian và Tây Ban Nha (gọi là mestizo), 20% người da trắng, 14%người da trắng lai da đen, 7% người da đen và người da đen lai da trắng, 1% người Indian bản xứ. Những bộ tộc Indian bản xứ còn sống sót sau 300 năm thực dân Tây Ban Nha bị xua đuổi tới những vùng xa xôi , khó canh tác, từ chỗ là chủ nhân ông vùng đất ngày nay gọi là Colombia họ trở thành nhóm thiểu số (1% dân số) , phải sống cô đơn thành từng nhóm rải rác, cô lập trong những vùng mà không ai thâm nhập vào được: bộ lạc thổ dân Quimbaya sống ở sườn phía tây của dãy núi Cordillera Central. Các bộ lạc khác như Chibcha (chiếm 1/3 dân số thời kỳ tiền Colombia), bộ lạc Carib, bộ lạc Yagua, bộ lạc Motilón, bộ lạc Chimila , bộ lạc Sanha sống rải rác ở miền đông đất nước hay ở bán đảo Guajira.
Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=12272&LOAIID=21&LOAIREF=1&TGID=2093