20062025Fri
Last updateTue, 17 Jun 2025 6pm

Sách Hán Nôm lưu giữ ở Leiden ( Hà Lan)

(Trương Văn Bình, TC Han Nom 2/ 1992)

Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam đã bắt đầu hợp tác với Trường Viễn Đông bác cổ Pháp (Paris) trong một dự án xuất bản bộ thư mục sách Hán Nôm lưu giữ ở Việt Nam và bên ngoài Việt Nam. Điều này đã động viên tôi viết một chuyên luận ngắn về số sách Hán Nôm khiêm tốn được lưu giữ ở Leiden mà tôi đã tập hợp được trong suốt thời gian nghiên cứu ở Viện Hán học (Hà Lan). Mặc dầu số sách Hán Nôm ở Leiden không nhiều, độ 38 tên sách, tuy nhiên chúng có giá trị rất lớn vì đó là những bản rất hiếm và duy nhất.

Về lĩnh vực các tác phẩm lịch sử, có một vài bản thảo duy nhất còn may mắn giữ được như: Tỉnh hạt đinh điền hiệu mục, Tỉnh hạt hạ đông thuế lệ. Một bản thảo khác, tập Vãng An Nam nhật ký (Nhật ký đi An Nam), do một người Trung Quốc viết trong dịp sang Việt Nam năm 1890 nhưng vì nó rất quan trọng trong việc tìm hiểu nước Việt Nam hồi bấy giờ, nên tôi đưa vào danh mục sách giới thiệu ở dưới. Lại còn những bản in hiếm hoi của các bộ Đại Nam quốc sử diễn ca, Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí, Hoàng Việt địa dư chí...

Những tác phẩm văn học hầu hết được viết bằng chữ Nôm. Chúng ta có thể chia thành hai nhóm: một nhóm viết theo thể lục bát (một thể thơ theo luật câu 6 câu 8 rất phổ biến ở Việt Nam), nhóm khác viết theo thể hát (tuồng). Thể lục bát như Kim Vân Kiều tân truyện do Duy Minh Thị xuất bản năm 1872, là một xuất bản phẩm chưa ai biết tới, và cũng là một trong những ấn phẩm sớm nhất nay còn giữ được. Cho đến nay, bản in đó vẫn chưa thu hút sự chú ý của các học giả về văn học Việt Nam. Những tác phẩm truyện Nôm bình dân khác đã trở nên rất hiếm như Phan Trần truyện, Bạch Thử thư tập, Lâm Sinh Lâm Thụy truyện, Dương Ngọc cổ tích, Hứa Sử tân thư, Phú bần truyện , v.v... Những tác phẩm tuồng như Kim Long Xích Phụng toàn tập, Tây du diễn ca, Phong thần ấp bá khảo(2), Tam quốc chí Quốc ngữ là những bản in hiếm. Những tác phẩm văn vần hoặc hát tuồng này gợi mở những sự thực thú vị trong giai đoạn văn học rực rỡ của văn học bình dân cũng như lối hát tuồng Nôm truyền thống ở Việt Nam vào thế kỷ XIX.

Về những tác phẩm truyền giáo, có một số sách quan trọng như: Hội đồng Tứ giáo danh sư, Chân đạo yếu lý, Thánh giáo Quốc ngữ và Sách ngẫm ba mươi mốt điều. Những tác phẩm này có thể viết vào nửa đầu thế kỷ XIX hoặc sớm hơn, trước khi chữ Quốc ngữ được dùng để thay thế chữ Hán và chữ Nôm ở Nam Kỳ sau năm 1858.

Về tạp chí, Viện Hán học có một tập Gia Định báo rất quý hiếm. Đây là tờ Tạp chí Việt Nam viết bằng chữ Hán cổ nhất và có lẽ là bộ duy nhất còn giữ được đến nay. H. Cordier không ghi xuất bản phẩm này trong Thư mục Đông Dương (Paris, 1912-15) của ông, và theo M.Durant trong Dẫn luận về văn học Việt Nam (Introduction à la littérature Vietnamienne, Paris, 1969) thì Gia Định báo xuất hiện ở Sài Gòn vào năm 1865, in bằng chữ Quốc ngữ (tr.139) mà không đề cập tới xuất bản phẩm bằng chữ Hán.

Về những sách giáo khoa cho những lớp sơ học trong nền giáo dục truyền thống Việt Nam, có một vài tác phẩm như Trạng nguyên ấu học thi, ấu học thi diễn nghĩa, Huấn mông nhất khúc ca, Tam tự kinh diễn nghĩa, Thiên tự văn diễn nghĩa v.v...

Sau nữa, tôi xin nêu những điểm dưới đây:

- Hầu hết những sách này được lưu giữ ở Thư viện của Viện Hán học, trường Đại học Quốc gia Leiden, trừ một quyển Hứa sử tân thư ở trường đại học Kern.

- Để ghi niên đại của sách, tôi sử dụng phương pháp sau đây. Trước hết, nếu tên của năm xuất bản có ghi ở sách, tôi chuyển năm can chi là lối tính niên đại truyền thống của Việt Nam sang năm Dương lịch. Thứ nữa, tôi ghi kiểu chữ Hán hoặc chữ Nôm và tên nhà xuất bản.

- Ngoài những bản thảo và tác phẩm theo chủ đề lịch sử đã nói ở trên, nhiều sách lịch sử Việt Nam do tác giả Việt Nam viết như Việt sử lược, An Nam chí lược, và Nam Ông mộng lục đã được đưa vào các bộ sưu tập của Trung Quốc thì không đưa vào danh mục sách dưới đây.

- Tất cả tên sách đều sắp xếp theo chữ cái Latinh.

Nhân đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới Viện Hán học đã cho phép tôi điều tra sách Hán Nôm trong Thư viện của Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

1. Ấu học thi diễn nghĩa: , Hán Nôm, lục bát, số 993, khổ 25x15cm, 10 tờ. Mỗi mặt chia làm hai phần. Phần trên có 7 dòng, mỗi dòng có 5 chữ. Phần dưới 14 dòng, mỗi dòng 6 hoặc 8 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Ấu học thi diễn nghĩa

Bên phải: Phan Thành Phước Trai tiên sinh trước (Phước Trai ở Phan Thành viết). Việt Đông trấn, Phước Lộc nhai Thiên Bảo Lâu tử hành.

(Thiên Bảo lâu, phố Phước Lộc, Quảng Đông khắc in).

Bên trái: Quảng Đông nhai, Quảng Thạch Nam bản (Quảng Thạnh Nam đường Quảng Đông xuất bản).

Một quyển sách giáo khoa cho học trò, bài học bằng chữ Hán, lời giải thích bằng chữ Nôm viết theo thể thơ lục bát. Không ghi năm in. Có thể là ấn phẩm của thế kỷ XIX.

Trên trang đầu có ghi: Việt Đông Phật Trấn Văn Nguyên Đường bản (Văn Nguyên Đường, Phật Trấn, Quảng Đông xuất bản).

2. Bạch thử thư tập: , Nôm, lục bát, 1875, Số 5157; 7 và 5157.7b; khổ 14x23cm, 16 tờ . Mỗi mặt có 10 dòng, mỗi dòng có 14 chữ.

Trang tên sách:

Phía trên: ất Hợi niên tân san (in mới năm ất Hợi, 1875).

Giữa: Bạch thử thư tập (chuyện một con chuột trắng).

Bên phải: Dương Đức hiệu đính chính tại Đề Ngạn Quảng Hạo Nguyên Điếm phát thụ (phát hành tại Đề Ngạn Quảng Hạo Nguyên Điếm, Chợ Lớn).

Bên trái: Việt Đông Phật Sơn Phước Lộc đại nhai Kim Ngọc Lâu tàng bản (Kim Ngọc Lâu, phố Phước Lộc, Phật Sơn, Quảng Đông xuất bản).

Truyện thơ Nôm bình dân, chưa rõ tác giả.

3. Chân đạo yếu lý: Nôm, 1868, số 1987, khổ 24x18cm, 231 tờ. Mỗi mặt có 8 dòng, mỗi dòng 14 chữ.

Tờ đầu: Mặt 1: Chân đạo yếu lý.

Mặt 2:

Giữa: Thiên chúa giáng sinh nhất thiên bát bách lục thập thất niên (năm 1867).

Bên phải: Chân đạo yếu lí Quốc ngữ

Bên trái: Đinh Mão niên Gia Định trùng thuyên (In lại năm Đinh Mão tại Gia Định).

Tờ cuối: Mặt 1: 1 tranh minh hoạ với câu: Minh biện tà chính (phân biệt rõ chính tà).

Mặt 2: Thiên chúa giáng sinh nhất thiên bát bách lục thập bát niên (năm 1868).

Quyển sách về giáo lý, chưa rõ tác giả, gồm 9 bài nói về cuộc đời chúa Giêsu, sự sáng tạo ra trời và đất, vấn đề sống và chết.

4. Dương Ngọc cổ tích: , Nôm, lục bát, số 5994, khổ 25x15cm, 25 tờ. Mỗi mặt có 10 dòng, mỗi dòng có 22 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Dương Ngọc cổ tích

Bên phải: Minh Chương tiên sinh trước (Minh Chương tiên sinh viết).

Việt Đông tỉnh Phật trấn Phước Lộc đại nhai Thiên Bảo Lâu tử hành (Thiên Bảo Lâu, phố Phước Lộc, Phật trấn, Quảng Đông khắc in).

Bên trái: Quảng Đông nhai, Quảng Thạnh Nam tàng bản (Quảng Thạnh Nam phố Quảng Đông xuất bản).

Một truyện thơ Nôm, không ghi niên đại, nhưng qua kiểu chữ và nhà xuất bản, chúng tôi có thể đặt ấn phẩm này vào nửa sau của thế kỷ XIX. ở trang đầu, dòng dưới tên sách có ghi: Việt Đông Phật Trấn Phước Lộc đại nhai Văn Nguyên Đường tử hành (Văn Nguyên Đường, phố Phước Lộc, Phật Trấn Quảng Đông khắc in). Văn Nguyên Đường và Thiên Bảo Lâu ở cùng một đường phố. Có lẽ chúng có chung một người sở hữu, hoặc Thiên Bảo Lâu đã mua những ván khắc cũ của sách này từ Văn Nguyên Đường và sau đó bán chúng cho Quảng Thạnh Nam. Việc này cho thấy quyển sách này được in từ ván khắc của lần xuất bản cũ hơn.

5. Đại Nam Pháp hòa ước: , Tháng 3 năm 1874, bản chữ Hán, số 4813.4.1, khổ 26x14cm, 16 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 7 dòng, mỗi dòng có 24 chữ.

Trang tên sách: Đại Nam Pháp hòa ước.

Một bản sao lại nguyên văn hòa ước. Hiệp nghị này do đại biểu Việt Nam Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường và đại biểu Pháp Dupré ký ngày 27 tháng giêng năm Tự Đức 27 (15 tháng 3 năm 1874) đã thừa nhận “quyền thống trị đầy đủ và hoàn toàn” của nước Pháp ở Nam Kỳ và những quyền lợi về chính trị và kinh tế khác.

6. Đại Nam quốc sử diễn ca: , Hán Nôm, lục bát, 2 bản:

A/ Số 3545, khổ 26x15cm, 70 tờ (1 + 4 + 65). Mỗi mặt của một tờ chia làm hai phần: phần trên là nguyên văn chữ Hán, 12 dòng, mỗi dòng 14 chữ. Phần dưới là thơ Nôm, 8 dòng, mỗi dòng 14 chữ. Chỗ trống phía trên cùng, còn có những chú thích.

Trang tên sách:

Giữa: Đại Nam quốc sử diễn ca.

Bên phải: Tự Đức nhị thập tam niên Canh Ngọ hạ (mùa hạ năm Tự Đức 23) (1870).

Bên trái: Trí Trung Đường tàng bản (Trí Trung Đường xuất bản).

B/ Số 5803.6, khổ 24x15cm, 70 tờ (1+4+65). Sự sắp xếp của mỗi tờ, số dòng và số chữ mỗi dòng cũng giống như bản A:

Giữa: Đại Nam quốc sử diễn ca.

Phía trên: Đồng Trị Giáp Tuất niên tân san (In lại năm Giáp Tuất niên hiệu Đồng Trị, 1874).

Bên phải: Tại Đề Ngạn Hòa Nguyên Thạnh phát khách (Hòa Nguyên Thạnh, Chợ Lớn phát hành).

Bên trái: Gia Định thành Duy Minh thị phó tử (Duy Minh Thị thành Gia Định đưa khắc in). Việt Đông Phật Trấn Phước Lộc đại nhai Kim Ngọc Lâu tàng bản (Kim Ngọc Lâu, phố Phước Lộc, Phật Trấn, Quảng Đông xuất bản).

Đây là một quyển lịch sử Việt Nam viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát của Lê Ngô Cát, một tác gia thế kỷ XIX, kể chuyện từ khi mở đầu lịch sử đến khi kết thúc triều đại Tây Sơn.

7. Gia Định báo , Hán, 1866, 1867, 1868, khổ 22x12cm. Chỉ có 3 số đóng trong một tập.

A/ Số tháng 8 năm Bính Dần (1866): 19 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 9 dòng, mỗi dòng có 20 chữ.

B/ Số 8 của tháng 12 năm Đinh Mão (1867): 4 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 8 dòng, mỗi dòng có 23 chữ.

C/ Số 1 của tháng tư năm Kỷ Tỵ (1869), 8 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 9 dòng, mỗi dòng có 22 chữ.

Đầu đề: Gia Định báo.

Tờ tạp chí cổ nhất của Việt Nam viết bằng chữ Hán được xuất bản ở Gia Định theo lệnh của chính phủ thực dân Pháp ở Nam Kỳ. Tờ báo bao gồm những thông báo, báo cáo, hoạt động của chính quyền thực dân Pháp những năm ấy. Đó là xuất bản phẩm rất hiếm.

8. Hiệp Kỷ lịch: , Hán, 1883, số 3545, khổ 24x13cm, 20 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 16 dòng, mỗi dòng có 53 chữ.

Trang t ên sách:

Đại Nam Tự Đức tam thập niên tuế thứ Mùi Hiệp kỷ lịch (Lịch của nước Đại Nam năm Quý Mùi, niên hiệu Tự Đức 36).

Trang 1: Đô thành Thừa Thiên phủ Tiết khí thần khắc (Thời khắc, Tiết khí phủ Thừa Thiên, Kinh Đô)(3).

Đây là một quyển lịch truyền thống của Việt Nam do đài thiên văn định ra và được vua ban bố. Trang đầu có dấu của Khâm thiên giám (đài thiên văn) và tờ cuối cùng có ghi tên những người biên soạn.

9. Hoàng Việt dư địa chí: 輿 , Hán, 1872, số 3546, khổ 23x16cm. Hai sách đóng vào một tập:

Sách 1: 69 tờ. Sách 2: 48 tờ. Mỗi mặt của một tờ có 9 dòng, mỗi dòng 21 chữ. Chú thích ở khỏang trống phía trên.

Trang tên sách:

Phía trên: Tuế tại Nhâm Thân niên tân thuyên (In năm Nhâm Thân, 1872).

Giữa: Hoàng Việt địa dư chí.

Bên phải: Minh Mệnh thập tứ niên trước (biên soạn năm Minh Mệnh 14, 1833).

Tại Đề Ngạn Hòa Nguyên Thạnh phát khách (Hòa Nguyên Thạnh, Chợ Lớn phát hành).

Một tác phẩm địa lý quan trọng của Việt Nam, chưa rõ tác giả. ở mặt sau của tờ đầu, có lời tựa của Duy Minh Thị cho in lần này ở Gia Định, năm 1872).

10. Hoàng Việt luật lệ: , Hán, 1813, Số 4888.54.1 và 4888.54.2, khổ 32x21cm.

Trang tên sách:

Phía trên: Gia Long thập nhị niên ban hành (Ban hành năm Gia Long 12) (1813).

Giữa: Hoàng Việt luật lệ

Một bản in lần đầu rất đẹp, đóng thành 4 tập, 22 chương. Bao gồm luật dân sự, luật hành chính, luật lễ nghi, luật quân sự và luật tội phạm. Bộ luật được xuất bản theo lệnh của Hoàng đế.

11. Hội đồng tứ giáo danh sự: Nôm, không ghi niên đại, không ghi nơi xuất bản. Số 1980, khổ 26x14cm, 35 tờ. Mỗi mặt có 9 dòng, mỗi dòng có 30 chữ.

Tên sách ở trang thứ nhất: Hội đồng tứ giáo danh sư.

Một quyển sách hỏi đáp giáo lý viết dưới dạng một cuộc thảo luận giữa một tín đồ Công giáo, một nhà Nho, một người theo Đạo giáo, do một người theo đạo Thiên chúa, chưa rõ tên, viết. Trong sách này, cuộc hội nghị được tiến hành vào đời Cảnh Hưng (1740-1786) nhà Lê và dưới thời Tĩnh Đô Vương (Trịnh Sâm: 1767 - 1781) của họ Trịnh. Sách có lẽ được viết vào nửa cuối thế kỷXVIII.

12. Hứa Sử tân thư: 使 , Nôm, lục bát, 1879, số 1803 (trong Thư viện của Viện Kern, Trường Đại học Tổng hợp Leiden), 35 tờ. Mỗi mặt của một tờ có mười dòng, mỗi dòng có 14 chữ.

Trang tên sách:

Phía trên: Quang Tự Kỷ Mão niên tân khắc (khắc mới vào năm Kỷ Mão niên hiệu Quang Tự, 1879).

Giữa: Hứa Sử tân thư.

Bên phải: Dương Đức Thị đính chính.

Tại Đề Ngạn đại thị Hòa Nguyên Thạnh phát thụ (Hòa Nguyên Thạnh, Chợ Lớn phát hành).

Bên trái: Thượng quyển, Việt Đông Trần thôn Vĩnh Hòa Nguyên tàng bản.

(Quyển 1. Trung Hòa Nguyên, thôn Trần, Quảng Đông xuất bản).

Truyện thơ lục bát, chưa rõ tác giả.

13. Huấn mông nhất khúc ca: , Hán Nôm, lục bát, Số 5803.6 khổ 23x13cm, 29 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 5 dòng. Mỗi dòng 14 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Huấn mông nhất khúc ca.

Bên phải: Thiệu Trị niên Quảng Nam Cử nhân Nguyễn Đắc Thuyên soạn (Cử nhân Nguyễn Đắc Thuyên ở Quảng Nam soạn năm Thiệu Trị, 1840-1847).

Bên trái: Cận Văn Đường tàng bản. Hòa Nguyên Thạnh phát thụ (Cận Văn Đường xuất bản. Hòa Nguyên Thạnh phát hành).

Sách giáo khoa sơ học. Có hai chương. Mỗi chương gồm 1 bảng từ, hơn 1 ngàn chữ Hán và nghĩa của chúng bằng chữ Nôm. Những chữ Hán và chữ Nôm này được sắp xếp xen kẽ, để giúp học trò Việt Nam học chữ Hán.

14. Kim Long Xích Phụng toàn tập: , Nôm, số 5727.15 và 5727.16, khổ 25x16cm, 52 tờ. Mỗi mặt có 9 dòng, mỗi dòng 20 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Kim Long Xích Phụng toàn tập.

Bên phải: Đề Ngạn Hòa Nguyên Thạnh phát thụ (Hòa Nguyên Thạnh Chợ Lớn phát hành).

Bên trái: Việt Đông Phật Trấn Cận Văn Đường tàng bản (Cận Văn Đường, Phật Trấn, Quảng Đông xuất bản).

Một tác phẩm tuồng rất phổ biến, chưa rõ tác giả. Không ghi niên đại, có thể là một bản in ở thế kỷ XIX, là một bản in rất hiếm.

15. Kim Vân Kiều lục: Hán, 1876, Số 5803.6, khổ 25x15cm, 82 tờ. Mỗi mặt của một tờ có 10 dòng, mỗi dòng có 24 chữ.

Trang tên sách:

Phía trên: Tự Đức Bính Tý Mạnh thu tân thuyên (Khắc in mới vào tháng đầu thu năm Bính Tý, Niên hiệu Tự Đức, 1876).

Giữa: Kim Vân Kiều lục.

Bên phải: Phước Bình Lê Thị phiên khắc.

Bên trái: Hà Nội Cổ Vũ Cẩm Văn Đường tàng bản (Cẩm Văn đường, Cổ Vũ, Hà Nội xuất bản)

Tóm tắt câu chuyện Kim Vân Kiều trong văn học Trung Quốc.

Một bài thơ của Phạm Quý Thích ở trang đầu.

16. Kim Vân Kiều tân truyện: , Nôm, lục bát, 1872, Số 5803.6, khổ 20x12cm, 83 tờ. Mỗi mặt của một tờ có 10 dòng. Mỗi dòng có 14 chữ.

Trang tên sách:

Phía trên: Nhân Thân niên tân thuyên (Khắc in mới năm Nhâm Thân, 1872).

Giữa: Kim Vân Kiều Tân truyện

Bên phải: Tiên Điền Lễ Tham Nguyễn Hầu soạn (Nguyễn Hầu, Tham tri Bộ Lễ, người Tiên Điền soạn).

Bên trái: Việt Đông Phật Trấn Phước Lộc đại nhai Kim Ngọc Lâu phát đoái (Kim Ngọc Lâu, phố Phước Lộc, Phật trấn, Quảng Đông phát hành).

Trang cuối: Thiên tử vạn vạn niên tuế tại Nhâm Thân xuân Nam Việt Gia Định thành cư sỹ Duy Minh Thị trùng san (Cư sỹ Duy Minh Thị thành Gia Định, Nam Việt in lại vào năm Nhâm Thân trong muôn vàn năm của Thiên tử).

Một tác phẩm văn học lớn của Việt Nam, được viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ lục bát của Nguyễn Du (1766-1820), mở đầu bằng một bài thơ của Phạm Quý Thích. Đây là một bản in rất hiếm và là một trong những bản sớm nhất còn giữ được đến ngày nay. Cho tới nay, bản này vẫn chưa được các học giả về văn học Việt Nam biết tới.

17. Lâm Sinh Lâm Thụy truyện: , Nôm, lục bát, 1876, số 5994, khổ 25x16cm, 82 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 10 dòng, mỗi dòng có 14 chữ.

Trang tên sách:

Phía trên: Bính Tý niên tân san (khắc in mới năm Bính Tý).

Giữa: Lâm Sinh Lâm Thụy truyện

Bên phải: ý Phong hiệu đính chính (Hiệu ý Phong đính chính).

Đề Ngạn đại thị Quảng Thạnh Nam phát thụ (Quảng Thạnh Nam, Chợ Lớn phát hành).

Bên trái: Việt Đông Tỉnh, Phật Sơn Trấn, Cận Văn Đường tàng bản (Cận Văn Đường, trấn Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông xuất bản).

Một truyện thơ Nôm lục bát, chưa rõ tác giả.

18. Lý Công tân thư:

Nôm, lục bát, 1876, số 5994, khổ 25x16cm, 37 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 10 dòng, mỗi dòng có 14 chữ.

Trang tên sách:

Phía trên: Bính Tý niên tân san (khắc in mới vào năm Bính Tý, 1876).

Giữa: Lý Công tân thư.

Bên phải: Dương Minh Đức Thị soạn (Dương Minh Đức soạn). Đề Ngạn Hòa Nguyên Thái phát thụ (Hòa Nguyên Thái Chợ Lớn phát hành).

Bên trái: Việt Đông Trần Thôn Vĩnh Hòa Nguyên tàng bản (Vĩnh Hòa Nguyên, thôn Trần, Quảng Đông xuất bản).

Một truyện thơ bình dân, viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát.

19. Lý Công tân truyện: , Nôm, lục bát, 1879, số 5157.10, khổ 19x13cm, 36 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 10 dòng, mỗi dòng 14 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Lý Công tân truyện

Bên phải: Tự Đức Kỷ Mão xuân (Mùa xuân năm Kỷ Mão, niên hiệu Tự Đức, 1879).

Bên trái: Thành Văn Đường tàng bản (Thành Văn Đường xuất bản).

Một truyện thơ bình dân viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ lục bát. Tờ cuối bị mất. Không ghi tên tác giả. Nhưng từ đặc điểm là bản này rất giống với Lý Công tân thư và những chỗ khác nhau chỉ ở số từ và số dòng, chúng tôi có thể nói rằng hai sách này do cùng một tác giả viết. Nhưng bản này đã được hiệu đính.

20. Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí: 輿 , Hán, Duy Minh thị soạn, Gia Định, 1872, số 3034, khổ 23x16cm, 52 tờ. Mỗi mặt của một tờ có 9 dòng, mỗi dòng có 22 chữ.

Trang tên sách:

Phía trên: Nhâm Thân niên tân thuyên (Khắc in mới năm 1872).

Giữa: Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí (Địa dư 6 tỉnh của Nam Kỳ).

Bên phải: Duy Minh Thị soạn.

Tại Đề Ngạn đại thị, Quảng Thạnh Nam phát khách (Quảng Thạnh Nam, Chợ Lớn phát hành).

Sách địa dư 6 tỉnh của miền Nam Việt Nam, do Duy Minh Thị biên soạn năm 1872. Bài tựa do tác giả viết cùng năm ấy.

21. Nữ tắc diễn âm: , Nôm, lục bát, 1868, số 5157.8, khổ 19x13cm, 18 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 9 dòng, mỗi dòng 14 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Nữ tắc diễn âm.

Bên phải: Tự Đức Mậu Thìn Mạnh thu tân soạn (Khắc in mới vào tháng đầu thu (tháng 7) năm Mậu Thìn, niên hiệu Tự Đức, 1868).

Bên trái: Thạnh Văn Đường tàng bản.

Một cuốn sách gối đầu giường của nhà Nho dành cho phụ nữ, chưa rõ tác giả. Sách được viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ lục bát.

22. Phan Trần truyện: , Nôm, lục bát, 1867, số 5157.9, khổ 18x13cm, 21 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 12 dòng, mỗi dòng có 14 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Phan Trần truyện.

Bên phải: Tự Đức Tân Mão thu tân san (khắc in mới vào mùa thu năm Tân Mão niên hiệu Tự Đức, 1867). Bên trái: Thịnh Văn Đường tàng bản (Thịnh Văn Đường xuất bản).

Một tiểu thuyết bằng thơ quen biết, viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ lục bát, chưa rõ tác giả. Tác phẩm này cùng với Kim Vân Kiều tân truyện Hoa Tiên truyện trở thành ba tác phẩm văn học Việt Nam thế kỷ XIX được đánh giá cao nhất. Có lẽ đây là bản in sớm nhất còn giữ lại được.

23. Phong thần ấp bá khảo toàn tập: t , Nôm. Không rõ niên đại. Số 5768 Feng Shen 6, khổ 25x16cm, 18 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 10 dòng, mỗi dòng có 22 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Phong thần ấp bá khảo toàn tập

Bên phải: Quảng Đông nhai Hòa Nguyên Thạnh phát thụ (Hòa Nguyên Thạnh, phố Quảng Đông phát hành).

Bên trái: Quảng Đông Phật Trấn Cận Văn Đường bản (Cận Văn Đường Phật Trấn Quảng Đông xuất bản).

Một vở tuồng viết bằng chữ Nôm, chưa rõ tác giả, không ghi niên đại. Có thể là ấn phẩm của thế kỷ XIX.

24. Phú bần truyện diễn ca: , của Trương Minh Ký. Nôm, lục bát, 1885, số 1681, khổ 24x15cm, 19 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 10 dòng, mỗi dòng 14 chữ.

Trang tên sách:

Phía trên: ất Dậu niên trùng san (In lại vào năm ất Dậu, 1885).

Giữa: Phú bần truyện diễn ca.

Bên phải: Gia Định tỉnh thành Trương Minh Ký soạn.

Một truyện bình dân viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ lục bát của Trương Minh Ký. Mở đầu bằng 4 bài thơ Đường luật của Phan Công Thành, Trần Đông, Văn Bội Nguyên và Nguyễn Tường Thụy. ở trang cuối có ghi: Gia Định Giáp Thân niên cửu nguyệt sơ nhất nhật Trương Minh Ký (Trương Minh Ký ngày 1 tháng 9 năm Giáp Thân, 1884, ở Gia Định).

25. Sách ngẫm ba mươi mốt điều: , Nôm, 1868, số 1960, khổ 26x14cm, 75 tờ (1+2+72). Mỗi mặt của 1 tờ có 9 dòng, mỗi dòng 25 chữ.

Tên sách ở trang đầu: Sách ngẫm ba mươi mốt điều.

Trên trang cuối: Gia Định trùng thuyên tân bản, tuế thứ Mậu Thìn niên tạo (Khắc in lại bản mới ở Gia Định vào năm Mậu Thìn, 1868).

Một cuốn sách suy ngẫm; lời tựa và nguyên văn bằng chữ Nôm. Sách gồm 31 phần, mỗi phần chia làm ba đoạn, chưa rõ tác giả. Trong lời tựa tác giả nói rằng sách này được biên soạn vào năm 1746.

26. Tam quốc chí Quốc ngữ: , Nôm, số 5751.16, khổ 21x15cm, 2 sách, 39 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 10 dòng, mỗi dòng 22 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Tam quốc chí Quốc ngữ Thượng, hạ.

Bên phải: Quảng Đông nhai Hòa Nguyên Thạnh phát thụ (Hoà Nguyên Thạnh, phố Quảng Đông phát hành).

Bên trái: Quảng Đông Phật Trấn, Cận Văn Đường bản (Cận Văn Đường, Phật Trấn, Quảng Đông xuất bản).

Một vở tuồng Nôm chưa rõ tác giả. Không ghi niên đại, có thể là ấn phẩm thế kỷ XIX. Hai sách này có 4 chương từ “Tam cố mao lư” (Ba lần tới thăm nhà tranh), đến “Đương Dương Trường Bản” (Trận đánh lớn ở dốc Trường Bản). Là một bản hiếm.

27. Tam Quốc chí Quốc ngữ bản:

, Nôm, 1880, số 5754.16, khổ 24x15cm, 25 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 9 dòng, mỗi dòng có 24 chữ.

Trang tên sách:

Phía trên: Quang Tự Canh Thìn niên trùng khắc (Khắc in lại năm Canh Thìn, niên hiệu Quang Tự, 1880).

Giữa: Tam Quốc chí Quốc ngữ bản.

Bên phải: Trùng Phước hiệu (Hiệu Trùng Phước). Sách Kinh Châu chí cầu hôn Giang Tả (từ hồi Đòi Kinh Châu sang Giang Đông cầu hôn).

Bên trái: Phật Trấn Phước Lộc đại nhai Văn Nguyên Đường tàng bản (Văn Nguyên Đường phố Phước Lộc, Phật Trấn xuất bản).

Một vở tuồng Nôm của Trùng Phước. Tác giả của tác phẩm này có lẽ đồng thời cũng là tác giả của Tam quốc chí Quốc ngữ. Là một văn bản hiếm.

28. Tam tự kinh diễn nghĩa: , Hán Nôm, lục bát, số 5161, khổ 21x15cm, 17 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ chia làm 2 phần, phần trên có 6 dòng, mỗi dòng có 6 chữ, phần dưới có 12 dòng, mỗi dòng có 6 hoặc 8 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Tam tự kinh diễn nghĩa.

Bên phải: Phan Thành Phước Trai tiên sinh trước (Phước Trai ở Phan Thành biên soạn).

Việt Đông Trấn Phước Lộc đại nhai Thiên Bảo Lâu tử hành (Thiên Bảo Lâu phố Phước Lộc, Trấn Việt Đông khắc in).

Bên trái: Quảng Đông nhai Quảng Thạnh Nam bản (Quảng Thạnh Nam phố Quảng Đông xuất bản).

Sách giáo khoa sơ học có giải thích bằng chữ Nôm theo thể thơ lục bát. Không ghi niên đại. Có thể là một bản in của thế kỷ XIX. Phần trên là nguyên văn chữ Hán, phần dưới là giải thích bằng thơ Nôm. ở trang đầu có ghi: Việt tỉnh, Phật Trấn Văn Nguyên Đường bản (Văn Nguyên Đường Phật Trấn, tỉnh Quảng Đông xuất bản).

29. Tân đính vạn sự bất cầu nhân thư: , Hán, 1873, số 5994, khổ 25x14cm, 26 tờ. Mỗi mặt có 16 dòng, mỗi dòng có 19 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Tân đính vạn sự bất cầu nhân thư.

Bên phải: Tự Đức Quý Dậu mãn nguyệt hạ hoãn tân san (Khắc in mới vào hạ tuần tháng năm năm Quí Dậu niên hiệu Tự Đức, 1873).

Thạch Văn Đường tàng bản (Thạnh Văn Đường xuất bản).

Bên trái: Tăng bổ Ngọc hạp thông thư, chiêm nhật nguyệt, cát hung, lục thập Giáp Tý (Bổ sung thêm các phần Ngọc hạp thông thư, xem mặt trời mặt trăng đoán lành dữ. 60 Giáp Tý).

Một quyển sách chiêm tinh học và lịch số. Có một phần về những ngày sinh của các Đức Phật, Đức Bồ Tát và các vị thần, chưa rõ tác giả.

30. Tây du diễn ca nhị bản 西 , của Duy Minh Thị. Nôm, 1878, Số 5727.13, khổ 15x23cm, 18 tờ. Mỗi mặt của một tờ có 10 dòng, mỗi dòng có 30 chữ.

Trang tên sách:

Phía trên: Mậu Dần tân niên tẩm (Khắc in mới năm Mậu Dần; 1878).

Giữa: Tây du diễn ca nhị bản

Bên phải: Gia Định Duy Minh Thị soạn, xuân nguyệt thành vu Tây Ninh thự (Duy Minh Thị ở Gia Định biên soạn, hoàn thành ở công sở Tây Ninh vào tháng mùa xuân). Đề Ngạn Hòa Nguyên Thạnh Phát thụ (Hòa Nguyên Thạnh, Chợ Lớn phát hành).

Bên trái: Việt Đông Trần thôn, Vĩnh Hòa Nguyên tàng bản (Vĩnh Hòa Nguyên, thôn Trần, Quảng Đông xuất bản).

Một vở tuồng Nôm, một văn bản hiếm.

31. Thánh giáo quốc ngữ , Gia Định, 1866. Viết bằng chữ Nôm, có lời tựa bằng chữ Hán. Số 1987.2, khổ 24x13cm, 59 tờ (1+1+1+4+52). Mỗi mặt của một tờ có 8 dòng, mỗi dòng 15 chữ. Có hai tranh vẽ minh họa.

Tờ đầu mặt thứ nhất:

Giữa: Thánh giáo Quốc ngữ.

Bên phải: Bính Dần niên cát nhật (Ngày lành năm Bính Dần: 1866).

Bên trái: Gia Định thành trùng thuyên (In lại tại Gia Định).

Mặt thứ hai:

Giữa: Thánh giáo yếu lý Quốc ngữ.

Bên phải: Thượng thiên vinh phước ư đại Chủ (trên trời ban vinh quang và hạnh phúc cho Chúa vĩ đại).

Bên trái: Hạ địa an hòa ư thiện nhân (dưới đất ban yên ổn cho người lành).

Tờ cuối, mặt thứ hai: Nhĩ hà nhất thể đồng tín (gần xa một thể cùng tin).

Một cuốn sách hỏi đáp giáp lý, viết bằng chữ Nôm. Sách có 16 phần về truyền dạy đạo Thiên Chúa và những lời cầu nguyện. Chưa rõ tác giả.

32. Thiên tự văn diễn nghĩa: , Hán Nôm, lục bát số 5161, khổ 21x15cm, 18 tờ. Mỗi mặt của một tờ chia làm hai phần: phần trên có 6 dòng, mỗi dòng 8 chữ. Phần dưới 12 dòng, mỗi dòng 6 hoặc 8 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Thiên tự văn diễn nghĩa.

Bên phải: Phan Thành Phước Trai tiên sinh trước (Phước Trai tiên sinh ở Phan Thành biên soạn).

Việt Đông Trấn Phước Lộc nhai Thiên Bảo Lâu tử hành (Thiên Bảo lâu, phố Phước Lộc, Quảng Đông khắc in).

Bên trái: Quảng Đông nhai Quảng Thạnh Nam bản (Quảng Thạnh Nam, phố Quảng Đông xuất bản).

Một quyển sách tập viết chữ không ghi niên đại. Có thể là ấn phẩm của thế kỷ XIX. ở phần trên, ngoài nguyên văn chữ Hán, có ghi nghĩa của mỗi chữ bằng chữ Nôm cho 152 chữ đầu. ở phần dưới, phần giải thích bằng chữ Nôm, được viết theo thể thơ lục bát. ở trang đầu sách có ghi: Việt Đông Phật Trấn, Văn Nguyên Đường bản (Văn Nguyên Đường, Phật Trấn Quảng Đông xuất bản).

33. Tỉnh hạt đinh, điền hiệu mục. , Hán bản chép tay, 1881, số 4415.41, khổ 32x19cm, 58 tờ. Mỗi mặt của một tờ có 8 dòng, mỗi dòng có 30 chữ.

Trang tên sách: Tỉnh hạt đinh, điền hiệu mục

Một bản ghi về nhân khẩu, binh lính, ruộng đất công, tư của các vùng sau đây: Yên Khánh, Kim Sơn, Phong Doanh, Yên Mô, Yên Hóa và Phụng Hóa vào năm Tự Đức 34 (1881). Đây là một tài liệu rất quan trọng và là một bản duy nhất còn lại tới nay.

34. Tỉnh hạt hạ đông thuế lệ: , Hán, bản chép tay, 1881, số 4591.2, khổ 24x27cm, 303 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 7 dòng, mỗi dòng có 30 chữ.

Trang tên sách: Tỉnh hạt hạ đông thuế lệ

Những ghi chép về thuế mùa hè và thuế mùa đông vào năm Tự Đức 34 (1881) của các vùng: Yên Khánh Yên Mô, Kim Sơn, Gia Viễn, ý Yên, Yên Hóa, Lạc Yên, Phụng Hóa. Đây là những tài liệu rất quan trọng và là bản duy nhất còn lại tới nay.

35. Trạng nguyên ấu học thi , Hán, Số 993, khổ 26x15cm, 14 tờ. Mỗi mặt của một tờ có 5 dòng. Mỗi dòng có 5 chữ.

Trang tên sách:

- Bên phải: Hiệu chính chích tẹ vô ngoa (Hiệu đính từng chữ Giữa: Trạng nguyên ấu học thi chữ không sai

Bên phải: Ngũ Vân lâu tàng bản (Ngũ Vân lâu xuất bản).

Một quyển sách giáo khoa cho những lớp sơ học, được dùng ở nông thôn để tăng cường tri thức văn hóa vào thế kỷ XIX. Học sinh trước khi đọc các sách kinh điển của Nho học phải bắt đầu học những sách như loại này. Sách được viết bằng chữ Hán, với thể thơ ngũ ngôn. Chưa rõ tác giả. Không ghi niên đại. Có thể là ấn phẩm thế kỷ XIX.

36. Tự học cầu tinh ca: , Đỗ Công Sở soạn. Hán, 1880, Số 5161, khổ 25x15cm, 19 tờ. Mỗi mặt của một tờ chia thành 2 phần. Phần trên gồm một bài khóa 5 dòng, mỗi dòng 8 chữ, có chú thích. Phần dưới là phần giải thích, có 12 dòng, mỗi dòng 10 chữ.

Giữa: Tự học cầu tinh ca

(Tìm một phương pháp hoàn hảo để học chữ Hán).

Bên phải: Tự Đức Canh Thìn xuân (Mùa xuân năm Canh Thìn, niên hiệu Tự Đức, 1880).

Bên trái: Phước Thọ Đường tàng bản (Phước Thọ Đường xuất bản).

Một quyển sách dạy học chữ Hán, viết bằng chữ Hán của Đỗ Công Sở là người Nam Định, đỗ Thám hoa năm 1841. Bài tựa thứ nhất được viết năm 1870, bài thứ hai viết năm 1876.

37. Tứ thể bút thức: , Hán, 1869, Số 5169, khổ 26x15cm, 14 tờ. Mỗi mặt của một tờ có 4 dòng, mỗi dòng có 8 chữ.

Trang tên sách:

Giữa: Tứ thể bút thức.

Bên phải: Tự Đức nhị thập nhị niên hạ nguyệt cát nhật tân tẩm.

(Khắc in mới vào ngày lành, tháng hạ, năm Tự Đức 22, 1869).

Bên trái: Thạnh Văn đường tàng bản (Thạnh Văn đường xuất bản).

Một cuốn thư pháp có những ví dụ bằng các bài thơ nổi tiếng viết theo 4 kiểu, của 1 tác giả chưa rõ tên.

38. Wang An Nan rìji: Trung Quốc, bản chép tay, 1890, số 3545, khổ 25x13cm, 7 tờ. Mỗi mặt của 1 tờ có 8 dòng, mỗi dòng 25 chữ.

Đầu đề trên trang nhất: Wang An nan Rìji (Nhật ký đi An Nam). Viết năm 1890, chưa rõ tên tác giả. Tác giả đi theo một viên ngoại giao Hà Lan đến Việt Nam, và đã kể lại chuyến đi của ông cùng những sự việc mắt thấy tai nghe ở Việt Nam trong thời gian ấy.

Hoàng Văn Lâu dịch